ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Tông chi Thân tộc Thánh Phêrô Đoàn Công Quí


Gia Tộc

Trào Gia Long ông Đoàn Công Tùng và hai anh em được tuyển vào cơ binh phòng vệ (?). Anh em tận lực phò vua, được tiếng trung thành.
Minh Mạng nối ngôi, không theo chánh sách tiên vương, lại hiềm khích đạo Chúa, muốn tiêu diệt tất cả giáo hữu trong đất nước Việt nam. Nhưng đối với tôi trung thành, không lẽ trực tiếp giết hại. Vua vời ông Tùng và hai anh em vào đền và phán: “Trẫm ban khen mấy em tận trung với Tiên Hoàng….nay trong nước bình yên, Trẫm cho về quê khỏi chân quân lính….”.
Cùng với lời khen, hoàng đế lại sắc tặng cho một vài danh tước và hạ chỉ khiến vào Đồng Nai, tìm nơi đất rộng lập nghiệp.
Ông Tùng cao niên lại mến tiếc làng quê, không muốn ra đi, nhưng rõ biết tâm trạng của Tân Vương, nên đành sắm một chiếc ghe bầu, chở con trai trưởng cùng 6 cháu nội đã lớn mà chưa đôi bạn, cùng với gia đình người em trai căng buồn vào Nam. Trong thuyền tất cả 15 người.
Còn những anh em khác thì đi ra Bắc hay bỏ thành nội vào những làng xa xôi ẩn nấp.
Vào tới Đồng Nai thì được một tin chấn động: Vua đã tư tờ cho các quan, dạy phải tru di tam tộc ông Đoàn Công Tùng.
Tuy nhiên, các quan thấy trung thần mắc nạn thì thương không nỡ giết hại lại tàng ẩn và làm mai cho mấy cháu ông Tùng kết bạn nữa.
Dầu vậy, gia đình không dám sống chung, chia tay mỗi người một nẻo. Kẻ ở Rạch Bàng, người lên Bình Dương, Bến Súc, cũng có nhóm ẩn miệt Gò Công, Bến Tre…..Giấy tờ, sắc tước đều thiêu hủy, lại đổi cả tên họ.
Về mặt vật chất  họ vẫn ấm no, nhưng phần hồn vì xa cha ông lại sống giữa người lương, lần lần nguội lạnh, nhưng họ mong ngày thái bình về lại làng quê giữ đạo.
Ngày lụn tháng qua, lớp già lần lượt từ giã cõi đời, bọn con cháu chỉ còn nhớ mập mờ: Tiên nhân ở Huế có đạo; còn trên thực tế họ đã trở thành người lương.
Thậm chí có người còn van vái ông Tùng nữa, vì họ nghe nói ông bị vua bắt uống thuốc độc tự tử.
Bởi ông lòng ngay mà thác oan nên ông linh lắm. Do đó họ cúng hương đền hoa quả trà rượu; đặc biệt là không cúng bánh thịt, vì tin rằng: Ông là người nội y không thích, lại cúng ngoài trời vì ông không chịu ở chung với tiên nhân bên lương.
Chỉ có một mình ông Đoàn Công Miên, cháu đích tôn ông Tùng, lên Búng với người cha, ẩn tích miệt Bà Trà, vỡ rẫy trồng khoai, bền lòng giữ đạo.
Ông Miên kết bạn với bà Trường, cũng đạo dòng, sinh được 5 trai, 1 gái, Con út là Á Thánh Quí .

(Trích trong" Hai bức gương linh mục tiền bối " của Cha Phanxi cô-Xaviê  Trần Thanh Khâm)


Đôi lời viết thêm:

Họ Đoàn Công, hiện nay, ở Búng và Bình Sơn không còn nghe nhắc đến nữa vì phần đông đã di chuyển lần hồi xuống Sài Gòn và Lương Hòa (Long An) trong thời kỳ bắt đạo (khi Pháp vừa qua, lối 1860) cho đến những năm đầu thập niên 1900. Trừ con cháu của bà Đoàn Thị Bường.
Nghe kể rằng, Cha sở nhà thờ Lương Hòa thời đó là Cha Tôma Đoan, rồi Cha Phêrô Võ Hiền Gia - người gốc Búng, hình như Cha này có bà con với bà Võ Thị Chi (vợ Ông Thới) ?. Thời đó ở Lương Hòa rất hoang vu và nhiều người từ Búng, Lái Thiêu theo Cha đến lập nghiệp. Cũng có nhiều người từ Nha Ràm cũng được Cha Già Triệu đưa đến Lương Hòa sinh sống.

Về Lương Hòa, ông Đoàn Công Đăng (con ông Thới) dần dần mua rất nhiều đất đai, trở thành ông Cả của làng nên người ta gọi là ông Cả Đăng (ông là Ba của ông Đoàn Công Chánh và là ông nội của ông Đoàn Công Đài).

