Thứ Năm, 31 tháng 12, 2020
Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020
Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Phụng Dưỡng
Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Phụng Dưỡng
- Sinh ngày 11. 10. 1902
- Tại: Họ đạo Tha La
- Năm 1914: học ở Tiểu chủng viện Sài Gòn
- Năm 1922: học ở Đại chủng viện Sài Gòn
- Chịu phép cắt tóc ngày 17.09.1924
- Thụ phong Linh mục ngày 25. 05. 1929, tại Nhà thờ Chánh Sài Gòn
- Tháng 06. 1929 – tháng 03. 1931: Phó sở Búng
- Tháng 03.1931 – tháng 06.1938: Cha sở họ Cầu Ngang.
- Tháng 06. 1938 – tháng 05. 1940: Chánh sở Tân Qui và quản họ Tân Đông
- Qua đời ngày 21. 05. 1940, hưởng dương 38 tuổi
- Mai táng tại Đất thánh các Linh mục Chí Hòa
Thứ Ba, 29 tháng 12, 2020
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta
EMMANUEL: THIÊN CHÚA Ở CÙNG CHÚNG TA
* Vì sao xuất hiện sự tẩy chay Emmanuel?
Noel có gốc từ tiếng Latinh nātālis (diēs) có nghĩa là
"(ngày) sinh". Trước đó nữa, Noel được truy nguyên là chữ viết tắt của
từ “Emma-nu-el”. Chữ “Emmanuel” trong nguyên văn Hebrew là עִמָּנוּאֵל, là một
danh từ kép gồm hai chữ אֵל (El – Thiên Chúa) và עִמָּנוּ (Immānū – với chúng
ta). Danh hiệu Emmanuel có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Xuất xứ của danh từ này đã được tiên tri Isaiah nói đến,
để chỉ về Đấng Messiah – Đấng Cứu Thế. “Nầy một trinh nữ sẽ mang thai, sinh một
con trai và được gọi là Em-ma-nu-ên” (sách Isaiah đoạn 7 câu 14; Is 7,14) [bên
Tin Lành ghi là Ê-sai]. Và được ghi trong Phúc âm theo thánh Mátthêu đoạn 1 câu
23 (Mt 1, 23) [bên Tin Lành ghi là Ma-thi-ơ].
Mời quí bạn đọc những dòng suy niệm sau (*):
*&*
Khi Đấng Messiah đến trong trần gian này, Ngài không
hiện đến (như thiên thần Gabriel báo tin cho Đức Mẹ). Ngài cũng không hiện xuống
như Chúa Thánh Thần, bằng lửa hiện xuống trên các tông đồ hay bằng gió mạnh lùa
vào nhà các ông đang ở. Nhưng Đấng Messiah – Đấng Cứu Thế đã Ở CÙNG CHÚNG TA.
“Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta” là một ân huệ,
là một quà tặng vô giá. Thiên Chúa không hiện xuống rồi lại về trời; Thiên Chúa
không hiện đến rồi lại biến đi, nhưng Thiên Chúa đã LÀM NGƯỜI và ở cùng chúng
ta.
Không những Ngài ở cùng chúng ta, mà Chúa Giêsu còn
phán với các tông đồ trước khi Ngài lên trời, rằng: “Này đây, Thầy Ở CÙNG các
con mọi ngày CHO ĐẾN TẬN THẾ" (Mt 28,20).
*&*
(…) Thời đại của chúng ta, như một số các nhà tư tưởng
cũng như tu đức học đã nhận xét, rằng “Ngày xưa Thiên Chúa dựng nên con người
giống hình ảnh Ngài. Còn ngày nay con người dựng nên Thiên Chúa theo hình ảnh của
chính họ".
Trong thời đại hiện nay, người ta dựng nên một Thiên
Chúa mà bản quyền sự sống của Ngài chỉ là tác phẩm cho người ta biến đổi và người
ta có quyền tự tung tự tác.
Con người ngày nay sinh ra một Thiên Chúa trong đầu óc
của mình, trong định kiến của mình, trong ý riêng của mình và vì thế, khi Đấng
Cứu Thế đến khác với chính kiến của họ, họ không chấp nhận.
Những người Do Thái ngày xưa đã giết một Đấng Messiah
mà không nằm trong hoài bão của họ, không nằm trong ý tưởng mà họ đã tưởng tượng,
cho nên họ đã tẩy chay và giết chết Ngài. Nếu hôm nay người ta vẫn tiếp tục định
kiến, vẫn tiếp tục những ốc đảo ích kỷ như vậy, họ vẫn tiếp tục giết Chúa, tẩy
chay Chúa.
*&*
Emmanuel – "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" là một
điệp khúc, điệp khúc của tình yêu thương vang lên trong mọi thời đại, trong mọi
nơi, mọi lúc.
Tại sao "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" lại
không phải là món quà vô giá để phân phát cho tất cả mọi người mọi thời đại? Bởi
vì ai cũng nghèo túng vì tình yêu thương, vì ai cũng là người nghèo khó vì thiếu
ơn Chúa.
Hãy nhớ lời thánh Phaolô khuyên, và đây chính là điểm
mà người Kitô hữu nên ngẩng cao đầu thực hiện: “Anh em hãy hướng lòng trí về những
gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Thư của
thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôsê đoạn 3 câu 2; Cl 3,2).
Người ta hướng về những sự dưới đất cho nên người ta tẩy
chay Emmanuel.
Còn người nào đón nhận những sự trên trời thì người đó
đón nhận Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Sự đón nhận phải xuất phát từ trong đáy
lòng mình trước, khi mà chúng ta khát khao mong đợi một Thiên Chúa làm người,
và Thiên Chúa làm người lại ban bố cho chúng ta hiến chương Nước Trời, mà ngay
từ hiến chương thứ nhất đã nhắc đến: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó” (Mt
5,3).
*&*
Nghèo khó không phải là người nghèo hèn, người đi ăn
xin. Tinh thần nghèo khó là một sự dấn thân, là một sự cho đi hơn là nhận lãnh:
“Là hiến thân thì được nhận lãnh. Quên mình thì gặp lại bản thân” (Thánh
Phanxicô Assisi).
Emmanuel là một điệp khúc của tình yêu thương vang lên
để nhắc nhở chúng ta. Hãy từ bỏ ý riêng của mình, hãy ra khỏi con người vật chất
của mình để sống như Thiên Chúa là yêu thương, là phục vụ, là hiến trao đến tận
cùng.
Ngày hôm nay, điệp khúc Emmanuel lại tiếp tục vang
lên. Xin đừng để điệp khúc chỉ trong trí óc của chúng ta, mà hãy đọng lại trong
con tim.
Đừng chỉ vang lên trong thánh đường này nhưng đi về
gia đình, đi vào môi trường xã hội mình đang sống.
Emmanuel là hạnh phúc, là tình yêu, là sự sống, là sự
trao ban cho tất cả những ai đang khát mong đợi chờ và xây dựng trong lòng mình
một ý tưởng về một Thiên Chúa làm người ở cùng chúng ta - khi người ta biết sẵn
sàng "xin vâng" như Đức Maria.
Emmanuel – "Thiên Chúa ở cùng" trong những
hang dẫu là hang dành cho bò lừa và hôi tanh, nhưng hang ấy trống rỗng chứ
không phải là chật chội với đầy ắp những tiền của, tham vọng ích kỷ chen chúc
nhau khiến cho Chúa không còn chỗ trọ.
Giờ đây chính Thiên Chúa đã đến và đi vào hang cùng
ngõ hẻm ấy, những nơi hôi hám và xa lạ đó trở nên thân thuộc - bởi vì Thiên
Chúa Ở CÙNG CHÚNG TA.
Lạy Đấng Emmanuel,
Xin đừng để ai trong chúng con
lại rơi vào tình trạng như những người Do Thái
đón chờ rồi lại tẩy chay để giết chết,
khát khao lên án rồi lại quay lưng lại
với chính Đấng mà mình mong đợi.
Nhưng xin cho chúng con mở rộng lòng ngay từ hôm nay
để khi Chúa đến
chúng con nhận ra món quà vô giá
được tặng ban cho thế trần.
Tình yêu thương vô cùng được hóa thành nhục thể
bằng xương bằng thịt, bằng Lời Hằng Sống
để có thể đi vào từng gia đình,
từng tế bào của mỗi cá nhân chúng con. Amen.
----------------------------------------------------------
(*) Suy niệm của Lm. Phêrô Hồng Phúc: https://www.facebook.com/gxthanhtamhonai/posts/497713620366456/
Nguồn: Nguyễn - Chương Mt
Thứ Hai, 28 tháng 12, 2020
Tản mạn mấy dòng: CHÚA CỨU ĐỘ, vì sao?
Tản mạn mấy dòng: CHÚA CỨU ĐỘ, VÌ SAO?
