ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2013

Chợ Huyện ở Bình Dương


CHỢ CÂY ME

Nếu đi từ hướng thị xã, gần đến trụ sở UBND xã Bình Nhâm, rẽ ngã ba bên trái, qua cây cầu nhỏ bắt ngang rạch, rồi theo một con đường đất đỏ khá rộng đi sâu vào giữa những vườn cây trái xanh um, bạn sẽ đến một nơi có tên là Cây Me. Ngay đối với nhiều người là dân địa phương họ cũng không ngờ rằng nơi đây thưở xa xưa đã từng là một ngôi chợ có danh tiếng, từ thời vua Tự Đức, tiền thân của chợ Lái Thiêu, và rất có thể là ngôi chợ thuộc vào loại đầu tiên của tỉnh này.
“Chợ Bình Nhan Thượng, ở thôn Bình Nhan Thượng, huyện Bình An, tục gọi chợ Cây Me, nay hãy còn tên chợ Cây Me, từ chợ Bình Nhâm vào. Tại sao thay đổi Bình Nhan thành Bình Nhâm ? Trong Đại Nam Nhất Thống Chí, chữ Hán ghi rõ Nhan, theo nghĩa nhan sắc, dung nhan. Đổi ra Nhâm, có lẽ vì lúc sau này, kỵ húy trùng tên với quan chức địa phương nào chăng ? “ ( Sơn Nam, Địa Chí Sông Bé ).
Lái Thiêu và Búng còn là nơi cư trú khá an toàn của người theo đạo Thiên Chúa gốc từ miền Trung, hoặc từ Sài Gòn, lúc triều đình thi hành chính sách kỳ thị. Ban sơ giáo dân tụ ở Cây Me, và nhà thờ của họ đạo Lái Thiêu đầu tiên lập tại chợ Cây Me này, có bàn thờ chúa do Bá Đa Lộc cho xây dựng đơn sơ từ năm 1771. Như vậy ta hiểu, hồi giữa thế kỷ 17, nơi đây đã có người khai khẩn.
Một số học sinh trường Bá Nghệ Thủ Dầu Một từng đến chợ cây Me để lập trại cẩn xà cừ, đóng tủ, bàn ghế. Có lò nhuộm, làm gia công cho những lò lớn ở Gò Vấp. Rạp hát Cây Me cất sớm hơn rạp Lái Thiêu; gánh hát bội “Bầu Tảo” khoảng 1920, nổi danh với những cô đào “Thài” thu hút khán giả từ Búng, Lái Thiêu kéo đến xem.
Nhờ con rạch mà ghe tải ra vào được từ Bình Nhâm. Lần hồi rạch này cạn dần. Xung quanh vùng có vườn trồng thơm, lò bún, lò bánh tráng, bánh hỏi, lò hủ tiếu. Chợ Dĩ An phát triển với đề pô xe lửa, bạn hàng qua Cây Me mua hàng với khối lượng lớn. Như vậy sau năm 1913, đến thập niên 20 của thế kỷ trước, chợ Cây Me vẫn còn sung túc.
Một thời trước năm 1945, chợ Cây Me là trung tâm du ngoạn thu hút những người khó tính nhất của Sài Gòn và vùng phụ cận, người Pháp cũng ưa thích : Suối Đờn. Lại có thêm nghề làm khăn đen. Kiểu khăn đóng theo thời trang ở Nam bộ, rất cần cho hương chức hội tề, thân hào, điền chủ . “ Khăn đen suối Đờn do ông Nguyễn Văn Bút sản xuất và chào hàng ở Cầu Bông ( Sài Gòn ) được quảng cáo trên các báo, tiếng đồn khắp nông thôn tận phía Cà Mau.” Xưa có bài vè Suối Đờn:
Tiếng đồn Lục Tỉnh bốn phương
Sài Gòn, Chợ Lớn tìm đường đến chơi
Đường đi một buổi hẵn hoi
Anh em lớn nhỏ đi coi Suối Đờn
Bình Nhâm có chú Mười Hoài
Làm một dàn máy nó hay quá chừng !
Đương kêu vặn máy nó ngừng
Dưới ao ngũ hổ nước dâng lên liền
Trong nhà trống đánh cồng chiêng
Cũng như làng xóm Kỳ Yên trong đình
Muốn xin lớp nhạc cũng xong
Làm thầy gõ mõ tụng kinh cũng rành.

CHỢ BÚNG



Năm 1862, triều đình Huế ký “hoà ước năm Nhâm Tuất” , nhường đứt cho Pháp 3 tỉnh miền đông. Sau đó, Pháp liền chia cắt lại ranh giới 3 tỉnh này. Huyện Bình An thuộc tỉnh Biên Hòa, lỵ sở đặt tại Búng. Huyện Bình An lúc này bao gồm một địa phận rất rộng lớn, gồm cả tỉnh Bình Dương ngày nay, một phần Bình Phước, và quận Thủ Đức ( cũ ) của thành phố HCM. Sự kiện này cho thấy vào thời điểm đó, Búng phải là một nơi sung túc, phồn thịnh hơn các nơi khác trong khu vực.

Đường đi cũng có suối khe
Muốn lên chợ Búng mà nghe huê tình.

Đến năm 1867, Niên Giám Nam Kỳ thuộc Pháp đã ghi là tỉnh Biên Hòa chia ra làm 5 địa hạt, địa hạt Bình An thay cho huyện Bình An, lỵ sở đặt tại Thủ Dầu Một. Từ  thời điểm này, tầm quan trọng về chiến lược, chính trị … của Búng phải nhường cho một nơi khác. Tuy nhiên, về phương diện thương mại, Búng chưa thể suy tàn ngay.
Búng hồi đó thuộc thôn Tương An, nay thuộc xã An Thạnh, nằm cách Thủ Dầu Một 6 km bằng đường bộ.  Người Pháp xây dựng nhà lồng chợ từ năm 1903. Chợ có hình chữ nhật với diện tích 150 x 30 m2 hướng ra đường quốc lộ 13 cũ. Bên kia đường là khoảng trống làm bến xe, có dãy tiệm quán hàng ăn bao bọc thành hình vòng cung. Đối diện với chợ ở khu đó là quán cơm Xã Hội nằm ven bờ rạch, nay là trụ sở lực lượng an ninh trật tự. Chợ có hai nhà lồng riêng biệt. Phía sau là khu chợ lộ thiên, người buôn bán tự che dù. Hai bên hông chợ người ta sử dụng vỉa hè, nhà ở hai dãy phố để buôn bán.
Năm 1912 chợ Búng được xếp vào thị tứ hạng ba ngang với Bà Rịa, Vũng Tàu, Hà Tiên, Tây Ninh !
Có nhiều cách giải thích khác nhau cho địa danh chợ Búng. Có người cho rằng vì chợ nằm gần cái búng nước( chỗ nước xoáy ); người khác lại nói do xưa gọi là “chợ Bưng”, vì đây đúng là vùng đất bưng, người Pháp viết trên bản đồ là “Bung “, người Việt đọc thành “Búng“; có người lại nghĩ do vùng này vốn nổi tiếng với nghề làm bún và món bún bì, do viết sai chính tả từ “ bún”  mà có tên là chợ Búng… Ngày nay, chúng ta thiếu cơ sở vững chắc để có thể xác định thuyết nào là đúng nhất, tuy nhiên biết được Búng từng được xếp ngang hàng với chợ Bà Rịa, Vũng Tàu, mọi người chắc ít ai ngờ.

