ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2021

tên gọi "Sài Gòn" đã xuất hiện trước tên gọi "Hà Nội"'; ít nhứt hơn nữa thế kỷ cho đến cả thế kỷ!

TÊN GỌI "SÀI GÒN" ĐÃ XUẤT HIỆN TRƯỚC TÊN GỌI "HÀ NỘI":

ÍT NHỨT HƠN NỬA THẾ KỶ CHO ĐẾN CẢ THẾ KỶ!

* Giữa mớ giái thích rối rắm, đâu là nghĩa của "SÀI GÒN"?

&1&

Tại vùng đất nay đang làm thủ đô CHXHCN VN, theo dòng lịch sử có hàng loạt tên gọi chính thức như: Tống Bình, Đại La, Thăng Long, Đông Đô, Đông Kinh, Bắc Thành... và, vào NĂM 1831 (dưới đời vua Minh Mạng) gọi tên là: HÀ NỘI - viết chữ Hán như ri:

(nên nhớ, trước khi phổ biến chữ Quốc ngữ vào những thập niên đầu thế kỷ 20, hết thảy thư tịch đều viết bằng chữ Hán, chữ Nôm)

(ở đây không tính đến những tên không chính thức như Tràng An, Kẻ Chợ...).

&2&

Còn SÀI GÒN? Trong "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn - người quê Thái Bình, được mệnh danh "nhà bác học của VN thời quân chủ", viết vào năm 1776, có ghi:

"Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và Lũy Sài Gòn vào năm 1674".

Lũy () SÀI GÒN - được ghi bằng chữ Nôm : tên gọi "Sài Gòn" xuất hiện trong chiến tích kể trên vào năm 1674, so với tên gọi "Hà Nội" (năm 1831) thì tên "Sài Gòn" đã có trước "Hà Nội" 157 năm, trước những một thế kỷ rưỡi.

Tuy nhiên, cẩn trọng hơn, tên gọi "SÀI GÒN" đã xuất hiện trong thư tịch VN nào hồi năm 1674 (thậm chí trước năm 1674) thì vẫn chưa minh xác. Nhưng chí ít, trong tài liệu khảo cứu "Phủ biên tạp lục" đã ghi rõ rành hai chữ (Sài Gòn), tài liệu này ra đời năm 1776. Vậy, tên gọi "Sài Gòn" - dựa theo thư tịch chính thức này của nhà bác học Lê Quý Đôn (năm 1776) - đã có trước tên gọi "Hà Nội" (1831) là 55 năm, trước hơn nửa thế kỷ.

Tắt một lời, danh xưng SÀI GÒN đã xuất hiện TRƯỚC danh xưng HÀ NỘI từ nửa thế kỷ cho đến cả thế kỷ hơn!

&3&

"SÀI GÒN", nghĩa là gì?

3a) Âm "GÒN", dễ nhận ra ngay đây không phải âm Việt-Hán, thành thử tiền nhân chúng ta ghi lại bằng chữ Nôm:

Trong rất nhiều cách cấu tạo chữ Nôm, có cách "dị âm dị nghĩa" - tức mượn nguyên xi chữ Hán nhưng không đọc theo âm Việt-Hán mà đọc âm Nôm ("dị âm"), và nghĩa cũng khác với nghĩa gốc của chữ Hán ("dị nghĩa").

: âm Việt-Hán là "côn" nhưng đọc thành "GÒN" (dị âm). Nghĩa của "côn" (Việt-Hán) là cây gậy; còn nghĩa của GÒN (Nôm) ắt phải khác (dị nghĩa) - là nghĩa gì, chút nữa giải thích.

3b) "SÀI" được viết như ri: . Ở đây, chữ Nôm được cấu tạo theo cách "đồng âm dị nghĩa".

: âm Việt-Hán là "sài", âm Nôm cũng đọc "sài" (đồng âm). Nghĩa của "sài" (Việt-Hán) là củi khô / cành khô. Còn nghĩa của "SÀI" (Nôm) ắt phải khác (dị nghĩa), là ... nghĩa mần răng?

3c) Quí bạn ắt từng nghe giải thích: GÒN là bông gòn, cây gòn, SÀI là củi => SÀI GÒN nghĩa là củi gòn, củi từ cây gòn. Nghe cũng dễ hiểu, tuy nhiên ở đây mắc lỗi gọi là "không tương thích"!

