ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Năm, 19 tháng 8, 2010

Linh mục Đôminicô Trần Ngọc Lợi


Linh mục Đôminicô Trần Ngọc Lợi


-         Sinh ngày 01. 03. 1912

-         Tại Bình Sơn – Họ Búng

-         Năm 1925: Tiểu Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn

-         Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn

-          Chịu chức Cắt tóc ngày 16. 03. 1935, do Dức cha Isidore Dumortier

-         Chức Mở cửa – Portier (Chức 1)  ngày 19. 09. 1936

-         Chức Đọc sách - Lectuer  (Chức 2) ngày 13. 03. 1937

-         Chức Trừ quỷ và Cầm đèn-Exorciste & Acolyte (Chức 3 & 4) ngày 18. 09. 1937

-         Chức Phụ phó tế - Sous Diaconat (Chức 5) ngày 24. 09. 1938

-         Chức Phó tế - Diaconat (Chức 6)  ngày 25. 03. 1939 do Đức cha Phêrô Martinô Ngô Đình Thục

-         Thụ phong Linh mục 23. 09. 1939, do Đức Giám mục Phêrô Martinô Ngô Đình Thục

-         Tháng 10. 1939 – tháng 09. 1941:  Phó sở Mỹ Tho

-         Thánh 09. 1941 – tháng 10. 1942:  Cha sở họ Cai Lậy dưới quyền cha A. Keller (sở Cái Bè)

-         Tháng 10. 1942 – tháng 05. 1943: Cha sở họ Xuân Lộc và Đồn điền S. I. P. H

-          Tháng 05. 1943 – năm 1946: Cha sở họ Xuyên Mộc

-          Năm 1946 – năm 1956: Cha sở họ Tân Phước

-         Năm 1956 – năm 1997: Cha sở họ Hiệp Hòa

-         Năm 1997: Nghỉ hưu

-          Qua đời ngày 10. 02. 2000 tại Hiệp Hòa.

-         Hưởng thọ 88 tuổi. 65 năm Linh mục.

-         Mai táng tại đất thánh họ đạo Búng

·        Làm mới ngày 13. 07. 2022




Thứ Tư, 18 tháng 8, 2010

Đức Giám mục Anrê Nguyễn Văn Nam


Đức cha Anrê Nguyễn Văn Nam
Giám mục Chánh tòa Giáo phận Mỹ Tho


-         Sinh ngày 24.02.1922 
-         Tại Thị Nghè, Sài Gòn.
-         Học Tiểu Chủng viện Sài Gòn. 
-         Học Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn.
-         Thụ phong Linh mục ngày 29.03.1952
-         Linh mục giáo phận Sài Gòn
-          Năm 1952 - 1953 : Phó sở Thủ Đức
-         Năm 1953 - 1954: Phó sở An Đức
-         Năm 1954 - 1972: Chánh sở Bình Trưng, Đông Hòa, Giồng Cát (Mỹ Tho).
-          Năm 1972 - 1975: Chánh sở Lương Hòa Hạ
-         Giám mục phó ngày 10.06.1975. Với khẩu hiệu : “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu” (1Pr 4,13)
-         Giám mục Chánh tòa Mỹ Tho ngày 24.02.1989 đến ngày 15.04.1999.
-         Năm 1999 nghỉ hưu tại Nhà Chung Mỹ Tho. 
-         Qua Đời: Ngày 16.0.2006. 
-         Mai táng  tại khuôn viên Nhà chung, Mỹ Tho.

  Bài viết về Đức cha Andrê Nguyễn Văn Nam

I. MỘT MẪU NGƯỜI ĐƠN SƠ, HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM TỐN 

“Hãy học với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm tốn trong lòng”. Bài học quan trọng Đức Kitô đã dạy cho dân chúng khi đi theo Ngài và khắc ghi vào tâm hồn các môn đệ của Ngài như là nền tảng của những đức tính của người tông đồ, để thành công trong mục vụ và để thu lượm kết quả việc rao báo Tin Mừng. Đức Cha Anrê đã thấm nhuần chân lý này và thực hiện trong cả cuộc đời, nên được dân chúng đặt cho một tên gọi rất thân thương gần gũi : là “ông lão nhà quê”, luôn luôn mang một áo dòng đen đã bạc màu, đầu đội nón cyclô trắng, đón xe đò đi trên các nẻo đường 3 tỉnh Tiền Giang, Long An và Đồng Tháp, khi đi làm mục vụ của vị chủ chăn, từ sau khi giải phóng cho đến thời mở cửa (1986).