 “Vào năm 1910 có 970 người dân, là một thị trấn xinh đẹp có nhiều lò gốm, có lò sát sinh, có đình chùa tươm tất, có chợ búa lợp mái ngói, là nơi tiếp tế cho Sài Gòn đủ loại trái cây như xoài, măng cụt, thơm…”( Sơn Nam, Địa chí  Sông Bé )
Búng là trung tâm của vườn cây Lái Thiêu nổi tiếng từ xưa tới nay. Là chợ đầu mối mua bán trái cây từ đây đi các nơi khác, nhất là vùng Gia Định. Vào mùa trái cây, dịp mùng 5 tháng 5, du khách các nơi kéo về du ngoạn cảnh vườn và ra chợ Búng thưởng thức món ăn ngon rất đông.
Chợ Búng đã qua thời vàng son nhất của mình, nhưng chính vào thời điểm mà vị trí của ngôi chợ ngày càng suy đi thì may mắn thay, lại có sự xuất hiện của một vài tiệm quán bán đồ ăn. Nhờ các quán ăn này mà tên tuổi chợ Búng đã vang xa khắp cả Nam Kỳ lục tỉnh trước đây và ngày nay vẫn còn được nhớ : món bánh bèo bì, bún thịt nướng của tiệm Mỹ Liên, Ngọc Hương…
Trong các quán ăn này, người ta luôn trưng bày các hủ kiếng đựng đồ chua như củ kiệu, củ cải, cà rốt … nhìn rất đẹp mắt và hấp dẫn. Bây giờ không ai còn ngờ được Búng từng là trung tâm huyện lỵ của một vùng đất vô cùng to lớn, rằng Búng đã từng ngang hàng với chợ Vũng Tàu, Bà Rịa … nhưng thương hiệu bánh bèo Mỹ Liên thì du khách nhiều nơi nay vẫn còn biết đến.
 Ngoài ra cũng nên nhắc đến một thương hiệu khác : “ Phở Cây Xoài”, một tiệm phở chủ nhân là người Bắc đã bán từ năm 1955 đến nay. Thập niên 60, có quán cơm xã hội, loại quán bán cho người nghèo nằm đối diện với cửa chợ, bên bờ rạch. Khu vực Cầu Ngang có rất nhiều hàng quán phục vụ khách du lịch, mở trong vườn trái cây. Quán ăn chưa có điểm nào nổi trội lắm, riêng cà phê có quán Đồng Vọng, mở sâu trong vườn, chuyên mở nhạc Trịnh Công Sơn, hiện nay cũng là điểm đến lý thú.
Ngày nay chợ Búng đã được xây cất lại khá khang trang, tịêm quán hai bên đường mọc lên san sát, nhưng giờ đây nó chỉ là một ngôi chợ nhỏ nếu so với các chợ khác trong tỉnh. Một thời vang bóng của Búng đã qua.

CHỢ LÁI THIÊU

Chợ Lái Thiêu thành hình sau chợ cây Me, và có thể sau cả chợ Búng. Lái Thiêu từ xa xưa là địa bàn cư trú của nhiều lớp cư dân người Việt đầu tiên đến đây làm ăn sinh sống. Chính vì thế, ở đây tập trung nhiều ngành nghề truyền thống như gốm sứ, điêu khắc, chạm trổ, mộc … Nghề mộc, nghề vẽ tranh kiếng phát triển với tốc độ nhanh, mãi đến trước năm 1945. Dọc theo bờ rạch Lái Thiêu, có dãy nhà chuyên vẽ kiếng, thợ cẩn, thợ tiện, thợ mộc từ Bắc bộ vào sống ở quanh chợ. Thời Pháp mới đến, chợ Lái Thiêu còn thu gọn ven bờ rạch, nơi ranh giữa hai làng Bình Nhâm và Tân Thới. Cách bờ không xa là rừng thưa, rải rác những cây to. Là tụ điểm giao lưu thủy bộ nên chợ phát triển nhanh, tiệm quán tấp nập, chè cháo, cà phê bán suốt đêm, với nhiều khách vãng lai, không kém một tỉnh lỵ.

 “Theo niên giám Đông Dương năm 1912, chợ Lái Thiêu đứng đồng hạng với các chợ sung túc phía đồng bằng như Ô Môn, Bình Thủy (Cần Thơ ) và đứng vào hàng thị tứ quan trọng bậc hai, ngang với các tỉnh lỵ Trà Vinh, Thủ Dầu Một, Long Xuyên, Châu Đốc, Biên Hòa, sung túc hơn các tỉnh lỵ (thị tứ hạng ba) như Bà Rịa, Tây Ninh, Hà Tiên,Vũng Tàu. Tại Lái Thiêu, có ba nhà vựa cá đồng, phân phối cho các chợ lân cận, nhà có ghe cá từ U Minh ( Rạch Gía ) đến bán dịp tết, đậu lại đôi ngày chờ chở lu hũ, tô chén, bàn ghế về miền Tây. Lại còn khu vực chợ Đường, với nhiều nhà vựa dự trữ khối lượng lớn. Khoảng 1945 trở về trước, đường cát trắng là xa xí phẩm, nông dân và lớp nghèo thành thị thích dùng đường thẻ, đường móng trâu, màu sắc không đẹp nhưng rẻ tiền, phảng phất hương vị của mật mía.”  (Sơn Nam, sđd)
Chợ Lái Thiêu ở trung tâm huyện lỵ, nằm rãi rác theo các dãy phố như: Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ, Pasteur, Trưng Nữ Vương, Đỗ Hữu Vị và tập trung nhất là đường Nguyễn Văn Tiết. Những khu phố này được gọi là phố chợ. Vì sinh hoạt buôn bán xen lẫn với sinh hoạt dân cư do vậy dễ gây tình trạng mất vệ sinh, trật tự lưu thông. Năm 1989, khu phố Lê Lợi được cải tạo để xây dựng phố chợ, nhà lồng chợ theo kiến trúc hiện đại hơn xưa.
Chợ Lái Thiêu, ngoài đặc sản trái cây đã nổi tiếng từ lâu, phải kể đến các tiệm quán bán hàng ăn, đặc biệt là tiệm của người Hoa. Đây được xem là khu vực bán thức ăn ngon, và có nhiều giai thoại cũng cần ghi chép lại.
Các món ăn Tàu như mì, hủ tiếu, xíu mại, bánh bao … là các món chánh. Chợ Lái Thiêu là khu vực có rất nhiều tiệm mì Hoa, món mì hủ tiú hoành thánh, bò viên nơi đây được tiếng là ngon, có ngưòi còn cho là ngon hơn cả trên chợ Thủ.  Tiệm mì Phước Kiến, gần chùa ông Bổn, của chú Chuỵl, nổi tiếng ngon nhất Lái Thiêu thời trước 75, cùng với món vịt quay hảo hạng, nay đã nghĩ bán. Mì Triều Châu, mì Quảng Châu, gần cầu Lái Thiêu, đường Phan Đình Phùng, nay vẫn còn.
Đáng nhớ còn có những tiệm như Mì chú Hớ nấu theo cách của người Triều Châu, cọng to như cọng bánh canh của người Việt. Trên tô mì có kèm con tôm chiên lăn bột hoặc một miếng chả chiên. Ngày nay tiệm mì này đã nghĩ bán. Tiệm mì chị Ui người Quảng bán rất trứ danh, khoảng 1962 chị về Sài Gòn, bán ở chợ An Đông cũng tấp nập khách khưá một thời, sau 75 chị đi ra nước ngoài.
Xe bò viên của một ông các chú Tiều, xưa bán gần tiệm Trường Giang gần bờ rạch Lái Thiêu, nay con cháu vẫn tiếp tục bán ở chùa Ba,ø đáng kể là tiệm bò viên lâu đời nhất của Lái Thiêu, phải trên sáu bảy chục năm.
Khi tô phở Bắc khởi sự bán ở vùng đất này, dân địa phương không biết đó là món gì, người bán phải cất công giải thích đó là món hủ tíu nấu với thịt bò.  Để cải biên cho hợp với khẩu vị của dân địa phương vốn đã quen  các món ăn Tàu thường sử dụng tương xay làm nước chấm như món bò viên chẳng hạn, người ta đã bỏ tương vào tô phở. Đây là khác biệt lớn nhất của tô phở Bắc và phở trong Nam. Ngày nay, người miền Nam ăn tô phở không có tương thì họ không ăn được, không có tương thì với họ là món ăn gì đó chớ khơng phải phở.