Là sao? "Gòn" được hiểu theo nghĩa Nôm là bông gòn, cây gòn; nhưng khi giải thich 'Sài" là củi, tức dựa theo nghĩa gốc của chữ Hán chớ không phải nghĩa Nôm nữa! Không-tương-thích là vì vậy (một đàng nghĩa theo Nôm còn một đàng lấy nghĩa theo Hán).

Nghĩa Nôm của "sài" là gì? Là trong "sơ sài" đó đa.

Vậy, ráp lại "Sài Gòn" sẽ là cây gòn, bông gòn... sơ sài! Ồ, hiểu được, chết liền.

&4&

Vùng đất này ("Sài Gòn") trước kia thuộc Chân Lạp, tên gọi trong tiếng Khmer: ព្រៃ នគរ , "Prei Nokor" ("Prei" ព្រៃ phát âm gần với /rai/, đọc នគរ : "No" đọc lướt, rất nhẹ, "kor" phát âm gần với /gor/ => "Prei Nokor" đọc gần như /rai gor/)

Trong cuốn "Histoire de la Mission Cochinchine" (Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ), năm 1747, có ghi chép: "vùng Rai Gon"... Biến âm "Rai Gon" thành "Sài Gòn".

"Prei" ព្រៃ , nghĩa là rừng rậm; "Nokor" នគរ , nghĩa là vùng, địa phương. "Prei Nokor" là vùng rừng rậm, trước kia cả vùng này còn hoang sơ, không canh tác nên rừng hoang mọc nhiều.

Đến đây, quí bạn ắt đã tỏ tường về "nguyên tắc DỊ NGHĨA" trong cấu tạo hai chữ :

- Phiên âm từ "prei" thành "SÀI", ghi lại như ri: , mang nghĩa là "rừng rậm" (dị nghĩa với nghĩa gốc "củi" của );

- Phiên âm từ "nokor" thành "GÒN", ghi lại như ri: , mang nghĩa là "vùng" (dị nghĩa với nghĩa gốc "cây gậy" của ).

SÀI GÒN, nghĩa gốc thuở ban đầu, là "vùng rừng rậm".

&5&

Qui phạm hóa bằng Hán tự:

Hơn nửa thế kỷ sau, vào năm 1679, chúa Nguyễn đã cho Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch gốc Quảng Đông kéo hơn 3.000 người vào định cư, lập nghiệp tại vùng lãnh thổ này. Với ưu thế về tổ chức, họ đã góp phần đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang của lưu dân người Việt (đã có mặt trước) có hiệu quả hơn.

Họ (người Hoa gốc Quảng Đông) nghe người Việt đọc tên vùng này là "Sài Gòn" => họ phiên âm qua tiếng Quảng Đông là "Sai Kung" (lưu ý: /k/ được người Quảng Đông phát âm gần với /g/) và ghi lại bằng chữ Hán là 西 .

(Hai chữ Hán này được người Quảng Đông đọc là "sai kung", gần hao hao với phát âm "sài gòn" trong tiếng Việt. Ở đây dùng chữ Hán để ghi âm, hoàn toàn không mang nghĩa)

Tóm lại:

Từ tiếng Khmer ព្រៃ នគរ (Prey Nokor) => tiếp biến qua âm Việt là "Sài Gòn" => tiếp biến qua âm Quảng Đông "sai kung", ghi bằng chữ Hán là 西 .

西 , theo âm Hán-Việt, là "Tây Cống". Nhiều người đời sau lại đi « suy đoán ngược », tưởng "Tây Cống" mang ý nghĩa của địa danh. Đây thuần túy là tiến trình ghi âm mà thôi.

Còn ý nghĩa của hai chữ "Sài Gòn", xin nhắc lại, là "vương quốc của rừng", "lâm quốc" - từ chữ Khmer gốc ព្រៃ នគរ .

Nhờ vào tài trí & sức lực của bao thế hệ mà Sài Gòn thân yêu đã trở thành "Hòn ngọc Viễn Đông" một thời, thoát khỏi rừng rậm.

Và tìm cách thoát khỏi "rừng rú" đủ kiểu ... ./.

--------------------------------------------------------------





Nguồn: Mattheu NChuong


Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1517, ngày 11 tháng 8 năm 1938

Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2021

Cần một cái nhìn mới: Lịch sử đối chiếu Đồng Đại, Đa Sắc Tộc!