Được Đức Cha Giuse Trần Văn Thiện, Giám mục chánh tòa Mỹ Tho, chọn và đặt làm Giám mục phó và chính Ngài tấn phong cho Đức Cha Anrê trong hoàn cảnh hết sức âm thầm, đơn giản, chỉ có vài ba cha tham dự tại Tòa Giám Mục Mỹ Tho ngày 10/06/1975.
Chính Đức Cha Giuse sau đó đã cho các cha Mỹ Tho biết : Lý do Ngài chọn Đức Cha Anrê vì Ngài đơn sơ hiền lành, ốm còm, như một ông lão nhà quê, đi đâu cũng dễ, lọt vào ngóc ngách nào cũng vừa, gặp ai cũng được. Đúng như lời nhận xét của Đức Cha Giuse, Đức Cha Anrê rơi vào môi trường nào cũng được đón tiếp nồng hậu vì như Chúa Giêsu đã nói  “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất nước này làm gia nghiệp”.
II. GIÁM MỤC THỨ HAI CỦA GIÁO PHẬN MỸ THO
“Viên đá thợ xây đã bị loại bỏ, lại trở nên tảng đá góc tường”.
Ngay sau ngày phong chức Giám mục cho Đức Cha Anrê, Cha Bề Trên dòng Mến Thánh Giá Tân An, cũng là cha sở giáo xứ Tân An, Antôn Lê Quang Thạnh, đã công bố tại nhà thờ Thị Xã Tân An vào sáng lễ Chúa Nhật, “Đức Cha Anrê, Viên đá thợ xây đã bị loại bỏ… được tấn phong làm Giám mục Phó Giáo phận Mỹ Tho. Cha Antôn trước kia là cha giáo sư tiểu chủng viện Thánh Phanxicô Xaviê Sài Gòn, biết rất rõ về Đức Cha Anrê. Khi ngài vô Tiểu Chủng Viện, chỉ được 1, 2 năm, rồi bị bệnh, và học lực cũng không khá, nên chủng viện khuyên cho về chữa bệnh, vì Ngài có những đức tính tốt, và kiên trì bền vững theo đuổi ơn gọi, nên cha sở Thị Nghè lúc đó, xin chủng viện cho Ngài tiếp tục ơn gọi. Ban giám đốc đã chấp thuận cho Ngài tu lại. Vì quyết tâm và có ơn Chúa Ngài đã qua các lớp Tiểu Chủng Viện và Đại Chủng Viện và được thụ phong Linh mục ngày 29/03/1952.
III. ĐƯỜNG LỐI MỤC VỤ 
1. Chịu Đau Khổ
“Ai muốn theo Ta hãy bỏ mình, vác thập giá mỗi ngày để theo Ta”. Đức Cha Anrê đã sống vất vả, cơ cực suốt cả đời để thực hiện câu châm ngôn Ngài đã chọn : “Được chia sẻ những đau khổ với Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu” (1Pr 4,13). Trải qua các giáo xứ Ngài coi sóc : Bình Trưng, Đông Hòa, Giồng Cát (Tiền Giang), Lương Hòa Thượng (Long An), đâu đâu giáo dân cũng kể về những khó khăn, thiếu thốn mà Ngài đã tự nguyện lãnh nhận, bởi vì có đồng bạc, tài sản nào Ngài đều cho hết, cả người công giáo cũng như lương dân, sống khắc khổ, ăn mặc đơn giản, ăn uống đơn sơ, nơi ở nghèo khó giữa những người nghèo khổ bất hạnh. Tuy là Giám Mục của một giáo phận, nhiều lần Ngài tâm sự : Ngài “sợ” các cha vì có nhiều vị yêu cầu điều này điều khác, mà Ngài không đáp ứng được, nên rất buồn và đau khổ. Ngài âu lo và khốn khó khi gặp những chuyện tiêu cực, rắc rối xảy ra trong giáo phận, bất lực không giải quyết được, chỉ biết cầu nguyện, cậy trông vào Chúa lãnh đạo giáo phận thay cho Ngài.
2. Tâm Hồn Trẻ Thơ
“Hãy để trẻ thơ đến với Ta, vì nước trời là của chúng”. Đức cha rất thương, mến và vui chơi với trẻ em, thích nói chuyện và kể chuyện các thánh, dạy giáo lý cho trẻ, vì Ngài nói trẻ có tâm hồn đơn sơ không phức tạp rắc rối như người lớn.
Các em cũng rất thích và mến Ngài. Tại Đông Hòa, Giồng Cát, các em thường ôm hôn Ngài, có khi nhảy lên giường nằm ngủ tỉnh khô. Ngài thường dạy cho trẻ em cầu nguyện và cùng phủ phục trước Mình Thánh Chúa.
Ngài đặc biệt tôn kính Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và mong muốn cho mọi người nên thánh theo con đường thơ ấu của Thánh nữ. Ngài luôn có nụ cười trẻ thơ và tâm hồn ngay lành trong trắng của bé thơ.
3. Chú Trọng Truyền Giáo