Tiệm quán người Hoa, ngoài tiệm mì, phải kể đến tiệm nước, nơi bán cà phê, nước giải khát, các loại bánh ngọt, bánh bao, bánh tiêu… Ở Lái Thiêu thời trước có tiệm Đồng Tâm, rất nổi tiếng với món bánh bao. Bánh bao Đồng Tâm thưở ấy được cho là ngon nhất miền Nam. Sau thập niên 70, tiệm mất dần danh tiếng và sau 75 thì nghỉ bán. Ngày nay đi ngang nếu để ý ta sẽ thấy tấm bảng hiệu được sử dụng làm tấm vách phía sau nhà, hai chữ Đồng Tâm rạng rở thời nào nay tuy mờ nhạt song vẫn còn đọc được. Sau Đồng Tâm, nổi tiếng thứ hai là tiệm Hưởng Ký ở ngay dãy phố chợ, nay vẫn  còn bán.
Phần trên nói đến thức ăn của người Tàu, còn về món ăn của người Việt, nổi tiếng nhất Lái Thiêu phải kể đến Nem Lái Thiêu, tiệm gần ngã năm Lái Thiêu, tồn tại đã gần trăm năm. Người đầu tiên làm ra món nem này là bà Hai Dư, cách nay đã gần tròn thế kỷ, bà gánh gánh đi bán dạo, sau có tiếng rồi mới làm và bán tại nhà, hoặc bỏ mối cho tiệm bánh bèo bì ở chợ Búng. Nhờ một vài người bán dạo, nhất là một ông lão bị mù, và bạn hàng buôn chuyến mà thương hiệu Nem Lái Thiêu vang ra các tỉnh khác. Nhiều nghệ sĩ danh tiếng thời đó như Thanh Nga, Bạch Tuyết … từng đến tận cơ sở làm nem để mua về Sài Gòn, mỗi khi họ có dịp về Bình Dương. Nay tiệm vẫn còn hoạt động, vẫn làm theo lối thủ công truyền thống của gia đình, và nem Lái Thiêu vẫn là niềm tự hào về phương diện ẩm thực của người dân nơi đây.
Bình Dương là xứ đậu phộng nên từ lâu đã có nghề làm ra nhiều thứ kẹo đậu phộng, trong đó có kẹo đậu phộng sên đường trên miếng bánh tráng phồng nhỏ cở bằng cái miệng chén. Bình Dương cũng lại là xứ trồng điều, và người ta đã biết bắt chước cách làm kẹo đậu phộng bánh tráng bằng kẹo hột điều.  Nhất xứ Lái Thiêu và có thể nhất cả Bình Dương là kẹo hạt điều bàø Chín.  Bà mới vừa mất, gần trăm tuổi. Con cháu không ai theo nghiệp nên bí quyết của bà chắc sẽ thất truyền.  Ngày nay ai muốn thưởng thức loại kẹo giống như kẹo bà Chín đã làm có thể đến quán bánh bèo Mỹ Liên ở chợ Búng.
Kế đến là món mắm thái của bà Hai Lạc, nay bà đã mất lúc ngoài chín mươi tuổi. Thời trưóc 75 đây cũng thuộc vào loại mắm “tiến vua”, nói thế vì tỉnh trưởng thời đó có lần thết đãi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ăn cơm trưa với món mắm này rất được khen ngợi. Về sau, hàng năm tỉnh thưòng đặt bà Hai Lạc mắm để làm quà biếu  cho dinh Tổng Thống, đặc biệt phu nhân Tổng thống Thiệu rất thích loại mắm này, cùng với các đặc sản hàng năm như măng cụt, sầu riêng … Bình Dương rất được phủ Tổng Thống khen ngợi về món ăn ngon.
Phở Cây Bàng, nằm cạnh bờ rạch chợ Lái Thiêu, nay bị che khuất bởi các sạp hàng bán gia vị, tạp hóa nằm chắn ngay trước cửa nên khách đi đường không thể thấy được, nay chỉ  còn bán cho những người ở chợ. Tiệm bán từ trước năm 1945, chủ nhân là một người miền Bắc vào đây lập nghiệp từ đầu thế kỷ, giỏi nghề thợ mộc, xưa gọi thợ Bắc, nay ông đã ngoài 90, vẫn còn sống. Qua tiệm phở này, có thể cho rằng món phở độc đáo đã được du nhập trực tiếp từ Bắc vào Bình Dương mà không thông qua cửa Sài Gòn như nhiêàu thứ khác. Ngày nay có tiệm phở Lài là tương đối đông khách, ngoài ra là phở chay Phổ Minh, ở gần đó, ngay ngã ba Cây Liễu, lắm người nhận xét là phở chay mà còn ngon hơn phở mặn, thế nên dân Sài Gòn mà cũng biết tiếng, nhiều khi xách xe từ Sài Gòn chạy về đây để chỉ ăn tô phở.
Thời kinh tế thị trường, Lái Thiêu là cửa ngỏ để vào những khu công nghiệp lớn của Bình Dương như Sóng Thần, Việt Hương, Singapore … nên là cơ hội cho hàng quán thức ăn mọc lên. Ngoài một số nhà hàng lớn khu vực cầu Ông Bố, như quán phở Huỳnh Hoa, quán lẩu dê Thanh Sơn, quán Cá Lóc Nướng … Còn nhiều quán khác khai thác tâm lý thích cảnh đồng quê mát mẻ của dân thị thành đã xây dựng trong những nơi có vườn tược êm ả, khuất vắng.

CHỢ DĨ AN

Chợ Dĩ An, đến nay đã được 93 năm (2004). Chợ nằm ở khu phố Bình Minh, diện tích 3225 m2, có một nhà lồng chợ ( Pháp xây dựng từ năm 1911). Lúc này cũng là thời điểm deport xe lửa Dĩ An được thành lập ( 1913 ?), nên khu vực này từ đây ngày càng trở nên sầm uất.

CHỢ TÂN UYÊN

“Chợ Tân Uyên, ở xã Tân An, huyện Phước Chánh, tục gọi chợ Đồng Sứ, người các nơi mua bán đông đảo lại có cơ quan của tuần Bình Lợi đóng ở đây. Đây là kiểu trạm kiểm soát, thâu thuế sản vật từ trên rừng đem xuống.”(DNNTC)
Như đã nói ở phần trên, Tân Uyên là một trong những nơi mà người Việt thưở xưa đã đến định cư rất sớm, ngang bằng hoặc thậm chí trước cả Lái Thiêu vì nơi đây khá gần với Cù Lao Phố mà thời ấy nhờ nhóm người Hoa của Trần Thắng Tài, đã rất phát đạt, dấu hiệu cho thấy người Việât và Hoa đã định cư khu vực này khá đông rồi.
Trong tác phẩm của một nhà văn xứ Đồng Nai, ông Bình Nguyên Lộc, đã cho ta biết thêm về ngôi chợ này như sau: “Tôi chỉ hạn chế địa bàn quan sát trong tỉnh tôi thôi, là tỉnh Biên Hòa, không nói đến ba tỉnh khác là Tây Ninh, Thủ Dầu Một và Bà Rịa…
Bốn tiền đồn xuất quân trong tỉnh này là : tiền đồn lớn nhứt là chợ Tân Uyên, chợ huyện lớn nhứt trong tỉnh, Long Thành là chợ huyện lớn nhì trong tỉnh. Hai tiền đồn khác không phải là chợ huyện mà chỉ là chợ làng giàu là tiền đồn thứ ba và thứ tư. Đó là chợ Cây Đào và chợ Tân Ba “ ( Săn cọp Đồng Nai, Ma rừng)
Như vậy khi còn nằm trong địa phận tỉnh Biên Hòa thưở đầu thế kỷ, chợ Tân Uyên đã là ngôi chợ huyện lớn nhất, lớn hơn cả chợ Long Thành. Nhà văn còn mô tả phong cảnh chợ trong một truyện ngắn khác có tên “Câu dầm “ :
“-Cậu cũng biết chơ ù… chợ Tân Uyên mình địa thế tốt lắm. Mấy thầy địa lý cắc chú đi du phương, qua đó, thầy nào cũng khen. Nên cái chùa” Ông“ ( Ông đây tức là ông Bổn Đầu Công, tức Mã Viện ) sau chợ bị nhà nước bắt dời đi mấy lần, mà “ cắc chú” họ cứ rủ nhau xin để lại cho được mới nghe. Trước chợ, con sông, bờ cao ngất.
Nước sông trước chợ lại vận thành xoáy khu ốc, như cố ý dừng lại trước một địa thế linh thiêng. Bên kia sông, ngay chợ, khu rừng cấm Bình Hưng trên hòn cù lao Tân Chánh, ngó giống tấm bình phong, hay cái tam quan trước chùa chiền. Rừng sầm uất, cây cao, bóng mát đứng trên mé vực cao, nghiêm nghị rọi mình xuống sông sâu. Nếu không có chợ, nhà, người đi ghe thương hồ qua đó không khỏi sởn tóc gáy, vì cái vẻ linh thiêng, tịch mịch của nó.
Mấy ông hồi trước thuật rằng : “Ngay dưới miếng đất cất chợ có một cái hang ăn luồn vô riết tới chùa Ông, tới chỗ cái hồ trên miệng có xây con cá hoá long, cậu biết chớ ?”
“Cái chợ hồi trước còn lợp tranh, cứ vài năm lại cháy một lần. Đêm trước khi cháy chợ, dân làng nghe bên rừng tiếng gầm thét vang trời. Bởi vậy, hàng năm làng có lập đàn làm chay trứơc chợ, để tế Thần Cù và luôn tiện bố thí cho cô hồn, các đảng”.
 Thế nhưng Tân Uyên là vùng đất gò, khá cao nên trừ đất ven sông thì khô cằn, không thuận lợi cho việc canh tác, thua hẵn Lái Thiêu về việc trồng trọt, lập vườn. Đã vậy, dân cư thưa thớt, rừng rú nhiều, rất thuận tiện cho việc ẩn núp, tiến hành chiến tranh du kích nên thời thực dân, Tân Uyên luôn là điểm lý tưởng để lập căn cứ kháng chiến, do đó mà vùng này bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kinh tế khó bề phát triển. Ngày nay, hệ thống đường sá đến Tân Uyên đã được xây dựng khá đáng kể, hy vọng trong tương lai  gần hứa hẹn sẽ có nhiều chuyển biến tích cực. Nhìn lại vấn đề ẩm thực ở địa phương, Tân Uyên nổi tiếng nhất có món mắm nêm cả trăm năm nay, món ăn cần kiệm của con nhà nghèo, nhưng giỏi chế biến với những sản vật trồng trọt nơi đây như dưa đèo, đu đủ, thơm … Cháo lòng ở chợ, quán của hai vợ chồng là giáo viên, bán 10.000 một tô, tương đương giá tô phở ở nhà hàng Vũ Gia, Bình Dương, vậy mà khách vẫn đông.  Bên bờ sông chợ có quán Gió, nhìn qua cù lao Bạch Đằng. Thức ăn chưa có gì đặc biệt lắm nhưng ăn vẫn thấy ngon nhờ phong cảnh sông nước rất thoáng mát, hữu tình. Trên đường về chợ Tân Ba, đến xã Thạnh Phước, du khách có thể dừng chân ở quán Mười Ché, thưởng thức các đặc sản về tôm, cá lăng. Quán nằm sâu trong vườn, rất mát mẻ, lại gần sông Đồng Nai nên có nguồn tôm nước ngọt phong phú quanh năm. Tại đây món lẩu măng cá lăng là được khen ngợi nhiều hơn cả.