* Ta nói, ngàn xưa cho đến hiện nay, có không biết cơ
man kẻ bơi trên dòng sông trần gian này bị lả sức, thấy bắt tội. Thấy vậy, có
người bèn chỉ cho nhân thế đang lặn ngụp thấy một cái bè vượt sóng để mà leo
lên, tự lực chèo chống thì ắt hẳn sẽ giải cứu được thân phận.
Ngặt cái, đâu phải ai cũng đủ sức để bơi tới chiếc bè
kia; thành thử có nhiều, rất nhiều kẻ trần gian đã đuối sức mà đành phải chìm lỉm
giữa dòng sông.
* Lại nói đến sự xuất hiện của một vị vì thương nhân
thế có quá nhiều kẻ yếu sức trước phong ba tục lụy, nên thay vì chỉ dẫn chiếc
bè, vị đó đã chấp nhận nhảy xuống dòng sông để ra tay kéo những kẻ yếu sức đưa
lên bờ. Vị đó là Jesus Christ, Đấng Cứu độ.
Nếu chỉ nương nhờ vào “Thiên tính” / “Thần tính”, vị
đó đã có thể đứng từ trên cao để ban phát phép lạ; nhưng không chỉ vậy, vị đó
đã mặc lấy hình hài con người thì cũng đồng thời mặc lấy “Nhân tính” – tức trực
tiếp cảm nghiệm hỉ, nộ, ái, ố của nhân loại, cũng phải chịu đớn đau, khổ nạn.
Để thấu cảm mọi cung bậc của kiếp người.
Mà nhờ vậy, kiếp người được vực dậy, được thánh hóa.
(ngày 25/12/2020)
Lễ Bạc cha Phaolồ Xuân
Lễ
Bạc cha Phaolồ Xuân
---------------------
Mới lần thứ nhứt, ở họ Tân-Hưng (Gia-định) có cuộc lễ Bạc (Noces d’Argent) của vị Linh mục bổn
sở là cha Paul Đoàn-thanh-Xuân, ngài trấn nhậm họ nầy đã 9 năm trường, nay nhơn
dịp lễ Đức Bà chẳng hề mắc tội Tổ tông
là lễ bổn mạng nhà thờ và cũng là ngày cho đồng nhi trong họ rước lễ trọng thể,
nên ngài cử hành luôn lễ Bạc để tạ ơn Chúa, vì người đã gìn giữ cha trong vòng
25 năm thăng chức Linh mục đặng vẹn toàn hồn xác - Cuộc lễ tuy đơn sơ những có
vẽ trang nghiêm và cảm động nhiều!
Vậy sớm mai Chúa nhựt vừa qua, sau một hồi chuông khai
mạc cuộc lễ, đúng 7 giờ khởi sự rước cha bổn sở và đồng nhi vào nhà thờ. Bọn
hát nhi nam do M. Pétrus Chánh chỉ huy, xướng kinh “Benedictus” nghe rất khởi hoàn. Cha Paul Xuân mặc áo lễ trắng tay cầm cây bông bạc, chậm rãi tiến vào
thánh đàng, trông gương mặt ngài rất bằng tịnh và cảm động!
Trước khi hành lễ, cha Paul Hiền, phó sở Thủ-dầu-một,
giảng một bài nghe thật hay và đầy ý vị.
Trước hết ngài khuyên lơn đồng nhi sắp chịu lễ trọng
thể hãy dọn mình mà lãnh lấy ơn Chúa ban. Sau ngài nói về quờn chức Linh mục và
công khó của cha Paul Xuân trong vòng 25 năm hiến thân làm việc Chúa, nhứt là
trong 9 năm coi họ Tân-hưng và 6,7 họ ngánh nữa.
Giảng đoạn cha Paul Xuân thân hành lễ trọng.
Sau lễ, bổn đạo nam nữ chào mừng cha như thường những
lễ Bạc xưa nay. Nhơn dịp nầy Nam-kỳ Địa-phận xin chúc cha sở Tân-hưng đặng sống
tới lễ vàng sang lễ Ngọc, ngõ làm ích cho Hội thánh Viêt-nam.
---------------------------------
Báo Nam Kỳ địa phận, số 1626, ngày 04 tháng 12 năm
1940.
Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2020
Mối quan hệ của học giả Trương Vĩnh Ký với triều đình Huế và Tổng trú sứ Paul Bert
MỐI QUAN HỆ CỦA HỌC GIẢ TRƯƠNG VĨNH KÝ
VỚI TRIỀU ĐÌNH HUẾ VÀ TỔNG TRÚ SỨ PAUL BERT
Trương Vĩnh Ký là một trong những học giả tiên phong
và kiệt xuất của nền văn học viết bằng chữ quốc ngữ vào thời kỳ đầu Pháp thuộc,
cách nay hơn 150 năm. Năm 1869, ông là người Việt Nam đầu tiên lãnh trách nhiệm
quản lý tờ báo Việt ngữ đầu tiên trong lịch sử báo chí của nước ta, tờ Gia Định
Báo. Trong sự nghiệp học thuật của mình, ông đã biên soạn hơn 100 tác phẩm, chủ
yếu bằng Việt ngữ, với nhiều thể loại khác nhau, là một di sản quý báu đến nay
vẫn còn giá trị.
Bài viết này xuất hiện trên Facebook cách đây đúng 5
năm, khi ấy số bạn bè trên trang này chưa nhiều, mặt khác trong mấy năm gần
đây, các vấn đề liên quan đến học giả Trương Vĩnh Ký vẫn còn được tiếp tục trao
đổi, thảo luận, tranh luận sôi nổi trên sách báo, trên mạng xã hội. Nhận thấy
câu chuyện vẫn chưa mất thời gian tính, xin giới thiệu lại với các bạn bài viết
khá dài nhắm vào 3 chi tiết chính:
- Thực chất chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi 1876 của
Trương Vĩnh Ký là gì?
- Mối quan hệ giữa Trương Vĩnh Ký với vua Đồng Khánh
và triều đình Huế
- Mối quan hệ giữa Trương Vĩnh Ký và Paul Bert, Tổng
trú sứ Trung và Bắc Kỳ, vào thập niên 1880
Trân trọng
I) TRƯƠNG VĨNH KÝ VÀ CHUYẾN ĐI BẮC KỲ NĂM ẤT HỢI 1876
Nói đến khả năng về ngoại ngữ của Trương Vĩnh Ký, có
thể viện dẫn sau đây mấy dòng hồi ký của một du khách người Anh là J. Thomson,
trong tác phẩm nhan đề “10 năm du hành ở Trung Quốc và Đông Dương”, được trích
dẫn trong tác phẩm “Un savant et un patriote cochinchinois – Petrus J.B.
Trương-Vĩnh-Ký (1837-1898)” của Jean Bouchot – Editions Nguyễn Văn Của- Saigon-1927:
“Vốn là một giáo dân Nam kỳ và là giáo sư dạy tiếng mẹ
đẻ của ông tại Trường Thông ngôn Sài Gòn, ông Petrousky (Petrus Ký-LN) là một
ngoại lệ đáng lưu ý trong số những người bản xứ mà tôi vừa giới thiệu cùng bạn
đọc. Ông từng theo học tại trường dòng Penang và tôi không bao giờ quên nỗi
kinh ngạc khi được giới thiệu với ông. Ông nói chuyện với tôi bằng một thứ tiếng
Anh rất vững, với một cách nhấn nhẹ nhàng của người Pháp, còn với tiếng Pháp,
ông diễn tả không kém phần trong sáng và lịch sự. Tiếng Y Pha Nho, Bồ Đào Nha,
Ý, ông cũng quen thuộc như những ngôn ngữ phương Đông; chính nhờ sự hiểu biết đặc
biệt này mà ông đang nắm giữ một địa vị cao. Một ngày nọ đến thăm ông, tôi nhìn
thấy ông đang viết quyển Phân tích, đối chiếu các thứ tiếng chủ yếu trên thế giới,
tác phẩm mà ông đã phải bỏ ra 10 năm lao động miệt mài…” (J. Bouchot, sđd,
trang 43)
Nhờ sự uyên bác ấy mà vào năm 1863, Trương Vĩnh Ký được
tháp tùng phái bộ Phan Thanh Giản trong chuyến đi sứ sang Pháp (*) và quen biết
với nhiều nhân vật nổi tiếng tại châu Âu lúc bấy giờ như Victor Hugo, Ernest
Renan, Littré, Paul Bert…
Trong những thập niên 1860-1870, ngoài tư cách là người
phụ trách tờ Gia Định Báo (từ 16.9.1869), Trương Vĩnh Ký còn giữ nhiều trách vụ
khác như: thông ngôn của Soái phủ Nam kỳ, giáo sư trường thông ngôn (Collège
des Interprètes), giáo sư trường Tham biện hậu bổ (Collège des Stagiaires), được
Pháp phong ngạch trật Huyện hạng nhất vào năm 1872.