Tinh thần truyền giáo chiếm hết cả con tim của Ngài trong suốt thời gian 24 năm làm Giám Mục. Từ năm 1975 là Giám mục phó và từ 24/02/1989 khi làm Giám mục Chánh Tòa. Ngài luôn luôn nại vào cớ truyền giáo để giải quyết các vấn đề. Bản thân tôi được các Đức Giám Mục giáo phận trao cho công tác đặc trách ơn gọi giáo phận, nhiều lần tôi xin Ngài cho các cha trẻ, có trình độ đi du học để có nhân sự giúp ích giáo phận trong tương lai, Ngài trả lời vì giáo phận còn nhiều giáo xứ, giáo họ cần có linh mục coi sóc, lo phần hồn cho giáo dân, nên hãy chờ đợi khi nào có đông linh mục sẽ tính.
Dồn hết tâm lực vào việc mở lại các điểm truyền giáo và tìm người trở lại, nên giáo phận có ngân khoản nào là Ngài đầu tư vào việc truyền giáo hết. Khi các cha mời đi mở giáo điểm truyền giáo, xây dựng một giáo họ mới, mời đi ban phép Rửa Tội, Thêm Sức, dù xa xôi vất vả, đường đi cách trở, lội nước, băng đồng, chui qua lạch ruộng, Ngài rất hăng hái, phấn khởi, ở lại lâu ngày, say mê giảng dạy, có khi giảng quên cả ăn uống, Ngài vẫn lặp lại Lời Chúa “Lúa chín đầy đồng, thợ gặt lại ít”. Ngài bảo phải vâng lệnh Chúa “Các con phải đi khắp thế gian loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật”. Ngài thích thú cắt nghĩa về việc làm cho người ta biết Chúa, và được lợi các linh hồn khi nhắc lại lời Thánh Don Bosco “Xin hãy cho tôi các linh hồn”.
Một nét rõ nhất trong đời Ngài, và đặc biệt nổi bật giữa hàng Giám mục là phong chức chui. Cũng vì mê say truyền giáo, tìm cách có nhiều Linh mục để công bố Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô đến muôn dân, trong những năm khó khăn, Ngài đã phong chức Linh mục “chui” cho hàng chục anh em trong Giáo Phận. Khi được chính quyền địa phương mời ra làm việc sau sự kiện, Ngài luôn với áo dòng đen bạc màu, tay cầm tràng chuỗi, một thân một mình ngồi trước nhiều cán bộ. Hỏi tại sao cụ phong chức mà không xin phép. Ngài trả lời : “Nhiều lần tôi đã làm đơn xin phép, nhưng được trả lời : để cứu xét, đợi lâu, giáo dân, nhất là những cụ già, đến khóc lóc xin có linh mục, tôi cầm lòng chẳng đặng, nên vì thương họ tôi phong chức âm thầm. Vì nghĩ rằng hồi trước giải phóng khi ở Giồng Cát, Bình Trưng (Tiền Giang) vùng chiến tranh, tôi luôn giúp người nghèo (có cả anh em cách mạng) cơm gạo, quần áo, thuốc men những lúc cần kíp, tôi cũng không phải xin phép. Cán bộ nhà nước cũng vui vẻ huề cả làng, dặn dò lần sau cụ đừng làm thế nữa.
Về điểm này, Đức Cha Anrê đi đầu trong việc phong chức chui. Ngài đã giúp cho nhiều nhà dòng có nhân sự Linh mục làm việc trong những lúc thiếu hụt linh mục trầm trọng.
Ngày 16-20/03/2006 dịp Ngài qua đời. Tôi gặp được nhiều phái đoàn các dòng đến kính cẩn viếng Ngài và kể lể tâm sự với lòng tri ân sâu xa việc Ngài đã làm cho dòng mình.
IV. CON NGƯỜI VỚI NHÂN CÁCH ĐÁNG TRÂN TRỌNG 
1. Con người của cầu nguyện
Ngài luôn luôn có xâu chuỗi trên tay, tìm Ngài chỉ vô trong nhà nguyện là thấy ngay. Cầu nguyện là hơi thở, gặp ai Ngài cũng khuyên siêng năng cầu nguyện, thậm chí khi gặp những người nhà quê hoặc trẻ em, Ngài dẫn ra nhà nguyện để tập cầu nguyện và cùng cầu nguyện với Ngài.
Ngài sống theo lời Chúa dạy “hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Lc 21,35) và dạy mọi người “hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14,38)
Khi các cha đến gặp Ngài trình bày những khó khăn về nhiều phương diện khi phải coi sóc giáo xứ, Ngài chỉ khuyên cầu nguyện, và Ngài hứa chỉ có thể giúp các cha bằng lời cầu nguyện và khuyên các cha cầu nguyện liên lỉ, bền lòng, như câu truyện người đàn bà xin ông quan xét xử, lúc đầu ông không làm, nhưng cuối cùng cũng làm vì bị quấy rầy. Rất nhiều lần Đức Cha Phaolô đương kim Giám mục của Giáo phận Mỹ Tho, khi nói về Ngài lúc đã nghĩ hưu. Đức cha luôn xác quyết, nhờ Đức Cha Anrê cầu nguyện liên lỉ cho giáo phận, cho công việc lãnh đạo giáo phận của Ngài. Đức Cha Anrê là hỗ trợ tinh thần thiêng liêng của Giáo phận.