Tác giả: Hoàng Anh (CHS Trịnh Hoài Đức)


Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

Tha La Xóm Đạo : Người Trăm Năm Cũ


Tha La Xóm Đạo : Người Trăm Năm Cũ

Trước đây lâu rồi, tôi có viết một bài về Tha La Xóm Đạo theo hồi ức, đăng ở báo Giáo Xứ Việt Nam Paris năm 1986.
Bây giờ 25 năm sau, tôi lại viết về Tha La Xóm Đạo, nhân dịp sắp kỷ niệm 25 năm phong thánh 117 vị tử đạo ở Việt Nam (1998-2013).
Thành thật cám ơn Cha Petrus Nguyễn Văn Thắm, hiện là chánh sở giáo xứ Tha La, và cha Trần Anh Dũng, Giáo Xứ Việt Nam Paris đã giúp thêm tài liệu, hình ảnh.

Bối cảnh thời khai sinh xóm đạo 

Thường nghe kể, gần cuối trào vua Minh Mạng, khoảng năm 1837, ông Côsimô Nguyễn Hữu Trí cùng một số, độ mươi gia đình, lánh nạn bắt đạo (Thiên Chúa Giáo) từ Huế lần vào miền Nam, ban đầu dừng chân ở Bà Trà (Thủ Dầu Một) rồi di dời đến Suối Đá (Tây Ninh) và cuối cùng định cư tại Tha La, nay thuộc ấp An Hội, xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Họ tự lực khai khẩn đất hoang, ẩn náu mưu sinh, giữ gìn niềm tin đạo Chúa. Thuở đó họ chỉ tổ chức đọc kinh chung giữa các gia đình, địa điểm phải thay đổi luôn để tránh bị theo dõi, dò xét, khi xóm Lò Mo, khi ở Trường Đà.
Tại Tha La ông Côsimô Nguyễn Hữu Trí qui tụ thêm được ông Ngươn (ở Bầu Nâu), ông Hiệp (Rạch Thiên), ông Tròn, ông Trĩa, ông Rẫy, ông Ruộng, ông Phó Dần, ông Hương Quả (Lộc Giang), ông Tổng Phương, ông Tổng Long (Bãi Sau)… Ông Phó Dần, ông Hương Quả là người bên lương có liên hệ họ hàng với ông huyện Paulus Nguyễn Văn Viên, tín đồ Thiên Chúa giáo, một trong những người sau nầy góp công xây dựng nhà thờ Tha La.
Thời bấy giờ, Tha La chưa thành một họ đạo, chưa có linh mục coi sóc nên giáo dân muốn hành đạo, nhận các bí tích (xưng tội, rước lễ…) phải di chuyển 40-50 cây số, xuyên qua rừng, tới Lái Thiêu hay Chợ Quán.