Trong thời gian cộng tác với Pháp, Trương Vĩnh Ký đã
thực hiện hai cuộc Bắc hành (theo nghĩa đi về phía Bắc Sài Gòn), vào những năm
1876 và 1886. Chuyến thứ nhất được kể lại trong tập hồi ký bằng tiếng Việt, bìa
in ba thứ tiếng: Pháp (Voyage au Tonkin en 1876), Việt (Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất
Hợi (1876) và Hoa. Chuyến thứ hai đánh dấu bằng nhiều thư từ trao đổi giữa
Trương Vĩnh Ký và một nhân vật quan trọng bậc nhất của Pháp tại Việt Nam lúc bấy
giờ là Tổng Trú sứ Paul Bert.
Vấn đề đặt ra cho những người tìm hiểu các chuyến đi
quan trọng này của nhà học giả là mục tiêu chính của chúng ra sao? Tại trang đầu
tiên của tác phẩm Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi, người ta đọc thấy: ”Năm Ất Hợi,
bãi trường tham biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết.
Trong bụng muốn cũng đã lâu; nên xin với quan trên (đây ám chỉ thực dân
Pháp-LN), nhơn diệp (sic) chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sấm (sic) hòm rương
áo quần. Rủ thầy ba Hớn với ông sáu Thìn, nguyên một người ở tỉnh Bắc Ninh, một
người ở Sơn Tây mà vào trong Nam kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa
là cho họ về thăm quê quán….”
Như vậy theo tinh thần đoạn mở đầu, Trương Vĩnh Ký thực
hiện chuyến Bắc hành lần thứ nhất nhằm “chơi một chuyến cho biết”, nói chung là
một chuyến du hành “phi chính trị”. Đến miền Bắc, ông đi nhiều nơi, từ Hà Nội,
Hải Phòng đến Hải Dương, Thanh Hóa…Ở đâu, ông cũng được tiếp đón một cách trọng
thị. Các công sứ Pháp và các đại thần như Tổng đốc Hà Nội Trần Đình Túc, Tổng đốc
Hải Dương Phạm Phú Thứ, Tuần phủ Nguyễn Tăng Doãn …đã dành cho ông những cuộc hội
kiến thú vị.
Tuy nhiên, qua những gì diễn ra trong và sau chuyến
đi, nhiều người tin rằng đó không phải là một chuyến du hành suông. Pétrus Ký
được hưởng lương trong suốt thời gian 3 tháng du hành và khi về, ông đã lập một
báo cáo chi tiết dài 8 trang đề ngày 28.4.1876 gửi Thống Đốc Nam kỳ Duperré (về
Pháp từ tháng 2 đến tháng 7.1876) thông qua viên Tham mưu trưởng Regnault de
Premesnil.
Báo cáo của học giả họ Trương mở đầu bằng câu: “Tôi
hân hạnh gửi đến ông bản báo cáo mà ông đã yêu cầu ở tôi về tình hình chính trị
Bắc kỳ, nơi tôi vừa đến thăm..” (Jean Bouchot-Sđd-trang 34). Sau đó, Trương
Vĩnh Ký trình bày một cách thật chi tiết hành trình của ông trong ba tháng ở miền
Bắc, những nơi ông đã đến, những người ông đã gặp, trong đó có đoạn viết:”Các
quan lại thường hỏi tôi xem nước Pháp có ý định xâm chiếm xứ sở này không. Tôi
đã trả lời rằng không và tôi đã dựa điều tôi nói vào thỏa ước hòa bình và
thương mại, vào những lợi ích mà họ (người Pháp-LN) đảm bảo cho An Nam….” (Jean
Bouchot-Sđd – trang 39).
Nhiều chi tiết khác nữa cho thấy báo cáo ngày
28.4.1876 không phải là câu chuyện kể của một du khách độc lập, mà là bản tường
trình của một viên chức chính quyền cho cấp trên về một số vấn đề chính trị. Điều
này được chính Jean Bouchot thừa nhận trong tác phẩm dẫn trên, nhất là khi ông
liệt kê những gì liên quan đến một Trương Vĩnh Ký có mối quan hệ chặt chẽ với
nhà nước thuộc địa: năm 1872 được phong Huyện hạng nhất với mức lương 2.400
franc/năm, phụ trách các lớp dạy ngôn ngữ Đông phương với mức lương 9.000
franc, được bổ nhiệm làm thành viên Ủy ban tối cao giáo dục….
II) TRƯƠNG VĨNH KÝ VỚI PAUL BERT VÀ TRIỀU ĐÌNH HUẾ
Chuyến Bắc hành lần thứ hai của Trương Vĩnh Ký có liên
quan đến một nhân vật cao cấp của chính quyền thực dân mà ông đã gặp trong chuyến
tháp tùng sứ bộ Phan Thanh Giản năm 1863. Đó là Paul Bert, người từng giữ chức
vụ Bộ trưởng trong chính phủ Pháp.
Ngày 27.1.1886, Tổng thống Pháp ban hành sắc lệnh
thành lập chế độ bảo hộ ở Trung và Bắc kỳ, và bốn ngày sau, đề cử Paul Bert làm
Tổng Trú sứ (Résident général) hai miền này. Nhân vật này sinh ngày 17.10 1838
tại Auxerre (Pháp), là nhà sinh vật học, môn sinh của nhà bác học Claude
Bernard, đến năm 1868, đã thay chân Bernard tại Collège de France.
Vào thời đó, Paul Bert đã là tác giả các công trình
nghiên cứu về ghép cơ thể loài vật, về thuốc mê…Sau năm 1870, trong lúc vẫn tiếp
tục việc nghiên cứu khoa học, ông ta bước vào chính trường, làm đại biểu Quốc Hội
năm 1872, Bộ trưởng giáo dục vào những năm 1881-1882 .
Paul Bert đến Sài Gòn vào tháng 2 năm 1886, và người
Việt Nam đầu tiên mà ông ta nghĩ đến là Trương Vĩnh Ký. Hai bên trao đổi thư từ
với nhau, sau đó Paul Bert đến thăm gia đình nhà học giả Việt Nam. Ngày
8.4.1886, ông ta trở ra miền Bắc, thực sự nhận nhiệm vụ Tổng Trú sứ Bắc và
Trung kỳ.
Tuy khoảng thời gian ở Việt Nam thật ngắn ngủi, nhưng
Paul Bert đã miệt mài làm việc, thực hiện được nhiều điều trong cương vị đầy
khó khăn của mình. Ông ta thành lập các tòa công sứ (hay tòa trú sứ), một hệ thống
tổ chức mới mẻ, giúp củng cố chế độ cai trị ở cấp tỉnh, thành.
Nhờ một hệ thống thuế quan khéo léo, ông ta du nhập
vào Bắc kỳ nhiều sản phẩm từ chính quốc (Pháp) mà không làm rối loạn thói quen
sử dụng hàng châu Á của người bản xứ. Các mỏ than, đường sắt, việc vận tải đường
sông nhờ có Paul Bert mà trở nên nhộn nhịp hẳn lên. Ông ta đặc biệt chú trọng đến
việc giáo dục, đích thân giám sát các kỳ thi…
Đối với triều đình Huế, Paul Bert áp dụng chế độ bảo hộ
thực sự, để cho triều đình có một sự tự do rộng rải để hoạt động, từ chối việc
đặt một viên đại diện chính phủ Pháp tại Viện Cơ mật. Ngày 10.6.1886, thể theo
yêu cầu của ông ta, vua Đồng Khánh phải chia sẻ quyền hành cho một viên kinh lược
tại Bắc kỳ. Người đầu tiên đảm trách chức vụ này là Nguyễn Hữu Độ. Để đảm bảo
hơn nữa sự hữu hiệu trong chính sách của mình, Paul Bert muốn đặt hẳn một người
Việt Nam thân tín với ông ta tại triều đình Huế. Người này sẽ theo sát mọi hoạt
động của nhà vua, giúp đỡ nhà vua, theo cách mà chính quyền thực dân muốn. Tất
nhiên là với Paul Bert, người này không ai khác hơn Trương Vĩnh Ký.
Cần xác định rõ là vào thời kỳ Paul Bert đến Việt Nam
(đầu năm 1886), trong bộ máy cai trị của Pháp, có hai chức danh không thống thuộc
nhau, cho dù không ngang nhau về mặt hệ cấp. Đó là chức danh Thống đốc Nam kỳ
(Gouverneur de la Cochinchine) và chức danh Tổng trú sứ Trung và Bắc kỳ, hay
còn gọi là Toàn quyền Lưỡng kỳ (Résident général du Tonkin et de l’Annam). Viên
Tổng trú sứ chịu trách nhiệm việc cai trị Trung và Bắc kỳ, còn viên Thống đốc
chịu trách nhiệm riêng thuộc địa Nam kỳ.