Ông Đoàn Công Qui thì có cuộc sống bình thường, nhưng một trong những người con của ông là ông Đoàn Công Tần sau đó cũng tạo được rất nhiều đất đai. Thời đó ông đã xây được nhà lầu trên vùng đất khỉ ho cò gáy Lương Hòa, nên có người gọi ông là ông Nhà Lầu. Con kênh đi qua khu đất ông cũng được gọi là Kinh Nhà Lầu và đến giờ tên này vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, nhà lầu sau đó đã bị "cách mạng" phá hủy, đất đai cho những người con thì giờ đã bán cho người khác.

Trên gia phả này, nói riêng về con cháu bà Đoàn Thị Bường, chỉ biết được nhánh của Cha Bênêđictô Nguyễn Tri Phương (Bình Sơn) và của Cha Phaolô Nguyễn Minh Tri (Búng). Còn những nhánh khác ở Búng và ở Lái Thiêu thì chưa biết được.  
  


Lễ Khánh thành tượng đài Á Thánh Quí năm 1962 tại Búng. Ảnh. Lm. Longinô Nguyễn Thới Mậu

Linh mục dòng dõi Thánh Phêrô Đoàn Công Quí


Các Linh mục dòng dõi Thánh Phêrô Đoàn Công Quí














1.     Linh mục Phêrô Đoàn Công Triệu

-         Sinh ngày 17. 02. 1843
-         Tại: Họ Bình Sơn (Búng)
-         Thụ phong linh mục ngày 18. 09. 1875
-         Năm 1875 – 1879 : Phó sở Tha La
-         Năm 1879-1881: Cha sở họ Mỹ Hội
-         Ngày 11. 08. 1881 – 21. 09. 1933: Cha sở họ Nha Ràm.
-         Từ đây Cha Triệu đi truyền đạo các vùng xung quanh, lập nhà thờ Mỹ Điền (xã Long Hiệp) nhà thờ Rạch Đào, xã Mỹ Lệ, nhà thờ Gò Đen, thị trấn Gò Đen. Lập nhà nguyện tại Rạch Chanh năm 1924 và quản họ . Lập họ đạo Bến Lức lối 1892.
-         Năm 1933 - 1936: Hưu dưỡng tại Chí Hòa
-         Qua đời hồi 11 giờ ngày 28. 07. 1936, hưởng thọ 93 tuổi.
-         Mai táng tại Đất thánh các linh mục Chí Hòa



2.     Linh mục Phaolô Đoàn Quang Đạt

-         Sinh năm 1877

-         Tại họ Búng

-         Thụ phong Linh mục ngày 23. 09. 1911, tại nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, do Dức c Giám mục Lucien-Emile Mossard (Mão)

-         Linh mục địa phận Tây Đàng Trong

-         Tháng 10. 1911 – tháng 11. 1913: Linh mục ở Chủng viện

-         Tháng 11. 1913 – tháng 07. 1914: Cha sở họ Tây Ninh

-         Tháng 07. 1914 – tháng 05. 1917: Giáo sư Tiểu chủng viện Sài Gòn

-         Tháng 05. 1917 – tháng 12. 1919: Cha sở họ Bố Mua

-         Tháng 12. 1919 – tháng 04. 1925: Cha phó họ Tân Định

-         Tháng 04. 1925 – tháng 10. 1926: Cha sở họ Bến Sắn

-         Tháng 10. 1926 – tháng 10. 1933: Phó Giám đốc, rồi Giám đốc (tháng 03. 1928) nhà in Tân Định.

-         Tháng 10. 1933 – tháng 08. 1949: Cha sở họ Bà Rịa

-         Tháng 8.1949, vì tuổi cao, sức khỏe cha Phaolô Đạt nhanh chóng suy sụp, nên Đức cha Jean Cassaigne đưa cha về dưỡng bệnh ở Chủng viện Sài Gòn. Sau đó cha Giuse Thiên, cha sở Chí Hòa xin Đức cha cho cha Đạt về nhà hưu dưỡng các Linh mục ở Chí Hòa.

-         Đến sáng ngày 21/2/1956, cha Phaolô Đạt dâng thánh lễ cuối cùng. Đến trưa, cơn suyễn nổi lên quá mạnh, ngài không chịu nổi, đã tắt thở lúc 13g trưa, thọ 79 tuổi và 45 năm Lm.