Hình thành và Phát triển - Những niên biểu căn bản 

-         1840 Ông Côsimô Trí thỉnh thoảng mời được các linh mục ghé qua giúp giáo dân sống đạo như cha Hiểu, cha Tam, cha Lợi, cha Jean Claude Pernot (Định), 1832-1904.
-         1860 Lần đầu tiên có linh mục, cha Jean Baptiste BESOMBES (tên Việt là Hạnh), 1833-1867, người gốc vùng Aveyron (Pháp) thuộc Hội Thừa Sai Truyền Giáo Paris (M.E.P.). Nhà thờ sơ sài, mái tranh, vách lá được cất ở Lò Mo - Trường Đà (ấp An Lợi, xã An Hòa).
-         1862 Nhà thờ và nhà một số giáo dân bị đốt cháy bởi tương tranh lương giáo về quyền lợi, chính kiến… Dường như có xích mích giữa cha Besombes Hạnh và người bên lương ở Lộc Giang.
-         1863 Cha Jules ERRARD (Y), 1838-1891, thay thế cha Hạnh, cất nhà thờ tạm.
-         1868 Cha Edouard François Marie VINCENT (Sơn), 1835-1877, cất lại nhà thờ bằng vật liệu nhẹ, có mái tranh dài, một đầu là nhà thờ, đầu kia làm nơi cha cư trú. Sau cha qua đời tại chủng viện Sàigòn 1877, an táng tại Lăng Cha Cả, gần phi trường Tân Sơn Nhứt**
-         1870 Cha Jean FOUGEROUSE (Phụng), 1840-1898, lập 2 trường tiểu học (nam, nữ), nhờ các dì phước dạy học.
-         1874 Cha DƯ mở thêm lớp học.
-         1880 Cha Pierre Marie LALLEMENT (Liễu), 1850-1908, đến Việt Nam 1875, học tiếng Việt ở Bà Rịa và Cái Mơn, dạy chủng viện Thánh Giuse. 1880 : nhiệm sở Tha La. Sau đó cha nhiệm chức Bề Trên Giáo phận Vĩnh Long, đồng thời là trợ bút cho tờ báo Công giáo đầu tiên ở Việt Nam : Nam Kỳ Địa Phận.
-         1881 Cha Louis LAURENT (Bính), 1865-1934, muốn dựng lại nhà thờ bắt đầu hư cũ, nhưng đa số giáo dân đều nghèo. Cha trình với Đức Giám Mục Giáo Phận Sàigòn Isodore Colombert Mỹ, được khuyến khích và giúp cho 400 đồng. Cha tiếp tục vận động các nơi. Ông huyện Paulus Nguyễn Văn Viên hỗ trợ 2200 đồng, giáo dân đóng góp thêm, tổng cộng 3950 đồng. (Đức Cha Colombert Mỹ, 1838-1894, người gốc vùng Mayenne Pháp, thuộc Hội Thừa Sai Paris, đến Việt Nam truyền giáo 1863, xây dựng nhà thờ chánh tòa Sàigòn, viết nhiều sách tiếng Việt về đạo ; qua đời và an táng trong Vương Cung Thánh Đường Sàigòn.)
-         1885 Sau bốn năm cố gắng, nhà thờ khánh thành.
-         1887 Cha sở Bính hoàn tất việc cất nhà cha sở, với sự trợ giúp của ông huyện Viên (300 đồng) và một số giáo dân
-         1888 Cũng cha Bính tiếp tục khởi xướng việc xây tháp chuông, ba chuông nhứt nhì ba được ba người dâng tặng : ông huyện Viên, bà Thọ, thầy Giêng. Tiếng chuông ngân giống như chuông nhà thờ Đức Bà Sàigòn, vì cùng do hãng Pháp Bolee thực hiện. Bởi sự đóng góp đặc biệt của ông bà huyện Viên trong các công trình xây dựng nêu trên nên lúc qua đời được Giám mục Colombert Mỹ cho phép chôn cất trong nhà thờ. Sau nầy, khi xây lại nhà thờ mới, phần mộ của ông bà Huyện Viên được cải táng, hiện ở trước núi Đức Mẹ, xế mặt tiền nhà thờ Tha La.
-         1889-1890 Cha Jean Baptiste Marie CLAIR (Quang), 1851-1910, sang Việt Nam 1877, dạy trường Latinh 8 năm. Về coi Tha La. Mở hai địa điểm mục vụ mới : Rạch Gốc, Vàm Tây Ninh. Cha cộng tác với tờ Nam Kỳ Địa Phận, khi qua đời chôn ở Lăng Cha Cả**.
-         1909 Cha Victor Charles QUINTON (Tôn), 1866-1924.
-         1919 Cha Gioan Baotixita NGUYỄN THÁI TÔNG, 1870-1951, nới rộng nhà thờ thêm hai gian.
-         1944 Có thêm cha Phêrô Nguyễn Bá Kính về phụ giúp cha Tông.
-         1946 Cha Kính theo cách mạng kháng chiến, bị tử nạn ở huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
Không biết có phải hành động nầy khơi gợi phần nào cảm hứng cho thi sĩ Vũ Anh Khanh khi ông viết bài thơ Tha La đăng trong tập truyện Nửa Bồ Xương Khô, nhà xuất bản Tân Việt Nam Sàigòn 1949. Nghe rằng thi sĩ V.A. Khanh là bạn của nhà văn Thẫm Thệ Hà, tức giáo sư Tạ Thành Kỉnh, nên thi sĩ họ Vũ mới có dịp lưu trú tại quê hương Trảng Bàng của ông Thẫm, tác giả quyển tiểu thuyết Đời Tươi Thắm 1956, cũng lấy Xóm Đạo làm bối cảnh.
-         1950 Cha Phêrô ĐẶNG NGỌC THÁI về làm cha sở Tha La
-         1956 Cha đồng ý cho cha Trực đem đồng bào Bắc Việt di cư vào ở xóm Trường Đà.
-         1957 Cha Gioan Baotixita HỒ VĂN VUI (1917-2002 )
Xây thêm 4 căn, mở thêm lớp nhì và lớp nhất để học sinh có thể học hết bậc Tiểu học tại chỗ khỏi phải đi xa (ra Trảng Bàng), xin thêm 4 dì phước dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán về dạy. Lần đầu tiên có bảy thí sinh trường Xóm Đạo đi thi bằng Tiểu học, được sáu em đậu (1958).
Xây vách thành rào chung quanh nhà thờ.
Nới rộng hai bên cung thánh.
-         Xây hang đá Đức Mẹ, nhân kỷ niệm một trăm năm Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức (Lourdes - Pháp). Ngày khánh thành 9-12-1957 đoàn người rước kiệu dài sáu cây số, mời hàng ngàn khách lương giáo tham dự. Tước hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm (Immaculée Conception) từ đó là bổn mạng của họ đạo Tha La, hàng năm vẫn hành lễ vào 8 tháng 12.
-         Cất Hội quán cho Ban quới chức có nơi hội họp.
-         Xây thêm nhà thờ ở các họ nhánh : Trảng Bàng, Bình Nguyên, Phước Chỉ.
(Cha Hồ Văn Vui trước đó là chánh sở nhà thờ Đức Bà Sàigòn, bị nghi ngờ không thích chính quyền thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, cha về nương náu tại Tha La với sự chấp thuận của Đức Cha Simon Hòa Hiền - hồi đó Tha La còn thuộc Tòa Giám Mục Sàigòn. Đến năm 1960 cha rời Xóm Đạo, qua ngã Campuchia sang Pháp học và tốt nghiệp ngành Xã hội học. Sau trở về Việt Nam, có lúc nhiệm chức Giám đốc Cơ Quan Bái Ái Công Giáo Caritas Việt Nam.) 
-         Sau 1960, cha phó Luca Nguyễn Phước Quan tiếp tục điều hành giáo sự Tha La.
-         1965 Cha Giacôbê HUỲNH VĂN CỦA 
Đề xướng việc xây Đài Đức Mẹ ở 6 giáo khu, mỗi khu tự chọn tước hiệu Đức Mẹ, buổi tối giáo dân họp nhau đọc kinh, lần chuỗi.
Xây thêm ở Gò Dầu và ở biên giới, Gò Dầu Thượng : nhà thờ, nhà cha sở, trường học, quán cơm xã hội…
-         1966 Địa phận Phú Cường thành lập, từ đó Tha La trực thuộc giáo phận Phú Cường.
-         Xóm Đạo Tha La thành họ đạo, chính thức được nâng lên hàng giáo xứ cùng với ngôi thánh đường, ranh giới và giáo dân hiện hữu (Nghị định 22-9-1966 do GM Phạm Văn Thiên ấn ký, Prot. N 311/66).
-         Cha Gioakim NGUYỄN VĂN NGHỊ, cũng năm nầy, về làm chánh sở. Ngôi nhà thờ cũ cần xây lại, tân trang, họ đạo không đủ tài chánh, cha Nghị đề ra sáng kiến : mỗi ngày giáo dân để vào heo đất tiết kiệm 2 đồng.
1970 Sau 3 năm khổ công lo toan, nhà thờ khánh thành, có thêm biệt danh “Nhà thờ hai đồng”. Cha Nghị còn tu sửa lại nhà xứ. Các công trình nầy, ngoài cha sở Nghị vất vả, còn nhờ ông Antoine Nguyễn Văn Gia tận tình hỗ trợ, chẳng những giúp công, giúp của, ông còn giúp làm ruộng của nhà chung suốt mấy mươi năm không nhận thù lao.
-          Cha Nghị cũng di dời hai ngôi mộ của Ông Côsimô Trí và Ông bà huyện Viên ra trước hang núi Đức Mẹ, xế mặt tiền nhà thờ.
-         Cha còn khởi xướng việc cử hành trọng thể lễ kính ông bà, tổ tiên tại nghĩa trang Tha La vào ngày 2 tháng 11 hàng năm.
-         1995 Cha Giuse NGUYỄN TẤN TƯỚC 
Cất nhà quàng trong nghĩa trang Tha La, 
xây vòng rào bao quanh nghĩa trang 
và xây rào quanh nhà thờ.
-         2000 Cha Philipphê TRẦN TẤN BINH 
Tu sửa cung thánh, tráng xi măng sân nhà thờ.
Lập nhà máy nước cung cấp nước sạch cho dân xã An Hòa.
-         2005 Cha Petrus NGUYỄN VĂN THẮM 
2006 Xây lại hội quán nhà thờ,
2007 Lấy lại được ngôi trường Tiểu học mà nhà nước đã “mượn” từ năm 1975.
2009 Nhà nước trưng dụng 56 mẫu ruộng của nhà chung mà giáo dân đang canh tác để làm khu Công Nghiệp Bourbon An Hòa. Cha thương lượng để các người trực canh và giáo xứ được bồi thường.
Xóm Đạo Tha La trở thành họ đạo tiên khởi ở Tây Ninh. Từ năm 1837 manh nha với hai mươi gia đình, đến nay, năm 2012 tức 175 năm sau, Tha La có hơn hai ngàn nóc gia với khoảng năm ngàn giáo dân, trải qua 50 đời cha sở góp công vun bồi.