2. Sống Khó Nghèo
Áo mặc rất đơn giản, luôn luôn với tấm áo dòng đen, không bao giờ thấy Ngài mặc đồ “civil”.
Về ăn uống rất giản dị, có một cha đã kể tôi nghe. Khi Ngài đến ban bí tích Thêm Sức, vì xe trễ, sau bữa ăn rồi, Ngài lấy ra trong bọc nửa đòn bánh tét, nhờ người ta dọn ra ăn tự nhiên, Ngài nói trên đường đến giáo xứ, thấy đứa bé tội nghiệp, đã cho nó một nửa. Các cha kể cho nhau khi dịp đón Ngài, rất khỏe, vì không phải lo việc ăn uống. Đối với Ngài, việc ăn uống không quan trọng, chỉ là nhu cầu bất đắc dĩ, có lần Ngài nói : “người ta ai cũng phải chết, nên ăn để chậm chết”. Ngài thường khuyên các cha đừng uống rượu, bia. Có đấng nại lấy cớ để giao tế dễ dàng, nên dùng chút bia bọt, Ngài nói : “vô đức bất thành lễ, đa tửu bất thành nhân”.
Việc chỗ ở nghỉ ngơi càng đơn giản, lúc Ngài đã làm giám mục. Ngài thường về dâng lễ tại Giồng Cát (khi không phải đi làm mục vụ Thêm Sức) và ở đây sống rất đạm bạc, nằm giường gỗ cứng, không đệm, không tiện nghi, lại rất thích, vì có trẻ con quê mùa, ăn mặc lôi thôi vây quanh, nhộn nhịp vui vẻ…
3. Đơn Sơ 
Như trên đã đề cập, Đức Cha Anrê sống đơn sơ, phó thác mọi sự trong tay Chúa, có tâm hồn chất phác, thật thà như trẻ thơ.
a. Tin vào Chúa quan phòng và có tâm hồn phó thác
Bất cứ chuyện gì quan trọng, khó khăn, phức tạp tưởng như khó có thể thực hiện, Ngài luôn khuyên nhủ : hãy phó thác và cậy trộng vào Chúa. Năm 1994 tôi xin Ngài xúc tiến phục hồi họ đạo Thuộc Nhiêu, có nhà thờ từ hồi năm 1945, trên thuở đất rộng 8000 m2. Trong thời chiến tranh nhà thờ đổ nát, dân chúng tản lạc khắp nơi. Sau năm 1975 người ta chiếm đất nhà thờ canh tác. Được ân nhân giúp đỡ, năm 1994, Ngài và Đức Giám mục phó Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, cho tiền đủ để mua lại được 1250 mđất. Có đất rồi, xin phục hồi nhà thờ, gian nan vất vả, khó khăn, suốt 10 năm kiên trì, năm 2004 nhà nước cho phục hồi họ đạo Thuôc Nhiêu, và ngày 10 tháng 12 năm 2006 Đức Cha Phaolô đã về làm phép nhà thờ mới. Tạ ơn  Thiên Chúa và Tri ân các Đức Cha.
b. Không hình thức
Đức Cha Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, nguyên Giám Mục giáo phận Xuân Lộc, nguyên chủ tịch HĐGMVN kể cho tôi những mẩu truyện sau đây : Khi các Đức Giám mục Việt Nam đi Ad Limina lần đầu tiên sau ngày HĐGMVN Bắc Nam thống nhất (năm 1990) Ngài nói rằng: Đức cha Anrê rất đơn sơ, khi sang tận Roma, kinh đô Giáo hội toàn cầu, mà Ngài vẫn bận đồ rất đơn giản, mặc áo giám mục mà không đeo col trắng, được đức cha nhắc nhở ngày hôm sau Ngài đeo 2 col cho chắc ăn. Ngài chậm trễ nên Đức Cha Phaolô Nhật phải nhờ 2 Đức Cha kèm để gọi Ngài đi cho kịp, khi đi gặp các thánh bộ. Khi đi họp HĐGMVN, Ngài trễ giờ chung, có lần tới giờ cơm, thấy vắng, có Đức Cha phải lên nhà thờ tìm, Ngài đang lần hạt, cầu nguyện.
Không hình thức, sang hèn, thế nên về cuối đời nhiều lần Ngài đã nói với tôi : tôi sợ ngỏ lời với Đức Cha Phaolô, xin cha nói dùm : khi tôi chết cho tôi được chôn cất tại giáo xứ Giồng Cát, nằm giữa con cái thân yêu, quê mùa và nghèo khó, tôi muốn được chết nghèo, như đã sống nghèo. Tôi thưa với Ngài : con vâng lời Đức Cha, sẽ trình Đức Cha Phaolô, nhưng con tin chắc, vì địa phận, chắc chắn Đức Cha và các cha Mỹ tho không bao giờ làm theo ý muốn của Đức Cha được. Tuy vậy, Ngài vẫn bảo bổn đạo Giồng Cát, làm đơn lên Tòa Giám Mục đề đạt ý nguyện của Ngài. Tôi cũng được cha Phêrô Phát (cha sở Bến Siêu) cho biết. Ngài thường trăn trối : khi Ngài chết, hãy để vào chiếu quấn lại, rồi lấy tre nẹp lại rồi đem vào nơi vắng vẻ và chôn ở đó… hoặc đem ra cồn mà chôn.