Chỉ đến ngày 16.11.1887, sau khi Constans đến Việt Nam
nhậm chức Toàn quyền Đông dương đầu tiên thì sự chỉ huy thống nhất ba miền
Nam-Trung-Bắc mới thực sự nằm trong tay viên Toàn quyền. Chính vì thế, trong thời
gian còn ở Sài Gòn, chờ ra Bắc nhậm chức Tổng Trú sứ Bắc và Trung kỳ (dưới đây
gọi tắt là Tổng trú sứ), Paul Bert phải đạt được sự thỏa thuận của Soái phủ Nam
kỳ trong việc tạm sử dụng Trương Vĩnh Ký cho kế hoạch mà ông ta đã vạch ra. Điều
này gần như chỉ có tính hình thức, bởi vì quyền lợi của bọn thực dân thì ở đâu
cũng vậy, miễn là có lợi cho họ.
Ngày 22.3.1886, Paul Bert gửi cho Trương Vĩnh Ký một
lá thư nêu rõ hai việc:
- nhờ họ Trương lập danh sách những người có khả năng
thông dịch tốt để sau này bố trí cạnh các tòa công sứ của ông ta;
- mời vợ con Trương Vĩnh Ký cùng đi với ông (và Paul
Bert) ra Huế.
Năm ngày sau (27.3), họ Trương phúc đáp cho Paul Bert,
nêu rõ việc đã lập xong danh sách thông ngôn và nêu lý do vợ con không thể tháp
tùng ông được (Jean Bouchot-Pétrus J.B.Trương-Vỉnh-Ký (1837-1698) -trang 54-56).
Trong thư, Trương Vĩnh Ký có viết câu:”…tôi sẵn lòng đi với ông cùng vài thân hữu
đáng tin cậy, trong một sứ mạng tạm thời để rồi sau đó, âm thầm quay lại nghề
Nho, như ông Cincinnatus đã quay lại với cái cày của ông ta vậy…” (Sđd-trang
56)
Những ngày đầu tháng 4 năm 1886, Paul Bert và Trương
Vĩnh Ký đã có mặt ở Huế. Chính sử triều Nguyễn viết về sự kiện này như sau: ”Đại
thần nước Đại Pháp là Bôn Be sang làm toàn quyền đại thần. Viện Cơ mật tâu nói:
Tục các nước phương Đông, phương Tây, phần nhiều vụ lấy danh tiếng; cho nên các
bậc sĩ phu học rộng, đi đến nước nào, phàm được dự tuyển vào địa vị thanh cao
trọng yếu, thì lấy làm vẻ vang….Vua bèn chuẩn cho tôn toàn quyền đại thần Bôn
Be làm Hàn lâm viện trực học sĩ, và ẩn sĩ trong Nam là Trương Vĩnh Ký (người
Gia Định đi theo Toàn quyền đến) làm Hàn lâm viện thị giảng học sĩ…” (Đai Nam
thực lục chính biên-tập XXXVII-NXB Khoa học Xã hội-Hà Nội-1977- trang 147-148).
Xét về mặt phẩm cấp, chức danh Trực học sĩ của Paul
Bert cũng chỉ vào hàng chánh tam phẩm, trong khi theo qui định của thực dân
Pháp, chỉ riêng viên Khâm sứ Huế (địa vị nhỏ hơn Tổng Trú sứ Bắc và Trung kỳ)
đã xếp ngang Thượng thư, trật Chánh nhị phẩm rồi. Còn chức danh của Trương Vĩnh
Ký cũng chỉ ở vào hàng tòng tứ phẩm.
Sau khi để Trương Vĩnh Ký ở lại Huế, Paul Bert ra Bắc
và chính thức nhậm chức vào ngày 12.4.1886. Điều mà chúng ta cần tìm hiểu là
nhà học giả họ Trương đã nhận những nhiệm vụ gì của Paul Bert trong thời gian ở
Huế. Trước tiên có thể khẳng định rằng cho dù chỉ là một quan lại hạng trung,
nhưng với tư cách một người thừa ủy nhiệm của Tổng trú sứ Pháp, Trương Vĩnh Ký
được vua Đồng Khánh đối xử hậu hơn nhiều so với những bạn đồng liêu cùng cấp.
Trong thời gian ở Huế, vị học giả Việt vẫn thường
xuyên trao đổi thư từ với Paul Bert. Nội dung bức thư đề ngày 17.6.1886 của
Trương Vĩnh Ký hé lộ đôi điều về những việc Paul Bert muốn ông thực hiện. Thư
có đoạn viết:” Hiện nay tôi đã đỡ (bệnh) rồi, tôi ở lại đây; tôi sẽ nghiên cứu
người và việc, làm thế nào để khi nhà vua trở về, chúng ta có thể bước vào giai
đoạn tổ chức và thực hiện những chuyển đổi cần thiết, với một nhân sự xứng tầm
với nhiệm vụ. Tôi sẽ loại bỏ tất cả những kẻ được sủng ái và sẽ giúp nhà vua sắp
xếp Viện Cơ mật với những người thực sự có năng lực….
“Tái bút: Nhà vua đã đi sáng nay. Các ông Touté và
Halais đến trễ vài giờ, sẽ cùng với ông Pène đi gặp nhà vua vào tối nay, lúc
trăng lên….” (Jean Bouchot-Sđd-trang 61-62).
Rõ ràng là một trong những việc quan trọng mà Paul
Bert muốn Trương Vĩnh Ký giúp ông ta thực hiện là cải tổ sâu rộng thành phần
nhân sự của triều đình Huế. Việc này thành hay bại và ảnh hưởng ra sao, sẽ đề cập
đến ở phần cuối bài này. Tuy nhiên, qua nội dung bức thư, có thể thấy là vua Đồng
Khánh đã rời kinh đô đi Quảng Bình ngày 17.6.1886, đúng vào ngày 16 tháng 5 âm
lịch như bộ Quốc triều chánh biên đã ghi (Sđd-trang 422) để kêu gọi vua Hàm
Nghi quay về và các tổ chức nghĩa quân giải thể.
Điều cũng khá rõ là trong lúc nhà vua xuất hành thì
Trương Vĩnh Ký ở lại triều nội. Ngày 29.6.1886, Paul Bert viết cho Trương Vĩnh
Ký một lá thư thật dài kể lể về chuyện đạo Thiên chúa tại Việt Nam, đồng thời
cũng dành một đoạn để biện minh cho chủ nghĩa thực dân và trong phần cuối, đã
nhờ vị học giả “phủ dụ” giới nho sĩ Cần vương đừng chống lại “nhà nước Đại
Pháp”:
”Để tóm tắt lá thư thật dài này, tôi muốn nhờ ông làm
cho những bằng hữu theo Nho học, những nho sĩ tài năng của Việt Nam biết rằng
trong việc thi hành hòa ước, họ không phải sợ mất đi phẩm cách, tự do, quyền lợi.
Thay vì chạy vào rừng kích động những nông dân nghèo tự giết nhau và phá hoại,
họ nên hợp tác với tôi vì sự thịnh vượng của xứ sở họ”. (J. Bouchot Sđd-trang
67).
Như vậy, Paul Bert cũng muốn Trương Vĩnh Ký phủ dụ các
nhân sĩ yêu nước đang theo phong trào Cần vương kháng Pháp. Ngày hôm sau,
30.6.1886, ông ta lại gửi tiếp cho học giả họ Trương một lá thư ngắn nêu
rõ:”Tôi buộc lòng phải nhờ ông đặc biệt chăm sóc việc học cho Ngự đệ (không rõ
là ai –LN). Tuyệt đối phải dạy ông ta học chữ Pháp. À, phải chi ông có thể
khuyên nhà vua cũng làm như thế nhỉ (học tiếng Pháp – LN). Liệu ông có thể nói
trực tiếp với Ngài được không…” (J. Bouchot-Sđd-trang 67).
Như vậy, có thể tóm lược sứ mạng mà Paul Bert giao cho
Trương Vĩnh Ký có ít nhất ba điểm quan trọng:
- Cải tổ bộ máy nhân sự của triều đình Huế, có lẽ theo
thâm ý của Paul Bert là đưa những kẻ chủ hòa lên thay những quan lại “chủ chiến”.
- Chiêu dụ giới nhân sĩ đang hoạt động trong phong
trào Cần vương.
- Dạy cho vua Đồng Khánh và em trai học chữ Pháp.