Địa danh và con người 

Theo ông Hồ Đình Vũ trong bài Địa Danh Miền Nam thì do bởi sự kiện người Khmer sống chung lẫn với người Việt nên có nhiều địa danh bắt nguồn từ ngôn ngữ Khmer được Việt-hóa như Tha La : tiếng Khmer là Schla đọc trại ra.
Schla : nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng (của tu sĩ Phật giáo). Cũng có giải thích khác : trạm, trại, nhà lồng, nhà mát… hay “Tha La là một loài cây linh thiêng của đạo Phật” (Thương 358. Commentaire, Site You Tube Tha La Xóm Đạo 17-10-2007)

Trong Việt Nam Tự Điển II (quyển hạ) của Lê Văn Đức cùng một nhóm văn hữu soạn, Lê Ngọc Trụ hiệu đính, ghi : Tha La=chòi, trại của thầy sãi Cao Mên : xóm Tha La, cát Tha La…
Nghe nói trong các vùng trước đây có người Miên sinh sống nhiều như Trà Vinh, Châu Đốc, Sóc Trăng… cũng có nơi gọi là Thala. Nhưng chỉ Tha La Xóm Đạo ở An Hòa, Trảng Bàng là vang danh. (Google Maps : Từ quận lỵ Trảng Bàng, trên quốc lộ 22, rẽ bên trái theo đường Nguyễn Du, độ 4 cây số, thấy Tha La, Tây Ninh, Viet Nam, có ghi rõ nhà thờ Tha La).
Ông Vũ Anh Khanh, tác giả bài thơ Tha La Xóm Đạo đã thăng hoa vùng quê nghèo đầy tre nứa, bụi mù đất đỏ vắng lặng thành một xóm đạo nên thơ ; với trái ngọt cây lành, hoa gạo, trời xanh mây trắng, thoang thoảng gió nhạc buồn trăn trở vận nước lầm than, ly loạn. Từ đó Tha La nổi tiếng, gợi khơi thêm niềm xúc cảm cho các người khác viết về thôn xã nhỏ bé nầy, nhỏ đến độ hiện nay vẫn còn nhiều người chưa biết. Tuy thế Tha La Xóm Đạo vẫn hiển hiện trong văn thơ, tân nhạc, cổ nhạc… Những tác phẩm của Vũ Anh Khanh, Dzũng Chinh, Loan Thảo… không chỉ vang bóng một thời mà có lẽ sẽ còn lưu mãi đến ngàn sau, như người dân xóm đạo đời đời sinh động niềm tin, lặng lẽ trong an bình lẫn gian nan thử thách.

1.    Tinh thần mộ đạo là môi trường sản sinh cho xã hội nhiều thế hệ cần cù lao động, sống đời lương thiện ; cung ứng cho Giáo hội Công giáo những ông câu, ông biện nhiệt thành, những bà mẹ sốt sắng làm tông đồ, những tu sĩ nam nữ năng động… Được nghe biết các cha sau đây sinh quán tại Tha La :
- Gioan Baotixita Nguyễn Phụng Dõng, sinh năm 1902, linh mục 1929,
- Phanxicô Xaviê Lê Vĩnh Khương, sinh năm 1903, linh mục 1929, cố chánh sở Thị Nghè, tác giả quyển Từ Việt Nam Sang Roma, nhà in Kim Sơn Saigon 1952,
- Felix Lê Vĩnh Trình, sinh năm 1904, linh mục 1933,
- Phêrô Nguyễn Minh Cảnh, sinh năm 1920, linh mục 1945,
- Giacôbê Nguyễn Văn Vi, sinh năm 1932, linh mục 1960, cố Giám đốc Trung Tâm Công Giáo Tiến Hành,
- Phanxicô Xaviê Nguyễn Hữu Tấn, sinh năm 1925, linh mục 1951, sáng lập cộng đoàn Bác Ái Cao Thái.
Và các nữ tu như dì Viện, dì Tình, dì Nhiễu, dì Nguyễn, sơ Pascale Lê Thị Tríu (quen thuộc với thuyền nhân đã qua một thời ở Palawan, Phi Luật Tân).
Tha La cũng có ba cha sở được nâng lên hàng giám mục :

1. GM Victor Charles Quinton (Tôn) (1866-1924), M.E.P., sinh quán thuộc giáo phận Laval, vùng Mayenne (Pháp), 

- 1890 Đến Việt Nam, học tiếng Việt ở Bà Rịa,
- 1909 Làm cha sở Tha La. Sau đó thụ phong giám mục, làm giám mục phó Tông Tòa Sàigòn.
- 1920 Giám mục giáo phận Sàigòn.
- 1924 Bị bệnh, trở về Pháp điều trị, qua đời tại chủng viện Bièvres.
Đức cha Quinton xuất bản nhiều sách bằng tiếng Việt. 17 Thơ chung của 3 giám mục địa phận Sàigòn, Imprimerie de la Mission, Tân Định Saigon 1950 : Phép Hôn phối theo Luật đạo (1914), Việc Bổn phận buộc người đôi bạn phải giữ cùng nhau (1915), Việc Bổn phận cha mẹ phải làm cho con cái (1916), Về sự đọc kinh hôm mai chung trong nhà cùng sự Tôn Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giê Su trong gia thất người giáo hữu (1918), Người Lớn phải đi nghe dạy Sách phần ngày Chúa nhựt (1919), Về việc Bổn phận kẻ làm cha mẹ : Dạy dỗ con cái Chúa cho biết đạo thánh Chúa, lo liệu cho nó giữ đạo trọn đời (1920) ; Về Sự ăn năn tội (1921)…

2. GM Giacôbê Huỳnh Văn Của (1915-1995). 

- 1943-1958 Chánh sở họ Gia Định, kiêm nhiệm chương trình “Tiếng Nói Công Giáo” trên Đài Phát Thanh Sàigòn. Sau đó gặp khó khăn với chính quyền Sàigòn, cha sang Pháp, sống tại Trung Tâm Bác Ái (Foyer de Charité) ở Châteauneuf, một cộng đoàn chuyên lo tổ chức điều hành các cuộc tĩnh tâm.
- 1964-1965 Trở về Việt Nam làm cha sở Tha La.
- 1966 Giáo phận Phú Cường thành lập với Giám Mục Phạm Văn Thiên, cha HV Của làm Tổng Đại diện giáo phận, kiêm chánh sở họ Búng, rồi Lái Thiêu.
- 1968-1978 Thành lập và điều hành Trung Tâm Bác Ái Lái Thiêu.
- 1976 Được bổ nhiệm làm giám mục phó với quyền kế vị giáo phận Phú Cường.
- 1978 Sang Pháp chữa bệnh suy tim.
- 1982 Đệ đơn từ chức.
- 1995 Qua đời, an táng tại nghĩa trang giáo sĩ, giáo phận Nice, Pháp.

3. GM Giuse Nguyễn Tấn Tước, sinh năm 1958. 

- 1991 Thụ phong linh mục, phụ tá giáo xứ Tha La.
- 1995 Chánh sở họ đạo Tha La.
- 1999 Tu học ở Pháp, Institut Catholique de Paris.
- 2006 Về Việt Nam đặc trách ơn gọi linh mục giáo phận Phú Cường.
- 2011 Thụ phong giám mục, Giám mục phó giáo phận Phú Cường.
- 2012 Giám mục giáo phận Phú Cường.

Đó là trên bình diện tôn giáo.

Còn đối với đất nước, đương nhiên cũng không thiếu những người con Xóm Đạo đi làm bổn phận công dân thời chinh chiến. Mới gần đây, do biến động thời sự, báo giới có dịp nhắc kể tỉ mỉ trận chiến chống Trung Cộng lấn chiếm lãnh hải Việt Nam, tưởng nhớ các anh hùng tử sĩ, nhiều nhất là ông Ngụy Văn Thà, sinh quán An Hòa Tha La, Trung Tá Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo, đã tử thương ngày 19-1-1974 trong nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa - Hoàng Sa.

Người trăm năm cũ

Nói về Tha La Xóm Đạo, thấy các bài viết ghi vắn tắt ông Côsimô Trí lánh nạn bắt đạo… kẻ hậu sinh băn khoăn muốn biết hoàn cảnh nào khiến những con người bó buộc phải rời sinh quán lưu lạc tới miền đất lạ hoang dã, vào thời mà phương tiện di chuyển hãy còn khó khăn ?

Xem lại tài liệu lịch sử : Đầu thế kỷ 16, thời Nam-Bắc phân tranh, các vua chúa Lê - Mạc, rồi Trịnh - Nguyễn đều cho phép mở cửa biển, đón các tàu buôn ngoại quốc vào giao thương. Bởi thế, có các giáo sĩ Tây phương vào Việt Nam giảng truyền đạo Thiên Chúa.