 CẦN MỘT CÁI NHÌN MỚI:

LỊCH SỬ ĐỐI CHIẾU ĐỒNG ĐẠI, ĐA SẮC TỘC!

/1/ Nước Việt với cương vực địa lý như hiện tại, trong tương lai có lẽ ... cũng vẫn còn như vậy.

Nhưng lịch sử của lãnh thổ VN đã được viết chỉ như là sự biến thiên, phát triển địa bàn của mỗi sắc tộc Việt, và do đó gây ra những "chấn thương văn hóa" đối với nhiều sắc tộc khác!

Đó là chưa kể còn đánh mất / lãng quên những kinh nghiệm rất hữu ích trong phát triển kinh tế, xã hội, tín ngưỡng của những sắc tộc khác theo đặc trưng của từng vùng!

/2/ Chẳng hạn, ĐÀNG TRONG. Vì sao chúng ta cần phải nhớ đến Đàng Trong?

(2a) Sự phân ranh Đàng Trong & Đàng Ngoài, nghịch lý tuyệt diệu thay - nhờ vào sự phân ly này mà thúc đẩy sự phát triển thịnh vượng hơn trong cái nhìn toàn cục, các Chúa Nguyễn đã yên tâm mà mở rộng cương vực với tốc độ nhanh hơn hẳn so với nhiều triều đại ngoài Bắc gộp lại (Lý, Trân, Hậu Lê).

Nếu không có sự phân định ĐÀNG TRONG, lấy gì chúng ta có Nam Kỳ (các em các cháu sống chế độ đời nay quen nghe là "Nam Bộ"), có Sài Gòn?

Cương vực của Đàng Trong về phía bắc giáp với Hà Tĩnh thuộc Đàng Ngoài. Có một "thiên định" cũng kỳ lạ lắm đa! Đó cũng gần như trùng với biên cương của Vương quốc Chiêm Thành với lãnh thổ nhà Ngô năm 938 lúc dựng nền tự chủ.

Vào năm 938 xửa xưa đó, từ Quảng Bình cho đến Ninh Thuận là lãnh thổ của Vương quốc Chiêm Thành ("Kingdom of Champa").

Còn toàn bộ lãnh thổ mà chúng ta gọi "Thủy Chân Lạp" (sau này gọi Nam Kỳ, rồi Nam Bộ), vào năm 938 là thuộc về chủ quyền của Đế quốc Cao Miên ("Khmer Empire"; trước đó nữa, từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 6 là Vương quốc Phù Nam: "Kingdom of Funan").

(2b) Nói cách khác, trước khi tộc Việt xuôi nam, dải đất duyên hải dọc miền Trung từ Quảng Bình trở vô, cùng với châu thổ miền Nam - dĩ nhiên - chẳng phải là đất vô chủ, mà hiện diện những bề dày lịch sử đã được xây đắp bởi các sắc tộc khác.

ĐÀNG TRONG, như vậy, không chỉ có thành phần tiên phong trong tộc VIỆT (dám nghĩ dám làm, sẵn sàng tiếp nhận cái mới, từ bỏ lề thói cổ hủ ở đàng Ngoài nên lên đường xuôi vô phương Nam...).

Mà toàn bộ lãnh thổ Đàng Trong từng được "định vị" bởi những sắc tộc chủ nhân của CHAMPA (người Cham), FUNAN (người Stieng, người Chrau... được cho từng là cư dân trong Vương quốc Phù Nam xa xưa), KHMER.

Thêm nữa, vùng cao nguyên miền Trung từng tồn tại các Tiểu quốc Jarai, Tiểu quốc Maa, có các tộc người JARAI, MAA, BAHNAR, RHADE ...

(2c) Hợp thành NỘI LỰC cho Đàng Trong, như vậy, không chỉ văn minh Việt mà còn phải kể đến đặc biệt là văn minh Champa, văn minh Funan (chẳng hạn, văn hóa Óc Eo)...

/3/ Tại sao chỉ biết có mỗi sắc tộc Việt, còn những sắc tộc từng là chủ nhân trên nhiều vùng đất (mà trước kia không thuộc sắc tộc Việt) thì không được nắn nót trân trọng ghi lại?