Trong lúc tại Huế, Trương Vĩnh Ký thu phục được cảm
tình của vua Đồng Khánh thì ở Hà Nội, Paul Bert cũng cải tổ sâu rộng bộ máy thuộc
địa. Sự làm việc năng nổ tác hại lên sức khỏe ông ta. Trong một chuyến đi vượt
đèo Hải Vân cùng với viên Chánh văn phòng là Klobukowski (sau này làm Toàn quyền
Đông Dương –1908-1910) và vài người khác nữa, ông ta đã bắt đầu mang mầm bệnh sốt
rét.
Trở về Hà Nội, ông ta vẫn lao vào công việc: đi thăm
chùa Quảng Đông, nhận lời mời của quan Kinh lược, cùng nhiều việc khác nữa. Bác
sĩ Grall (**) nhiều lần khuyên ông ta phải giữ gìn sức khỏe, nhưng xem ra lời
khuyên này không có mấy tác dụng. Hai ngày sau khi đến nhà Kinh lược sứ Nguyễn
Hữu Độ, Paul Bert lại đi Kẻ Sở, sau đó về Nam Định, chủ trì kỳ thi Hương. Lần
này bệnh trở nặng khiến ông ta phải tức tốc quay lại Hà Nội, ra lệnh cho
Klobukowski gửi điện tín về Pháp, yêu cầu Bộ thuộc địa cử người kế nhiệm.
Ngày 11.11.1886, Paul Bert thở hơi cuối cùng, có người
thân đứng vây quanh. Ông ta chỉ làm Tổng Trú sứ hơn 6 tháng, nhưng những gì ông
ta làm được đã khiến cho nhiều người nhớ tới. Tên ông ta được dùng đặt cho nhiều
con đường ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn…
Trước ngày Paul Bert tạ thế, Trương Vĩnh Ký đang nghỉ
phép tại Sài Gòn, ngày 4.11.1886 còn gửi cho viên Tổng Trú sứ một lá thư. Trước
đó khá lâu, ngày 27.9.1886, ông gửi cho vua Đồng Khánh một thư bày tỏ tình cảm
và không quên nhắc nhà vua “học chữ Đại Pháp”…Tiếng là về Sài Gòn để lo việc
gia đình và dưỡng bệnh, kỳ thực thông qua thư từ, Trương Vĩnh Ký để lộ tâm trạng
bất an trước thái độ của người chung quanh đối với ông, khi ông còn ở cạnh vua
Đồng Khánh. Điều này được Khổng Xuân Thu, tác giả quyển Trương Vĩnh Ký
1837-1898 (NXB Tân Việt – Sài Gòn –1958) phát hiện khi sưu tầm tư liệu tại Tổng
thư viện Pháp, trong đó có tài liệu của bác sĩ Léon Gautier, bạn thân của văn
hào Victor Hugo, viết về Trương Vĩnh Ký. Tài liệu này có đoạn đáng chú ý sau:
”Những năm về sau, tiên sinh trao đổi thư từ với các
nhà văn hóa Pháp càng thưa thớt dần, và chỉ toàn những lời bi quan, yếm thế,
hay nói cho đúng hơn, chỉ là những lời thanh minh, bày tỏ ẩn khuất, bất mãn của
mình mà thôi. Theo như dư luận của các nhà cầm quyền cho hay thì trong giai đoạn
sau này, Trương tiên sinh gặp nhiều trở ngại về đường chính trị của mình. Có
nhiều người dèm pha, muốn tranh giành địa vị của tiên sinh (khi được sung vào
Cơ Mật vụ giúp cho nhà vua An Nam – đây có ý nói vua Đồng Khánh đã hết sức sức
tin dùng Trương Vĩnh Ký). Hoặc giả cũng có kẻ cho rằng Trương tiên sinh không
trung thành với nước nhà….” (Khổng Xuân Thu – Sđd-trang 139).
Quả thật, có thể mấy tháng cộng tác với Paul Bert và
hiện diện ở Huế đã gây ra trong lòng vị học giả một cú sốc. Vì thế, cho dù vua
Đồng Khánh hết mực ưu ái, ban cho ông một bức thư dài (sau được con ông là
Trương Vĩnh Tống dịch ra thành 234 câu thơ), sau khi Paul Bert qua đời, ông cố
tình ở lại Sài Gòn, không ra Huế nữa, tiếp tục nghề dạy học cũ.
Theo Bouchot, từ năm 1890, Trương Vĩnh Ký gần như nghỉ
hẳn công việc chính quyền, chuyên tâm nghiên cứu, viết sách, ông dịch quyển tự
điển Littré, tác giả là một người quen biết cũ, đến chữ cheval thì qua đời
(1.9.1898). Bài Tuyệt mệnh thi của ông nói lên nỗi trăn trở của nhà học giả
trong những năm cuối đời, sau những đóng góp to lớn cho nền học quốc ngữ, đồng
thời trong mối quan hệ với thực dân Pháp, tiêu biểu là trường hợp Paul Bert kể
trên. Đọc hai câu cuối trong bài thơ tuyệt mệnh của tiên sinh, lòng người đọc
không khỏi bùi ngùi:
Cuốn
sổ bình sanh công với tội,
Tìm
nơi thẩm phán để thừa khai.
-Chú thích:
(*) Xin nhấn mạnh là Trương Vĩnh Ký (cùng Tôn Thọ Tường)
đi Pháp với tư cách một viên chức trong bộ máy thuộc địa của Pháp tháp tùng sứ
bộ Phan Thanh Giản chứ không phải là thành viên của sứ bộ như nhiều tác giả đã
lầm tưởng.
(**) Sau này được lấy tên đặt cho một bệnh viện ở Sài
Gòn (bệnh viện Grall), nay là bệnh viện Nhi đồng 2
24.11.2020
Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2020
Mối quan hệ của cộng đồng người Hoa với phong trào Tây Sơn trong cuộc nội chiến 1771 - 1802
MỐI QUAN HỆ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA
VỚI PHONG TRÀO TÂY SƠN TRONG CUỘC NỘI CHIẾN 1771-1802
Trong phong trào Tây Sơn, những người đề xướng không
chủ trương một cuộc nổi dậy đơn độc. Họ cần có sự hỗ trợ của các thế lực bên
ngoài để tăng cường sức mạnh và họ đã kết nạp đủ mọi hạng người, đủ mọi sắc tộc
trên đất nước Việt Nam, trong đó người Hoa giữ một vai trò quan trọng trong
chính sách và chiến lược quân sự của nhà Tây Sơn.
Theo giáo sư George Dutton, hiện giảng dạy bộ môn Ngôn
ngữ và Văn hóa châu Á tại trường Đại học UCLA (University of California at Los
Angeles), Mỹ, tác giả quyển The Tây Sơn Uprising (Cuộc nổi dậy của nhà Tây
Sơn), vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII, nhân số người Hoa tại Đàng Trong ước
khoảng 30 ngàn người. Họ được phân biệt hai thành phần chính:
- người Minh hương đến Đại Việt vào nửa sau thế kỷ
XVII, đầu thế kỷ XVIII, gồm hầu hết những người trung thành với nhà Minh đã bị
người Mãn Thanh truất ngôi
- thành phần Thanh nhân là thần dân của nhà Thanh, đến
Đại Việt từ nửa sau thế kỷ XVIII trở đi.
Người Minh hương đến Đại Việt năm 1679, được chúa Nguyễn
cho vào Đông Phố (tên đất Gia Định xưa), định cư tại hai khu vực: Biên Hòa
(nhóm Trần Thượng Xuyên) và Mỹ Tho ngày nay (nhóm Dương Ngạn Địch). Nhóm Thanh
nhân đến sau vì nhiều lý do khác nhau, phần lớn để buôn bán, góp phần vào việc
phát triển thương mại trong vùng. Một số người trong nhóm này xuất thân từ các
gia đình ở trung tâm thương mại Hội An, tìm vào Nam khi khu vực từng buôn bán sầm
uất này trở nên thưa thớt dần, nhất là từ giữa thập niên 1630, sau khi chính
quyền Nhật Bản cấm mọi tàu thuyền đi ra nước ngoài.
Trong tác phẩm của mình, tác giả Dutton đã viết: “Người
Hoa tị nạn trên lãnh thổ Đại Việt đến chủ yếu từ vùng duyên hải Trung Hoa, song
ở bên trong khu vực này có nhiều tỉnh, người dân nói nhiều ngôn ngữ khác nhau
và mang theo các nền tảng xã hội và lịch sử đặc biệt của họ. Bên trong Đại Việt,
những người này có khuynh hướng quần tụ với nhau theo nguồn gốc xuất phát có
liên hệ trực tiếp với một ngôn ngữ mà họ chia sẻ cùng nhau. Vì thế, người Hoa sống
ở Đại Việt được nhận biết sự khác biệt rõ rệt bên trong các cộng đồng và giữa
các cộng đồng với nhau, những khác biệt phản ánh các nguồn gốc xuất phát khác
nhau và những trải nghiệm về di trú trong lịch sử”.