Từ đó về sau, các giáo sĩ cứ dần dần vào nước dạy đạo, mà người mình càng ngày càng theo đạo cũng nhiều. Nhưng vì nước ta từ xưa đến nay vẫn theo Nho giáo, lấy sự thờ cúng ông cha làm trọng, lấy sự tế tự thần thánh làm phải… Đột nhiên thấy nhiều người mình theo đạo Thiên Chúa, bỏ cả các thói cũ, chỉ chuyên về một mặt theo đạo mới, bởi vậy cho nên trong Nam ngoài Bắc, vua chúa đều cho ấy là một tả đạo, làm hủy hoại cả cái phong hóa của nước nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm không cho người trong nước theo đạo nữa và đặt ra phép nghiêm để bắt tội những kẻ không tuân theo chỉ dụ ấy (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Liệu II, trang 99).
Liên tiếp, khởi từ Trịnh Nguyễn Phân tranh, rồi nhà Tây Sơn, và các vua nhà Nguyễn sau đó (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) vẫn duy trì việc cấm đạo.
Trừ vua Gia Long, vì liên hệ ơn nghĩa với Giám Mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), có thiện cảm với đạo Thiên Chúa, nên vua để yên cho đạo phát triển. Ban giấy phép cho giảng đạo nhưng không ban hành sắc dụ nào bãi bỏ việc cấm đạo.
Thời vua Minh Mạng 1820-1840, tình hình đất nước không yên ổn : biên giới giặc Xiêm quấy nhiễu, ngoài Bắc Lê Duy Lương khởi loạn ở Ninh Bình, Nông Văn Vân ở Tuyên Quang, Phan Bá Vành ở Nam Định ; trong Nam ở Gia Định Lê Văn Khôi (con nuôi Tả Quân Thượng Công Lê Văn Duyệt) dấy binh chống lại triều đình. Bị vây, Khôi cố thủ trong thành rồi bịnh chết, nhưng bè đảng vẫn tiếp tục chống cự, mãi hơn hai năm sau, 1835, binh triều mới dẹp tan, giết hết 1940 ngụy quân, chỉ đóng củi giải giao về Huế sáu người trong đó có giáo sĩ Pháp Marchand (Du) và đứa con bảy tuổi của Khôi. Cả sáu người nầy đều bị xử lăng trì.
Trường hợp cha Marchand Du là một nghi án. Theo ông Trần Trọng Kim, có người bảo cha muốn làm như GM Bá Đa Lộc, có người bảo cha bị bắt vào thành. Việc bàn đi bàn lại vẫn phân vân không rõ hẳn ra thế nào (Việt Nam Sử Lược II, trang 208). Còn theo LM Vũ Thành, cha Marchand Du đang ở Mặc Bắc, Vĩnh Long bị giặc Khôi cho người tìm xuống, áp lực mời về. Khôi muốn nhờ cha viết thư cầu cứu với người Anh, binh Xiêm, và kêu gọi giáo dân Đồng Nai đến giúp. Nhưng cha đều từ chối, chỉ muốn được về lo việc giảng đạo. (Thư cha Marchand Du gởi GM Jean Louis Taberd, lúc ấy đang ở bên Xiêm, ngày 24-9-1834 kể về tình cảnh bị bắt buộc ở chung với 4000 lính Bình Thuận làm phản triều đình. Dòng Máu Anh Hùng II, trang 76-77).
Vì thế ngày 27-1-1836, vua Minh Mạng ra sắc lệnh cấm đạo toàn diện và bế môn tỏa cảng, từ chối giao thương với các tàu buôn Pháp, Anh, Mỹ…
Lúc bấy giờ, không phải một mình vua ghét đạo mà thôi, phần nhiều những quan lại đều một ý cả, cho nên việc cấm đạo càng nghiệt thêm… Từ đó trở đi, trong Nam ngoài Bắc chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên, vua ngờ dân bên đạo theo giúp quân giặc lại càng nghiệt hơn (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược II, trang 227).
Việc cấm đạo và các hình phạt dành cho người theo đạo cũng tùy triều đại, vua chúa và tùy tình hình chính trị trong nước mà hòa hoãn, giảm nhẹ hay thẳng tay sát hại : từ hiểu dụ, ngăn cấm, phạt tiền, đóng gông, đánh khảo, giam tù, thích chữ vào mặt, phân sáp lưu đày… đến giết thả trôi sông, xử giảo, xử trảm, xử bá đao… Song hành ban thưởng tiền bạc, bổng lộc, phẩm chức cho những ai tố cáo, chỉ điểm bắt được người theo đạo, chứa chấp cũng bị vạ lây, quan chức biết mà không cáo thì bị giáng cấp, đổi nhiệm sở…
Người tín hữu Côsimô Nguyễn Hữu Trí sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đó, nên mạo hiểm tìm đường lánh nạn, lần dò vào tận miền Nam trong lo âu, dè dặt. Tha La Xóm Đạo khai sinh trong gian truân bất trắc và người đầu đàn dầy công chịu đựng thử thách đã không yên hàng nhìn thấy Xóm Đạo vươn mình. 
Bởi vì, năm 1859 khi hải quân Pháp và Tây Ban Nha vào cửa Cần Giờ, bắn phá và chiếm thành Gia Định thì triều đình lại ra sắc lệnh tháng 10/1859 bắt đạo nghiêm nhặt hơn nữa. Lần nầy nới rộng các thành phần bị bắt : “Những người ở trong hội đồng giáo xứ”. Do đó, ông Côsimô Trí bị bắt (cùng với Ô. Long, Ô. Thể…) và ông đã chết trong ngục. Hài cốt chôn ở nghĩa trang Xóm Đạo. Sau, phần mộ được cha sở Gioankim Nghị cải táng, di dời về trước núi Đức Mẹ nhà thờ Tha La. Tấm bia cũ ghi khắc :

CÔXIMÔ TRÍ

Hãn nằm đây
Công đức cao dày, bia tạc nay :
Sáng tạo Tha La đã rõ mặt
Quí quyền câu họ lãnh đầu tay
Ghe phen tù rạc vì danh Chúa
Nhiều nỗi khổ hình bởi đạo ngay
Tạ thế Canh Thân 1860,
Nơi khám thất
Anh em giáo hữu chớ quên người.