c. Đời sống không màng tưởng tới tiền bạc
Ai cho gì Ngài vui vẻ đón nhận, rồi lại quảng đại cho người khác hết. Có cha kể tôi nghe, khi làm nhà thờ, thiếu hụt, chạy đến xin Ngài cho tiền, chưa giải quyết ngay, Ngài lật sách Kinh Thánh về đoạn: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu của kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này, mà khinh dể chủ nọ” (Lc 16,13). Cắt nghĩa cho nghe đã rồi, dặn dò đủ điều về việc phải biết sử dụng tiền bạc. Cuối cùng cũng vô ngăn kéo, vét hết tiền bạc, cả bạc cắc cho cha về xây dựng nhà thờ. Có chuyện khác chính Ngài kể tôi nghe, Ngài bị lừa, một bà kia ăn mặc sang trọng, gặp Ngài xin xưng tội và xin chúc lành cho bà trước khi đi nước ngoài đoàn tụ với con cái bằng an, nói chuyện hồi lâu, bà đưa tặng Ngài 5 cây vàng, để giúp địa phận. Cha con mừng quýnh. Trước khi từ giã Ngài ra về để lên đường, bà xin Ngài giúp cho 1 triệu đồng để đi về và thuê taxi ra phi trường. Không nghi ngờ gì, rất tin tưởng, Ngài cho ngay. Sau đó, Ngài đưa vàng cho cha quản lý, cha đem tiệm thử : là vàng giả. Vì Ngài quá tin tưởng người ta và chẳng  quan tâm gì đến tiền bạc lại sẵn có lòng thương người, nên rất nhiều lần Ngài bị lừa, bị lấy cắp, bị gạt. Ngay cả với những con cái, người giúp việc, người có đạo cũng như người ngoại.
d. Cụ Giám mục thật thà, chất phác
Suốt 24 năm Giám mục, rất nhiều lần Đức cha Anrê phải gặp, tiếp xúc, trao đổi với nhà nước về những vấn đề của Giáo phận, được việc như yêu cầu cũng có, bị từ chối luôn cũng nhiều, hay lắm khi phải chờ đợi lâu, Đức Cha vẫn vui vẻ, luôn bảo chúng tôi phải kiên trì cậy trông vào Chúa. Chúa có thể làm đựơc mọi sự “không có việc gì mà Chúa không làm được”. Do đó, tôi nghe nhiều cấp chính quyền địa phương, tỉnh, huyện, ban ngành khi nói về Đức Cha Nam . Người ta nói một câu đầy ấn tượng, “cụ Giám mục của các ông rất thật thà, chất phác…”.
Quả vậy, trong thánh lễ an táng của Ngài 20/03/2006 tại khuôn viên Tòa Giám Mục Mỹ Tho, có nhiều Giám Mục, đông đảo các linh mục, tu sĩ và rất nhiều giáo dân, có các cấp chính quyền nhà nước tham dự. Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh, đã nói : “Đối với Đức Cha Anrê, Ngài luôn làm vừa lòng mọi người – cả đạo lẫn đời”.
Đức Hồng Y kể câu truyện hồi năm 1997 khi nhà nước tỉnh Tiền Giang mời Đức Cha Anrê và Ngài (Giám mục phó Mỹ Tho) ra trao đổi về việc xin phép lập chương trình tổ chức Năm Thánh 2000. Với những điểm phức tạp, Đức Cha Anrê nói : Hồi trước khi tôi ở Giồng Cát và Đông Hòa, bao nhiêu lần tôi giúp đỡ cho anh em bộ đội, du kích, cũng như dân nghèo xung quanh cơm gạo, tiền bạc, thuốc men, quần áo, thậm chí có lần tôi đang giảng giáo lý sắp làm lễ, nghe tin binh lính chế độ cũ đi hành quân vô Gò lũy Giồng cát. Lúc đó tôi đang cho một số anh em bộ đội du kích trú ẩn trong nhà xứ, tôi vội vàng cho anh em ra ngồi giữa lòng nhà thờ, và để người công giáo ngồi chung quanh và tôi giảng tiếp. Một người sĩ quan hỏi thử một người ngồi vòng ngoài đọc kinh kính mừng, thấy đọc thông, biết toàn là dân công giáo, ông bèn xin lỗi tôi và bỏ đi ra. Những trường hợp như vậy, tôi đâu có phải xin phép ai. Nghe nói vậy, anh em cười xòa và thông qua chương trình nhẹ nhàng.
KẾT LUẬN