1. (sđd - bản dịch của Lê Nguyễn – NXB Tổng hợp in lần
thứ hai – 2019, trang 360-361)
Khi phong trào Tây Sơn nổi lên thì người Hoa thuộc hai
thành phần Minh hương và Thanh nhân đã định cư tại vùng đất Gia Định gần một thế
kỷ. Tại Trấn Biên (Biên Hòa), họ quần tụ nhiều ở Cù Lao Phố. Có những chứng cứ
cho thấy họ từng ủng hộ cả nhân lẫn vật lực cho phong trào. Tại miền Trung, hai
trong những thương nhân người Hoa đầu tiên tham gia trực tiếp vào phong trào
Tây Sơn là Tập Đình và Lý Tài. Tuy nhiên, sự hợp tác của lực lượng những người
Hoa này chỉ kéo dài khoảng vài năm và sự rạn nứt bắt đầu từ năm 1775. Theo thư
của một giáo sĩ tên Pierre-Jacques Halbout, nhiều thành viên trong các đạo quân
này đã có những hành vi trái khoáy, quấy rối người dân, gạ gẫm phụ nữ. Sự mâu
thuẫn lên đến mức chúa Tây Sơn là Nguyễn Nhạc dự mưu trừ khử Tập Đình, họ Tập
biết được, bỏ trốn về Quảng Đông (Trung Quốc) và bị nhà Thanh sát hại tại đây.
Lý Tài cũng không yên tâm về số phận của mình trong
tay nhà Tây Sơn nên ngay trong năm 1775, đã đầu phục chúa Định vương Nguyễn
Phúc Thuần, cầm đầu đạo Hòa nghĩa quân lập được nhiều công trạng. Song số phận
của Lý Tài cũng không hơn Tập Đình. Tại Gia Định, ông ta có sự bất đồng nghiêm
trọng với một trong những dũng tướng của chúa Nguyễn là Đỗ Thanh Nhơn, và cuối
cùng đã bị sát hại vào năm 1777 bởi bàn tay của đạo quân Đông Sơn dưới quyền họ
Đỗ.
Sau khi Tập Đình và Lý Tài không còn nữa, lực lượng
Hòa nghĩa quân vẫn tiếp tục được các chúa Nguyễn sử dụng. Cuối năm 1775, một
thương nhân người Hoa họ Tất đã tài trợ cho một cuộc nổi dậy do hai thành viên
trong dòng họ các chúa Nguyễn là Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân lãnh đạo để chống
lại anh em nhà Tây Sơn. Hai người này đã xây dựng lực lượng ở Quảng Nam và
nhanh chóng chiếm lấy hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn, buộc Nguyễn Nhạc phải dành
hai tháng chiến đấu với những đạo quân này và cuối cùng chỉ thắng thế khi quân
của Quyền và Xuân cạn hết đồ tiếp tế.
Tuy nhiên, những diễn biến đó không có nghĩa là mối
quan hệ giữa nhà Tây Sơn và cộng đồng người Hoa sống ở Đàng Trong đã kết thúc.
Dutton đã viết:
“Ngay khi mối quan hệ của các lãnh tụ Tây Sơn với các
thương nhân người Hoa như Tập Đình và Lý Tài suy sụp, những căng thẳng khác với
cộng đồng người Hoa cũng bắt đầu phát triển. Có vẻ như những căng thẳng đó phần
nào là sự căng thẳng giữa nông thôn và thành thị biểu lộ trong thời kỳ đầu của
phong trào Tây Sơn. Quân nổi dậy tấn công các đô thị, nơi phần lớn người Hoa
sinh sống, bởi vì họ cho rằng đó là những trung tâm của quyền lực chính trị và
kinh tế góp phần tạo nên các vấn đề xảy ra ở nông thôn”
( Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn – sđd , trang 366).
Cuối mùa Xuân năm 1782, mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn
và cộng đồng người Hoa sống ở Đàng Trong rơi xuống điểm thấp nhất khi quân nổi
dậy tàn sát một khối lượng lớn người Hoa ở Sài Gòn. Theo nhiều tài liệu khác
nhau, số người Hoa bị tàn sát vào khoảng từ 4 ngàn đến 20 ngàn người. Sự biến
này cũng được chính Thượng thư triều Gia Long và Minh Mạng là Trịnh Hoài Đức bổ
sung trong tác phẩm Gia Định Thành Thông Chí: “Tất cả hàng hóa buôn bán như vải
muslin, lụa, trà, thuốc, dầu thơm, và giấy bị tịch thu từ nhà của người Hoa, bị
vứt hết ra ngoài đường và không ai dám nhặt lên” (sđd - Đỗ Mộng Khương - Nguyễn
Ngọc Tỉnh dịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 38).
Nguyên nhân gần của cuộc thảm sát này là sự trả thù việc
đạo quân Hòa Nghĩa gồm phần lớn người Hoa đã sát hại một tướng lãnh tâm phúc của
Nguyễn Nhạc là Phạm Ngạn tại cầu Tham Lương. Song nguyên nhân sâu xa, theo
Dutton và một số nhà nghiên cứu, lại là động cơ thương mại: nỗ lực tiêu hủy sự
độc quyền thương mại của người Hoa tại thành phố Sài Gòn (Chợ Lớn ngày nay), giảm
thiểu khả năng ủng hộ quân chúa Nguyễn của thành phần xã hội này.
Tuy nhiên, mối quan hệ đầy ân oán đó vẫn không triệt
tiêu hoàn toàn khả năng hợp tác giữa cộng đồng người Hoa với nhà Tây Sơn. Một
năm sau vụ thảm sát tại Sài Gòn, tức năm 1783, các tàu buôn của người Hoa lại cập
cảng ở đây để buôn bán. Điều này cho thấy nhà Tây Sơn không tiếp tục theo đuổi
một chính sách kiên định nào đối với người Hoa, mà chính sách này biến đổi tùy
theo tình hình, đặc biệt tùy theo mức độ hợp tác, ủng hộ, của thành phần này đối
với chúa Nguyễn Ánh.
Sự ủng hộ của người Hoa đối với chúa Nguyễn Ánh, đặc
biệt tại vùng đất Gia Định, có thể được thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau,
trước hết là chính sách cứng rắn của nhà Tây Sơn đối với họ. Mặt khác, chính tổ
tiên nhiều đời của họ đã chịu ơn các chúa Nguyễn khi rời bỏ đất nước dưới sự
cai trị của nhà Mãn Thanh, được tạo điều kiện xây dựng một cuộc sống mới ổn định
và an bình. Điều này góp phần không nhỏ vào chiến thắng của chúa Nguyễn tại Gia
Định vào năm 1788, sau khi từ Xiêm (Thái Lan) trở về chỉ với mấy trăm tướng sĩ
tòng vong.
Có thể nói trên đất liền, ngay từ thập niên 1780, cộng
đồng người Hoa đã quay lưng lại với nhà Tây Sơn. Họ buộc lòng tìm kiếm sự hợp
tác của một thế lực người Hoa khác hùng mạnh hơn, sống trên biển Đông, đó là
các lực lượng hải tặc.
Vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII, nhiều nhóm hải
tặc hoạt động mạnh trong vùng biển trải dài từ tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, đến
duyên hải miền Bắc và miền Trung ngày nay. Trong vùng biển rộng lớn này, tàu
buôn đi lại tấp nập, tạo điều kiện thuận lợi cho sự cướp bóc của chúng. Mặt
khác, nhiều khu vực biển nông, địa thể hiểm trở, chúng dễ dàng tránh thoát sự
tróc nã của triều đình nhà Thanh. Trên nhiều bản đồ vào thế kỷ XVIII, XIX mô tả
vùng biển Đông của Đại Việt, người châu Âu mệnh danh một số hòn đảo là “đảo hải
tặc” (îles des pirates). Điều đó nói lên tính phổ biến của hoạt động đánh cướp
trên biển vào thời kỳ này.
Mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn và hải tặc người Hoa bắt
đầu từ giữa thập niên 1780, song mạnh mẽ nhất vào nửa sau thập niên 1790 và chỉ
kết thúc sau khi nhà Tây Sơn đã sụp đổ. Một trong những chỉ huy hải tặc người
Hoa đầu tiên được nhà Tây Sơn thu nạp năm 1783 là Trần Thiên Bảo. Ông ta được
phong chức Tổng binh, tước Bảo Đức hầu; một người bạn của ông ta là Lương Khuê
Hiệp cũng được phong tước Hiệp Đức hầu. Họ Trần được nhà Tây Sơn cho quyền tuyển
mộ hải tặc và phong cấp cho binh lính tân tuyển.