Anh em giáo hữu chớ quên người lời nhắn nhủ được người Xóm Đạo tuân hành. Hàng năm, giáo xứ Tha La làm lễ giổ cho ông Côsimô Trí vào đầu tháng 8, có con cháu ở các nơi về tham dự.
Ngày 4-8-2012, cha sở Petrus Thắm cùng các linh mục đã đồng tế trọng thể lễ giỗ tưởng nhớ ông Côsimô Trí và các người có công kiến thiết giáo xứ.
Gần đây trên mạng internet, thấy nói về Đêm Canh Thức nơi nghĩa trang Tha La, từ ban tối ngày 1-11 lễ Các Thánh Nam Nữ cho đến rạng sáng 2-11, người sống thắp nến cầu cho kẻ chết, kết thúc bằng một thánh lễ đồng tế vào lúc 4 giờ 30 sáng tại nhà thờ, để cầu nguyện cho ông bà tổ tiên, họ hàng tộc hệ và các đằng linh hồn.
Không kể các tổ chức khuyến mại thông thường có tính cách thế tục bao quanh lễ hội, nghi thức cầu nguyện sinh động nầy biểu hiện tinh thần thông công giữa thế giới hữu hình và vô hình, một sắc thái truyền thống Ki-tô giáo đồng hành với văn hóa tín ngưỡng tôn kính tổ tiên, có lẽ trong chiều hướng để cho cõi lòng người công giáo Việt Nam mở rộng, hiệp thông với Thiên Chúa, với tổ tiên và đồng bào mọi giới (lời TGM Nguyễn Như Thể khai mạc Tuần lễ tọa đàm về vấn đề Tôn Kính Tổ Tiên tại Huế 29-10-1999).
Đời sau nhìn lại
Sử gia Trần Trọng Kim viết Bao giờ cũng vậy, hễ người ta đã sùng tín một tôn giáo nào thì tất cho cái tôn giáo của mình là hay hơn, và cho người theo tôn giáo khác là thù nghịch với mình, rồi hễ có quyền thế là làm thế nào cũng dùng cách mà hà hiếp người khác đạo với mình.
… Một ông vua nghiêm khắc như Thánh Tổ (vua Minh Mạng, TTMK) mà cấm không được, tất phải giết. Trong khi cấm và giết như vậy, vẫn cứ tưởng mình làm bổn phận làm vua, chớ có biết đâu mình làm sự thiệt hại cho dân cho nước. (Việt Nam Sử Lược II trang 186)
Tại sao người tín hữu Ki-tô bị đàn áp, bị cáo buộc không thờ kính tổ tiên khi mà giới răn thứ 4 ghi rõ nghĩa vụ hiếu đạo; và sách Tân Ước, Huấn Ca… đều nhắc nhở con cái cách hành xử với cha mẹ lúc còn sống cũng như đã qua đời ?
Được biết thuở ấy, giáo quyền Roma cũng rất phân vân trước 2 ý kiến :
- Một bên là các cha Dòng Tên (Jésuites) và Dòng Phanxicô với quan niệm tôn trọng truyền thống dân tộc khi đến truyền giáo tại Á Châu, nên cho rằng người Ki-tô giáo được dâng hương quả, tôn kính những người quá cố… (Vì các tu sĩ Dòng Tên trước khi đến Việt Nam đã truyền giáo tại Trung Hoa, nhận thức được ảnh hưởng sâu đậm của Nho giáo, việc thờ cúng tổ tiên thành nếp văn hóa đặc thù của dân bản xứ.)
- Một bên là các cha Đa Minh và các cha Thừa Sai Paris nói rằng điều nầy trái với giáo lý là chỉ tôn thờ một Thiên Chúa. Người Ki-tô giáo chỉ đọc kinh cầu nguyện cho người quá cố theo nghi thức phụng vụ được chỉ dẫn, không cúng cơm, đốt vàng mã… Có lẽ thời ấy việc hội nhập văn hóa vào đời sống đức tin chưa được chú trọng, mặc dù đã có huấn vụ nhắn nhủ của Bộ Truyền Giáo năm 1659 : “Tôn trọng tập tục cổ truyền của dân bản xứ”. (Xem trang 23, Thoáng Nhìn Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Trần Anh Dũng, 2009)
Cuộc tranh cãi đã khiến ĐGH Clément XIII đặc cử Khâm sứ Achards de la Baume đến Việt Nam xem xét. Nhưng Đức Cha Maignot, đại diện Tông Tòa tại Phúc Kiến (Trung Hoa) lại quả quyết rằng vị đặc sứ được phái đến không thể nào hiểu rõ bằng ngài là người đang sống tại chỗ. Ngài yêu cầu giáo quyền Roma ngăn cấm tục thờ người chết, lễ nghi tôn kính gia tiên. Đức Giáo Hoàng chuẩn y lời xin và cấm không cho các cha Dòng Tên truyền giáo tại Á Châu nữa. Bấy giờ là năm 1715. Đó là một thử thách cho người Công giáo Việt Nam, cho Dòng Tên và có lẽ cũng cho Giáo triều La Mã thời ấy.
Nhưng, như thời gian tuần tự tiến tới, sự việc không ngừng lại ở đó. Hơn 200 năm sau, ĐGH Piô XII mới công bố Tông Thư 8-2-1939 ghi rõ người tín hữu Ki-tô có thể thực hành nghi thức lễ giỗ, bái kính tổ tiên, các anh hùng dân tộc… (Trước Cộng Đồng Vatican II 1962-1965)
Năm 1883, vua Tự Đức băng hà.
Năm 1885, quyền thần Tôn Thất Thuyết đề xướng phong trào Văn Thân. Ông chủ trương trước khi chống Pháp thì phải ra tay giết đạo, vì đoan quyết người bên đạo là nội công của Pháp. Với khẩu hiệu “Bình Tây Sát Tả” ông cho lệnh lập ra một đoàn lính mới gọi là lính đoạn kết, chỉ chuyên mỗi một việc tróc nã và giết hại người bên đạo (Đào Trinh Nhất, Phan Đình Phùng, trang 44). 60 000 người đã bị bách hại vì chiến dịch nầy.
Bên giết, bên tự vệ lần hồi trở thành cuộc chiến lương-giáo tương tàn, mà theo ông Trương Vĩnh Ký, có lúc đôi bên đều hành xử quá khích (Phúc trình gởi Thống đốc Duperré 28-4-1876).
Ông Phan Đình Phùng (1847-1895), sau một thời bất đắc dĩ qui ẩn ở Châu Giang - Mặc Lĩnh, ông vâng lệnh triều đình phất cờ “Bình Tây Sát Tả”. Nhưng rồi ông suy nghĩ lại. Bởi các ông Văn Thân lầm tưởng phàm những người theo đạo Thiên Chúa đều là nội công của người Pháp và đạo Thiên Chúa là Tả đạo (Đ.T. Nhất, Phan Đình Phùng, trang 19), nên khi đóng quân ở núi Vụ Quang, ông ra hiểu dụ Lương dân hay giáo dân đều là xích tử của triều đình, chớ nên vì lẽ gì mà hại lẫn nhau. Ông đề ra khẩu hiệu “Lương-Giáo Thông Hành”.
Khi nghe cáo buộc giáo dân là nội công của Pháp, ông nhận xét Ấy là tại nước mình yếu hèn, không có nhân tài, không có tàu bền, súng lớn, quân mạnh, tướng giỏi, chớ lỗi chi ở giáo dân. Chồn mượn oai hùm, dê đeo da cọp, ấy là thường tình của con người ta, có chi làm lạ. Xứ nào mà không có hạng người hèn ấy. Ông không “vơ đủa cả nắm”.
Thời đó, đạo Thiên Chúa bị xem là tả đạo. Ông P. Đ. Phùng nói Đạo Thiên Chúa lấy Gia-Tô làm Trời, cũng như Thích Ca Mâu Ni là Trời của đạo Phật hay Khổng Phu Tử là Trời của nhà Nho. Hễ ai đã tín ngưỡng điều gì thì điều ấy là Trời của mình. Mình muốn người ta đừng xâm phạm đến sự tín ngưỡng của mình thì mình cũng đừng xâm phạm đến sự tín ngưỡng của người ta. Thiên Chúa cũng là một thứ tôn giáo, mặc ai tin thì theo. (Đ.T. Nhất, Phan Đình Phùng, trang 20).
Ông đã ý thức điều mà ngày nay gọi là tự do tín ngưỡng. Con người thẳng thắn nầy được dân gian và tác giả Đào Trinh Nhất tôn gọi “Ông nghè yêu nước”.
Trăm năm sau nhìn lại, những sai sót bởi thân phận làm người như là một hệ lụy của hoàn cảnh lịch sử chính trị lúc ấy.
- Tiếc di ngôn của người khai sinh nhà Nguyễn chẳng được quan tâm Đạo Thiên Chúa, đạo Nho, đạo Phật… đều tốt cả. Không được bách hại đạo nào vì sẽ gây ra các vụ rối loạn trong nước, có khi làm mất nước nữa. (Di chúc Vua Gia Long, điều khoản 36, Dòng Máu Anh Hùng II, Vũ Thành, trang 13.)
- Thương cho quê hương một thời dậy sóng.
- Nhớ người tín hữu tiền bối Côsimô Trí tử vì đạo ở Tha La như 130 000 người đã chết thảm thương trên khắp ba miền đất nước.

Tạ Thanh Minh-Khánh. (2012)

* Trích từ sách “Ngàn Năm Hiển Hiện”

** Lăng Cha Cả : Mộ phần của GM Pigneau de Béhaine và của một số giáo sĩ ở Ngã Tư Bảy Hiền, gần phi trường Tân Sơn Nhất. Sau năm 1975, tất cả hài cốt phải di dời, hiện để dưới hầm nhà nguyện của Hội Thừa Sai Paris (M.E.P.).

Tài liệu tham khảo :

- Việt Nam Sử lược, Trần Trọng Kim, Institut de l’Asie du Sud-Est I.D.A.S.E. tái bản tại Paris..
- Việt Nam Chí Sĩ : Phan Đình Phùng, 10 Năm kháng chiến ở Nghệ Tĩnh, Đào Trinh Nhất, Institut de l’Asie du Sud-Est, 1990.
- Dòng Máu Anh Hùng, Vũ Thành, Phong Trào Thanh Sinh Công tại Hoa Kỳ xuất bản, 1987.
- Đặc San Hậu Nghĩa Hoa Kỳ, xuân 2008, tác giả Sầm Tấn Phước.
- Thoáng Nhìn Giáo Hội Công Giáo Việt Nam 1533-2010, Trần Anh Dũng, Roma 2009.

Tạ Thanh Minh Khánh 23/02/2013