“Nhân vô thập toàn”,

Đôi dòng tri ân. Khi tôi đọc bài viết về những “Chân dung linh mục của các địa phận trong năm thánh linh mục này, đã đăng trên mạng, tôi hỏi các cha Mỹ tho, mình đã có những vị nào được viết, được biết đến. Đã có cha viết về về cha Antôn Pezeu, người Pháp, cha sở Cai Lậy (Tiền Giang) về cha Batôlômêô Nguyễn Văn Thật, cha sở Trà Lư (Đồng Tháp) chưa có vị nào viết về Đức Cha Anrê ; thế nên được quí cha khuyến khích, tôi mạnh dạn viết về Đức Cha Anrê. Phần vì tôi được làm việc bên cạnh Ngài khá lâu, và kế tiếp Ngài ở những Giáo xứ nghèo Ngài đã coi sóc. Tôi viết những cảm nghĩ trên đây xin gởi đến quý vị trong và ngoài địa phận, như chỉ là một cử chỉ đền ơn một vị Mục Tủ nhân hậu suốt đời tận tụy cho công việc tông đồ truyền giáo, hết lòng với giáo phận và hiến dâng tất cả con người của mình cho anh em đồng bào lương cũng như giáo. Tôi ý thức rõ rằng : nhân vô thập toàn, nói về những điểm tích cực của mỗi người cũng dễ, nhưng bên cạnh đó cũng còn những điểm tiêu cực mà ai chẳng có. Vậy đang khi chúng ta trân trọng, quí giá những đức tính, tư cách của Đức Cha Anrê, chúng ta cũng đừng quên cầu nguyện cho người Cha mến yêu của chúng ta sớm được Chúa thưởng công nghiệp trong Nước Trời.

Xin Đức Cha cầu nguyện cho chúng con.

Mỹ Tho, tháng 3 năm 2010

Lm Antôn Vũ Sĩ Hoằng