-         Qua đời hồi 13:00 ngày 21. 02. 1956

-         Hưởng thọ 79 tuổi. 45 năm Linh mục

-         Mai táng tại đất thánh các linh mục bổn quốc Chí Hòa



3.     Linh mục Phaolô Đoàn Thanh Xuân

-         Sinh năm 1887

-         Tại họ Lương Hòa

-         Chịu chức cắt tóc ngày 19. 09. 1908, do Đức cha Lucien-Emile Mosard (Mão)

-         Thụ phong Linh mục ngày 27. 02. 1915, tại nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, do Đức Giám mục Victor-Charles Quinton (Tôn)

-         Linh mục địa phận Tây Đàng Trong

-         Tháng 03. 1915 – tháng 04. 1916: Phó sở Bà Rịa

-         Tháng 04. 1916: Giáo sư ở  Chủng viện Sài Gòn, và đén thời gian nào không rõ về làm phó cho Cha Jb. Tòng ở họ Bà Rịa.

-         Tháng 09. 1927 – tháng 01. 1929: Cha sở họ Đức Hòa (về sở Bãi Xan)

-         Tháng 01. 1929 – tháng 03. 1931: Giáo sư ở Chủng viện Sài Gòn

-         Tháng 03. 1931 – tháng 10. 1931: Cha phó họ Tân Định

-         Tháng 10. 1931 – tháng 09. 1945: Cha sở họ Tân Hưng

-         Qua đời ngày 15. 09. 1945, tại Bà Điểm

-         Hưởng thọ 58 tuổi. 30 năm Linh mục

-         Mai táng tại đất thánh các linh mục bổn quốc Chí Hòa



4.     Linh mục Phaolô Nguyễn Minh Tri
-         Sinh năm: 1912
-         Tại: Họ Búng
-         Thụ phong Linh mục năm 1938
-         Năm 1938 - 1945: Phục vụ các họ đạo Chánh Tòa Sài Gòn và Mỹ Tho.
-         Năm 1946 – 1949: Phó sở Hiệp Hoà. Quản họ Rạch Thiên
-         Năm 1949  - 1956: Cha sở họ Hiệp Hoà
-         Năm 1956 – 1977: Cha sở họ Vũng Tàu.
Hiệu trưởng Trường Trung học Tư thục Thánh Giuse Vũng Tàu
Quản hạt Vũng Tàu
-         Năm 1977 – 1990: Hưu dưỡng
-         Qua đời: 03/05/1990, tại TGM Sài Gòn
-         Mai táng tại Đất thánh Họ đạo Búng



5.     Linh mục Bênêđictô Nguyễn Tri Phương

-         Sinh năm: 1919
-         Tại: Bình Sơn (Búng)
-         Thụ phong Linh mục ngày 21. 09. 1947
-         Năm 1947 – 1951:Cha phó Lương Hòa Thượng, Đất Đỏ và Cái Nhum (Bến Tre), đặc trách Ngũ Hiệp.
-         Năm 1951 – 1955: Cha sở họ Phước Khánh
-         Năm 1956 – 1962: Cha sở họ Đất Đỏ
-         Năm 1962 – 1990: Cha sở họ Phú Nhuận
-         Quan đời ngày 17. 03. 1990
-         Mai táng tại Đất thánh Họ đạo Lái Thiêu



6.     Linh mục Giuse Nguyễn Hiếu Lễ

-         Sinh ngày 16. 10. 1920
-         Tại: Lương Hòa
-         Thụ phong Linh mục:
-         Tham gia kháng chiến.
-         Cha sở họ đạo Dầu Giây
-         Quản lý Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn.
-         Qua đời:07. 09. 1994
-         Mai táng tại khuôn viên Nhà thờ Lương Hòa Hạ



7.     Linh mục Phêrô Nguyễn Công Danh

-         Sinh ngày: 13. 09. 1935
-         Tại: Lương Hòa
-         Thụ phong Linh mục ngày 23. 04. 1963
-         Năm 1963 – 1971: Cha giáo Tiểu Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn
-         Năm 1971 – 1982: Chánh sở  Mẫu Tâm
-         Năm 1982 – 1991: Chánh sở Xóm Chiếu
-         Năm 1991 – 2014: Chánh sở Thị Nghè
-         Năm 2014 – 2016: Hưu dưỡng
-         Qua đời ngày 27. 07. 2016
-         An táng tại: Lương Hòa Hạ


8.     Linh mục Phaolô Nguyễn Quốc Thắng

-         Sinh năm 1966
-         Tại: Họ Bình Sơn (Búng)
-         Thụ phong Linh mục: 1993

-         Linh mục Giáo phận Phú Cường





9.     Linh mục Đôminicô Nguyễn Trọng Dũng

-         Sinh năm 1967
-         Tại: Lương Hòa
-         Thụ phong Linh mục: 1998
-         Linh mục Giáo phận Mỹ Tho



10. Linh mục Giuse Nguyễn Văn Nhạn

-          Sinh năm 1959
-         Tại: Lương Hòa
-         Thụ phong Linh mục: 1999
-         Linh mục Giáo phận Mỹ Tho



11. Linh mục Phaolô Nguyễn Quốc Khánh

-         Sinh năm 1962
-         Tại: Bình Sơn
-         Thụ phong Linh mục: 1999
-         Linh mục Giáo phận Phú Cường