Từ thập niên 1790, lực lượng hải tặc tham gia trực tiếp
vào các chiến dịch quân sự của nhà Tây Sơn, nhiều người được phong các chức tước
quan trọng của triều đình. Một tay cầm đầu hải tặc tên Mạc Quan Phù được phong
tước Đông Hải vương; năm 1797, một người khác tên Ô Thạch Nhị được phong Bình
Ba vương. Đạo quân hải tặc người Hoa trong lực lượng của nhà Tây Sơn khá hùng hậu.
Mạc Quan Phù chỉ huy hơn 1.000 người, một người cầm đầu khác là Trịnh Thất chỉ
huy hơn 200 tàu thuyền. Chúng được sử dụng cho việc thường xuyên tuần phòng ven
biển, ngăn chặn những tàu thuyền tư nhân có thể di chuyển từ Bắc vào để tiếp tế
cho quân Nguyễn ở phía Nam. (tài liệu tham khảo chính: George Dutton và Dian
Murray – Pirates of the South China Coast, 1790-1810 – California 1987)
Năm 1801, sự thất bại nặng nề trong trận Thị Nại khiến
thủy quân Tây Sơn gần tan rã, hoạt động của các hải tặc Trung Hoa cũng giảm dần
và mất hẳn.
GHI CHÚ THÊM – Phong trào Tây Sơn là một đề tài đến
nay vẫn ẩn chứa nhiều ý kiến, quan điểm rất khác biệt nhau, bài viết hôm nay chỉ
giới hạn trong một khía cạnh nhất định, về mối quan hệ giữa phong trào này với
cộng đồng người Hoa, từ lúc khởi phát (1771) đến khi bị tiêu diệt hoàn toàn
(1802). Vì thế xin mọi ý kiến trao đổi trên diễn đàn này chỉ tập trung vào chủ
đề bài viết, dựa vào các nguồn tư liệu khả tín. Xin không hoan nghênh các ý kiến
ngoài chủ đề, nhất là nhằm đánh giá, phẩm bình về phong trào Tây Sơn, vì như thế
sẽ dễ dẫn đến những cuộc tranh cãi không có hồi kết và tạo cơ hội cho những kẻ
thích làm rối các diễn đàn. Chủ trương này không chỉ dành riêng cho bài viết
hôm nay, mà cho tất cả các bài viết lịch sử khác.
Bạn yêu sử nào thấy cần share bài này về trang nhà,
xin cứ tự nhiên, không phải hỏi tác già. Mặt khác, từ lâu nay, tác giả chỉ tag
bài cho những bạn có yêu cầu chính thức, bạn nào nay không còn yêu cầu này nữa,
xin hoặc thông báo (riêng hay công khai trên diễn đàn Facebook), hoặc không tiếp
tục cho hiện bài lên trang nhà, để tác giả biết mà ngưng tag bài. Các bài viết
về lịch sử luôn để ở chế độ public (công khai), những bạn có yêu cầu tag bài
nhưng tác giả chưa thể đáp ứng, xin vui lòng sử dụng chế độ share (chia sẻ).
Trân trọng
30.11.2020
Địa phận Sài Gòn: Mừng lễ Ngọc Cha Phêrô Đoàn Công Triệu
Mừng
Lễ Ngọc Cha PHÊRÔ ĐOÀN CÔNG TRIỆU
Thăng
quyền linh mục giáp 60 năm
(1875
– 1935)
--------------------------
Do theo Châu-tri Đức giám mục địa phận đã ấn hành
trong thiện báo Nam Kỳ Địa Phận, xuất bản ngày 8 Juillet 1935 nầy, thì chư vị độc
giả cũng dư biết rằng: Ngày thứ bảy 13 Juillet tuần rồi, là chánh ngày địa phận
Saigon mừng lễ Ngọc (Lục tuần Chánh tế) một vị Linh mục anh Cả rất đáng kính
trong địa phận.
Thật địa phận Saigon rất nên hân hạnh, vì từ 30 năm trở
lại đây (tức là từ 1904, mừng Ngũ tuần
chánh tế cha già Thomas Nguyễn Biểu Đoan), thì địa phận nầy đã được mừng
nhiều cuộc lễ long trọng khác trong hàng linh mục bổn quốc: nào là lễ Ngũ tuần
Chánh tế, nào là lễ Vinh qui Giám mục tiên khởi Việt nam, thảy đều là con cái của
địa phận đã sinh ra cả; nay lại tới phiên mừng Lục tuần Chánh tế nữa, thì đó là
một sự đại phước biết trùng nào!
Vã chăng lễ Ngọc là là một lễ rất hiếm có ở xứ ta xưa
nay, vì từ khi thăng quyền linh mục cho đến ngày mừng lễ nầy phải giáp 60 năm
chẵn. Thế mà cám đội ơn Chúa, hiện thời hàng đạc đức bổn quốc Saigon, đã được
hưởng thọ cái hân hạnh khoái lạc đặc biệt ấy! Bỡi vì sớm mai ngày 13 Juillet, tại
thánh trường Latinh Saigon, Đức giám mục cùng hàng linh mục địa phận đã cử hành
mừng lễ Ngọc một Đấng linh mục thủ chỉ thâm niên trong địa phận, là cha già
Phêrô Đoàn Công Triệu, thăng quyền linh mục giáp 60 năm vậy.
Vì cha Phêrô già cả ngoài 90 tuổi rồi, làm lễ không đặng,
nên cha Phaolồ Đoàn Thanh Xuân, bổn sở họ Tân Hưng, là cháu ruột của ngài, đứng
thân hành chánh lễ tạ ơn Chúa. Dự lễ có Đức giám mục và hơn 80 vị linh mục tây
nam trong địa phận hiệp chầu; cha già
Phêrô thì mình mặc áo Surplis, ngồi kề bên Tòa Đức giám mục – Các Dì phước
Annam và giáo hữu nam nữ phần nhiều là bà con thân quyến với cha già đến hiệp vầy
chầu lễ.
Đọc Evang rồi, thì cha Phaolồ Đoàn quang Đạt, chánh sở
Bà-rịa, cũng là cháu ruột của cha già Phêrô, ra trước bàn thờ phía Evang mà giảng
thuyết một bài về Lễ Ngọc của bác ruột của ngài, nghe rất hùng hồn, cảm động!...
Giảng xong, thì cha Phaolồ Xuân hành lễ tiếp. Lễ đoạn
xướng kinh Te Deum cảm tạ đội ơn
Chúa… thật là một khoảnh khắc rất khoái lạc và cảm động vô hồi!
Khi các lễ nhạc trong đền thánh đã yên rồi, thì Đức
cha cùng các đấng đam cha già ra chụp hình chung làm kỷ niệm; chụp hình rồi lại
đam cha già ra viếng mộ cha Bề trên Vị, là đấng đã tạo lập bổn trường, lại
chánh đấng linh mục mừng Lễ Ngọc hôm nay đây, xưa đã thọ giáo với cha Bề trên
và cũng xuất thân bỡi trường nầy nữa.
Đến 10 giờ, thì Đức cha và các đấng nhập tiệc, tiệc gần
mãn, Đức cha đứng dậy nói ít lời mừng chúc và cám ơn Cha già, vì trong vòng 60
năm, cha già đã giúp việc địa phận một cách trung thành sốt sắng hẳn hòi – Cha
già là một vị linh mục rất hiền lành khiêm nhượng, đáng nên gương mẫu cho trong
hàng đồng liêu bắt chước học đòi v.v, đoạn Đức cha đọc dây thép của Đức cha J.
B. Tòng gởi về mừng cha già Phêrô.
Đức cha J. B. Tòng tuy đang đau, nằm dưỡng bịnh tại
nhà thương St Paul Hanoi, nhưng ngài
cũng gởi dây thép về hiệp với huynh đệ, mà mừng chúc cha Phêrô, là vị anh cả
trong hàng đạc đức địa phận Saigon hiện thời.
Hanoi,
13 08 h 55 m
Ad
Centum Annos
Tòng
Bây giờ cha Ignatiô Bùi công Thích, đứng dậy thay mặt
các vị linh mục bổn quốc, nói ít lời chúc mừng cha Phêrô, mà cách nói của cha
Ignatiô rất có duyên, nên làm cho các cha vui cười rờm rã, tiếng vỗ tay nghe
chác cả một gian phòng!
Sau hết cha già Triệu xin Đức cha chuẫn cho các cha trẻ
cấm phòng năm nay khỏi l’examen, thì Đức cha ưng chịu, nên các ngài vui mừng lắm.
Ấy là hoàn tất cuộc lễ Ngọc. Chúc cho cha Phêrô sống thêm ngoài trăm tuổi –
Chúc hàng đạc đức địa phận Saigon còn được mừng nhiều lễ Ngọc khác nữa.