Để có được cái nhìn toàn diện, sâu xa, cần phải viết theo phương pháp lịch sử đối chiếu:

Tức là đối chiếu ở từng mốc thời gian, với cái nhìn lịch sử ĐỒNG ĐẠI: tộc Việt làm gì, còn ở tộc Cham có những dữ kiện lịch sử gì trong triều đình Champa (thời điểm còn tồn tại) với những phát triển kinh tế / xã hội ra sao.

Cũng vậy, trên lãnh thổ cao nguyên, các sắc tộc Rhade (Êđê), Jarai... lịch sử diễn biến như thế nào.

Và ở vùng lãnh thổ "Thủy Chân Lạp", cùng một thời điểm tương ứng, đang thuộc Vương quốc nào với những vị vua nào, phát triển lịch sử ra sao .v.v...

THAY LỜI KẾT

Viết lịch sử đối chiếu (dựa trên từng vùng lãnh thổ của một số sắc tộc tạo nên bản sắc cho từng vùng) sẽ đem lại kho tàng tri thức hết sức phong phú. Mà do vậy, trở nên hữu ích!

Một khi các sắc tộc được xác định cùng nhau chia sẻ về tương lai chung, hẳn nhiên các sắc tộc anh em cũng phải được công bằng trong nhìn nhận quá khứ, đều được GHI LẠI TRONG BỘ LỊCH SỬ CHUNG của nước Nam!

Chừng nào chưa có cách viết CỞI MỞ, ĐA DẠNG theo phương pháp lịch sử đối chiếu, ắt sẽ còn những "chấn thương văn hóa" nơi các sắc tộc khác, âm ỉ kéo dài, khó dứt ./.

--------------------------------------------------------------



Nguồn: Mattheu NChuong

Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1516, ngày 4 tháng 8 năm 1938

Thứ Năm, 25 tháng 11, 2021

Chuỗi ngôn ngữ: "YỊT"/ "YIỆT"/ "VIỆT"

 CHUỖI NGÔN NGỮ: "YỊT" / "YIỆT" / "VIỆT"

Theo phép chánh tả, viết "Việt", nhưng lạ thay rất đông cư dân Nam Kỳ và nhiều tỉnh Trung Kỳ như "xứ Nẫu" Bình Định, Phú Yên... vẫn giữ cách phát âm là "Yiệt", hay chính xác hơn nữa là "Byiệt" (không phải "biệt", mà là mím môi lại [b] rồi bật ra phát âm [yiệt], nghe vội thì hao hao mà không hẳn là âm [diệt]).

"Yiệt" là cách phát âm xưa trong tiếng nói của tổ tiên chúng ta, trước khi xuất hiện âm [v] trong "Việt"! - theo một khảo cứu của Trần Thị Vĩnh Tường (người gốc Bắc). Mời đọc đầy đủ các luận cứ của bài này theo đường link ghi cuối stt (*). Ở đây tôi ghi chú ngắn gọn một số điểm, và có dẫn giải thêm đôi phần.

&1&

* THIẾU ÂM [V] KHÁ NHIỀU trong tiếng nói ngày xưa, qua dẫn liệu về văn bản ghi chép, đặc biệt là Từ điển:

Một tài liệu viết tay của một giáo sĩ (không rõ tên) tới truyền đạo Công giáo, vào năm 1648, có ghi câu: "Nhơn danh Cha, ùa con, ùa...". Phát âm "ùa", nay gọi là "và".

Đặc biệt, Từ điển "Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum" (tiếng An Nam - Bồ Đào Nha - Latin) của Alexander Rhodius (quen... sửa thành "Alexander de Rhodes"), năm 1651, là một cứ liệu ghi khá tỉ mỉ về cách phát âm của người Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài.

Tỉ dụ:

"con yịt", hoặc "con ụit" - tức "con vịt" theo chánh tả hiện nay;

"ông bà ông byải", hoặc "oũ bà oũ uãi" - tức "ông bà ông vãi" theo chánh tả hiện nay.

Cách ghi "uịt", "uãi" đọc như [wịt], [wãi];

Cách ghi "yịt", "byải" (phát âm mím môi [b] rồi bật ra "yải") - cách đọc hệt như người Nam Kỳ hiện nay còn giữ: "vịt" vẫn đọc là [yịt], "vãi" vẫn đọc là [byải] hoặc [yải]...

Vậy nên, chí ít là cho đến giữa thế kỷ 17, tiếng nói của ông bà chúng ta thiếu vắng rất nhiều âm [v].