Thiên tuế - thiên thiên tuế…
Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1360, 1362, năm 1935
Thứ Năm, 24 tháng 12, 2020
Ghi địa danh tùy hứng, không theo qui chuẩn gì ráo
GHI ĐỊA DANH TÙY HỨNG, KHÔNG THEO QUI CHUẨN GÌ RÁO
Kỳ 2: "BẮC KẠN", cách viết... đầu cua tai
nheo!
* Chọn qui chuẩn ra sao, trong cách ghi địa danh tại
Việt Nam?
Mời quí bạn đọc kỳ 1, nói về cách ghi "Đắk Lắk",
"Đắk Nông" (https://www.facebook.com/nguyenchuong158/posts/1083460625421250).
A/ Có 2 lối giải thích, một dựa vào danh từ Việt-Hán /
một dựa vào chữ Nôm, trong đó có liên quan đến biến âm từ tiếng Tày - Nùng.
A1) Dựa vào danh từ Việt-Hán:
* Được dựa vào bản văn bia "Tam hải hồ sơn
chí" tại Hồ Ba Bể, vào năm 1925, rằng địa danh tỉnh này được ghi là 北 扞:
BẮC CẢN (nghĩa là: nơi phòng ngự/chở che phía Bắc, được hiểu là phía Bắc so với
kinh đô Thăng Long). Và được cho rằng biến thanh: thanh "hỏi" thành
thanh "nặng": Bắc Cản => Bắc Cạn.
Tức, chữ "cạn" ở đây KHÔNG mang nghĩa, mà
thuần túy là biến âm mà thôi.
* Lại có luồng ý kiến giải thích "Bắc Cạn"
xuất hiện từ rất lâu (chớ không phải đợi đến đầu thế kỷ 20). BẮC CẠN được viết
là: 北 𣵲.
Địa danh BẮC CẠN được ghi trong "Tên làng xã Việt
Nam đầu thế kỷ XIX" của Viện nghiên cứu Hán Nôm (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1981), chẳng hạn ở trang 158 / Địa danh BẮC CẠN 北 𣵲
còn được nhắc đến nhiều lần trong "Đại Nam nhất thống chí" của Quốc sử
quán Triều Nguyễn / Rồi theo "Sổ tay địa danh Việt Nam" của Đinh Xuân
Vịnh (Nxb Lao động, Hà Nội, 1996) thì địa danh BẮC CẠN đã có từ đời Lê!
Ở đây, có một điều... khá tréo ngoe thì phải? "BẮC"
北
là âm Việt-Hán (quen gọi là Hán-Việt, ở đây tôi đảo vị trí chẳng qua là muốn nhấn
mạnh đọc theo âm Việt đối với chữ Hán, không đọc theo âm tiếng Tàu). NHƯNG, xin
chú ý, trong chữ Hán thì KHÔNG có chữ nào phát âm là "cạn" hết (chỉ
có chữ 乾 đọc
là "CAN" - và "can" 乾 này mang nghĩa là
"cạn").
"CẠN" là tiếng Nôm, và được viết bằng chữ
Nôm như ri: 𣵲 (gồm bộ "thủy" 氵ghép
với chữ "kiện" 件). Vì sao lại có kiểu ghép giữa một chữ Hán
("Bắc") với một chữ Nôm ("Cạn")?
Nếu "cạn" (trong "Bắc Cạn") mang
nghĩa là... "cạn / khô cạn", sao không viết bằng hai chữ Hán là
"BẮC CAN" 北 乾 ("Can", ở đây,
mang nghĩa là "cạn / khô cạn" đó đa) cho đồng bộ?
A2) Biến âm từ tiếng Tày - Nùng:
Một giả thuyết được đưa ra: "BẮC CẠN", kỳ thực,
là ghi âm / biến âm từ ngôn ngữ bản địa Tày - Nùng (chớ "bắc cạn"
không mang nghĩa, "bắc" không phải là phương bắc, "cạn"
không phải là khô cạn).
Có nhiều ý kiến cho rằng nguyên ngữ Tày-Nùng là
"Pác Cạm", "Pác Káp", "Pác Can", "Pá Kạn"
.v.v... Ở đây không đi sâu tìm hiểu nghĩa của từng chữ này làm chi (dành cho giới
nghiên cứu chuyên sâu), mà quí bạn cần chú ý: hết thảy những "chữ
Tày-Nùng" đều viết bằng ký tự "P" (không phải "B").
B/ "ĐẦU CUA TAI NHEO"!
B1) Có khá nhiều địa danh tại VN là biến âm từ tiếng của
sắc tộc bản địa, như "Cà Mau", "Trà Vinh", "Sóc
Trăng", "Mỹ Tho" từ tiếng Khmer, "Đà Nẵng", "Nha
Trang", "Phan Rang", "Phan Rí" từ tiếng Chăm.
Thấy gì?
Không ai lại đi giải thích "Mau", trong
"Cà Mau", là... mau lẹ, mau chóng (tương phản với "chậm") /
"Trà", trong "Trà Vinh", là... lá trà, cây trà. Vì giải
thích như vậy là ngớ ngẩn, trớt hướt! Nên nhớ: đây thuần túy là phiên âm, đọc
trại âm, biến âm.
Cũng vậy, "cạn", trong "BẮC CẠN",
là được biến âm từ tiếng Tày-Nùng ("Kạn", "Káp"...).
B2) Phần lớn trong chúng ta không phải dân nghiên cứu
ngôn ngữ nên, nói nào ngay, cũng không bận tâm tìm hiểu "Cà Mau",
"Sóc Trăng" ... trong nguyên gốc nghĩa là gì hết ráo, mà hãy viết /
hãy đọc THEO ĐÚNG CHÍNH TẢ CỦA TIẾNG VIỆT.
Cũng vậy, đối với hai chữ "Bắc Cạn".
Trong chính tả tiếng Việt, không hề có "kạn (dòng
sông)" mà phải viết là "cạn (dòng sông)", viết "c" chớ
không "k"!
Ngay chữ "bắc" (trong "Bắc Cạn"),
trong từ nguyên bên tiếng Tày-Nùng ghi là "Pac", "Pá" - ghi
bằng phụ âm "p", nhưng khi chuyển qua TIẾNG VIỆT thì phải chuyển sang
phụ âm "b" cho đúng chính tả đó đa!
Hoặc ghi nguyên ngữ của tiếng sắc tộc bản địa, tỉ như
"Pá Kạn" gì đó. Hoặc, khi đã chuyển sang tiếng Việt, là "Bắc"
thì phải Việt cho trót là "Cạn" - chớ không thể đầu cua tai nheo được!
Mà, như một số tài liệu dẫn trên, từ thuở xa xưa các
thế hệ tiền nhân chúng ta đều đã đọc là BẮC CẠN 北 𣵲,
mắc giống gì phải bẻ thành "bắc kạn" rứa hè?
C/ QUI CHUẨN TRONG CÁCH GHI ĐỊA DANH
Có hai cách:
C1/ Chúng ta đang sống trên lãnh thổ ... dùng TIẾNG VIỆT,
thành thử các địa danh - dù cho xuất phát từ tiếng của các sắc tộc bản địa -
thì ĐA PHẦN cũng PHIÊN ÂM & áp dụng theo đúng CHÍNH TẢ trong TIẾNG VIỆT!
Như "Sa" (trong Sa Đéc) là từ
"Phrsa" (trong Phrsa Dek) của tiếng Khmer, mình đâu cần phiên âm
/phr/ làm gì cho mắc mệt - bởi lẽ trong tiếng Việt đâu có phát âm /phr/. Vậy
đó.
C2) Cũng có một số địa danh không ghi phiên âm, mà
dùng y xì nguyên ngữ của sắc tộc bản địa. Tỉ dụ: "Pleiku",
"Kontum" (*).
Nếu phiên âm và viết đúng chính tả tiếng Việt sẽ là
"Lây-cu", "Công-tum" (vì tiếng Việt không có phụ âm
"pl", cũng không qui định viết ký tự "k" trước nguyên âm
"u" / "o" mà phải viết "c"! - như "củ (khoai)"
(chớ không "kủ (khoai)"), "con công" (chớ không "Kon
Kông").
Thôi thì... "Pleiku" coi bộ dễ nhìn hơn là
"Lây-cu".
Trở lại ví dụ địa danh mở đầu bài viết này: hoặc viết
BẮC CẠN (phiên âm theo đúng chính tả tiếng Việt), hoặc viết PÁ KẠN chẳng hạn
(theo nguyên ngữ của người Tày - Nùng).
Nguồn: Nguyễn - Chương Mt
-------------------------------------------------------------
(*) Pleiku hay Plei Ku? Kontum hay Kon Tum? - tôi
không rõ ngôn ngữ sắc tộc trên cao nguyên này là đa âm tiết hay đơn âm tiết,
quí bạn nào biết, xin chỉ giúp cách viết cho thiệt đúng.