&2&

Còn một nguồn tham khảo hết sức quan trọng, đó là: ngôn ngữ của NGƯỜI MƯỜNG - được xem là người cùng "phả hệ" với chúng ta, còn gìn giữ nhiều từ vựng & phát âm nguyên thủy.

Theo nghiên cứu của Jeanne Cuisinier, trong tiếng Mường cũng HẦU NHƯ KHÔNG THẤY ÂM [V]!

Bây giờ ta gọi "Việt (Nam)", nhưng trong tiếng Mường đọc là "YỊT (Nam)";

Thêm vài tỉ dụ: "Vài đồng" - theo phát âm hiện nay có [v] trong "vài", nhưng trong tiếng Mường là: "Bài tồng";

"chớ cãi vô lí" - theo phát âm hiện nay có [v] trong "vô", nhưng trong tiếng Mường là: "chở cải bô lỉ";

"con vạc mà đi ăn đêm" - theo phát âm hiện nay có [v] trong "vạc", nhưng trong tiếng Mường: "con Wac mà ti ăn têm;

"mày đừng có vẽ chuyện ra nữa" - theo phát âm hiện nay có [v] trong "vẽ", nhưng qua tiếng Mường là: "Da chở cỏ wẽ chiễn tha nưa";

(mở ngoặc để ý chút: với câu trên, người Nam Kỳ sẽ nói là "mày đừng có yẽ chiện ra nữa", [chiện] ở đây phát âm giông giống với phát âm [chiễn] nguyên thủy trong tiếng người Yịt xưa, tức Mường).

&3&

Đến năm 1838, trong Từ điển Taberd thấy xuất hiện nhiều âm [v]!

Tỉ dụ: ở từ điển Alexander Rhodius ghi "muôn uật" => từ điển Taberd ghi "muôn vật"; từ điển A. Rhodius ghi "uiệc Chúa" => từ điển Taberd ghi "việc Chúa" ...

Điều này chứng tỏ trong gần hai thế kỷ (Từ điển A. Rhodius xuất hiện 1651 cho đến Từ điển Taberd 1883):

- hoặc là người [V]iệt đã có những thay đổi trong phát âm;

- hoặc là Taberd cùng cộng sự đã loại bỏ những âm như [b-ỳơ] rồi khoác cho âm [v] giống tiếng Latinh.

Dù luận giải kiểu nào, âm [v] cũng đã xuất hiện ít nhiều trong lối ăn tiếng nói trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19.

Nhưng, âm [v] không chiếm địa vị phổ biến cả nước, bằng chứng là người Nam Kỳ & người Trung Kỳ như "xứ Nẫu" không phát âm [v] trong "Việt" mà họ vẫn phát âm như trước đó là [b-yiệt] hoặc "Yiệt".

&4&

Có người nhắc tới "Bình Ngô đại cáo" do Nguyễn Trãi soạn thảo vào năm 1428, có câu: "Duy ngã Đại Việt chi quốc". Để cho rằng ngay từ giữa thế kỷ 15 đã xuất hiện âm [v], đó, trong "(Đại) Việt...", đâu phải đợi đến khoảng giữa thế kỷ 17 trở đi!

Cái này cầm bằng "suy luận ngược" mà không hay.

4a/ Dòng chữ: "duy ngã Đai Việt chi quốc" mà bạn đang đọc, bạn quên mất đó là ... dòng chữ đang được viết bằng thứ chữ Quốc ngữ (chữ abc) đó đa!

Xưa kia, chữ Hán lẫn chữ Nôm đều không phải là những thứ chữ ghi âm/ ghép âm, hễ gặp chữ nào thì phải học thuộc lòng cách phát âm của chữ đó, đụng phải chữ khác mà thầy chưa dạy thì... bù trất, khỏi biết đọc luôn.

4b/ Chúng ta biết được cách phát âm văn bản chữ Hán của "Bình Ngô đại cáo" (BNĐC) là nhờ sử gia Trần Trọng Kim, ông là người ĐẦU TIÊN dịch BNĐC ra chữ quốc ngữ, vào năm 1916 (trong sách "Sơ học An Nam sử lược", dich một số đoạn). Đến năm 1919 ông dịch toàn văn BNĐC, công bố trong cuốn "Việt Nam sử lược".

Cách đọc gọi là "âm Hán-Việt" được ông Trần Trọng Kim viết ra bằng chữ Quốc ngữ như sau:

"Duy ngã Đại Việt chi quốc

Thực vi văn hiến chi bang"

Và ông dịch nghĩa, cũng bằng chữ Quốc ngữ như sau:

"Như nước Việt ta từ trước

Vốn xưng văn hiến đã lâu"

Nên chú ý: sử gia Trần Trọng Kim đọc thành "VIỆT" trong bối cảnh đầu thế kỷ 20 (ấn bản 1916, và 1919), mà âm [v] trong "Việt" như đã diễn giải ở trên là xuất hiện từ giữa thế kỷ 17 trở lại đây!

Thành thử lúc sử gia Trần Trọng Kim dịch thì đương nhiên phát âm: "Việt".

Còn Bình Ngô đại cáo xuất hiện vào thế kỷ 15, văn bản Hán tự thì vẫn chỉ một, nhưng phát âm cho chữ do chưa có âm [v], nên đọc thành "Yiệt".

&5&

Chữ được phát âm theo chuỗi sau: YỊT / YIỆT / VIỆT

Vừa là chuỗi có sự tiến triển theo dòng thời gian "Yịt" trước, đến "Yiệt", rồi mới đến "Việt". Lại vừa là chuỗi tiếng nói cùng đồng hiện - cả ba lối phát âm đều đang tồn tại hiện nay, quả là độc đáo hết sức!

Ngay lúc này "Yịt" vẫn hiện diện trong cách nói của người Mường (được xem là [V]iệt cổ), cư dân Nam Kỳ & một số tỉnh Trung Kỳ vẫn phát âm "Yiệt", song hành với cách phát âm "Việt".

Về mặt chánh tả, khi âm [v] nay đã ngày càng nhiều, thành thử mới phải viết: "VIỆT NAM". Nhưng mặt khác, việc giữ gìn cách phát âm "YIỆT" ("B-yiệt") một cách bền bỉ - chính là cách đền ơn tổ tiên đáng quí hết sức! ./.

--------------------------------------------------------------------

(*) Nguồn bài gốc: http://vietsciences.free.fr/.../vuanlichsuvietnamyiecnam...

- Một số hình ảnh trong lối sống của người Yiệt ở Nam Kỳ.




Nguồn: Mattheu NChuong

 

Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1515, ngày 28 tháng 7 năm 1938

Thứ Tư, 24 tháng 11, 2021

"Chánh" nằm trong từ vựng tiếng Việt từ xưa

 Ghi chú lai rai...

"CHÁNH" NẰM TRONG TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT TỪ XƯA

* Tưởng "CHÁNH" chỉ là ... "phương ngữ" Nam Kỳ hả? Tưởng vậy là tưởng bở!

Thấy tôi ghi "chánh tả tiếng Việt", có người bảo viết sai, phải là "chính tả", vậy mà ... ông cũng đòi bàn về Tiếng Việt. Thiệt, oan còn hơn oan Thị Kính đó đa!

Nè, mở mắt ra mà nhìn cho kỹ:

Gọi "chánh án" (có ai đi gọi "chính án" không?), "chánh văn phòng" (đâu gọi "chính văn phòng'), rồi hồi xưa gọi "chánh tổng" (đâu ma nào đi gọi "chính tổng")... Hết thảy, "chánh" - trong "chánh án", "chánh văn phòng", "chánh tổng" cùng đều dùng ký tự chánh như trong "chánh tả", "chánh nghĩa", "chánh phủ".v.v...

Những biến động trong ngôn ngữ đã dẫn đến kiểu gọi "chính", bên cạnh "chánh" đã có từ xưa: "chánh tả / chính tả", "chánh nghĩa / chính nghĩa", "chánh phủ / chính phủ"...

Thời may, "chánh" không bị bức tử nên vẫn điềm nhiên hiện diện trong danh từ "chánh án", "chánh văn phòng" ... , dùng khắp xứ, trong Nam lẫn ngoài Bắc mà không bị thay bằng "chính".

"CHÁNH" dẻo dai tới mức những kẻ tính trục xuất bằng cách khu biệt gọi đây chỉ là ... "phương ngữ miền Nam" (?) cũng không tài nào đổi sang cách gọi "chính án", "chính văn phòng" được ráo! ./.

----------------------------------------------------------------------

Nguồn: matthew NChương

 

Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1514, ngày 21 tháng 7 năm 1938