ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2022

Hạnh Cha Gioang Phanxicô Thượng

HẠNH CHA GIOANG PHANXICÔ THƯỢNG

(Révérend Père Jean-François Génibrel)

thầy cả Dòng sai, hồi sanh tiền làm Bề Trên cai Nhà in Địa Phận Đàng Trong Phía Tây và làm Cha sở họ Tân Định.

--------------------

Cha Jean-François Génibrel

Cha Jean-François Génibrel sanh ra tại Castres trong địa phận Alby và bên nước Langsa trong ngày 31 Avril năm 1851. Người còn bà mẹ già năm nay đặng 84 tuổi, bà nầy khi nghe tin con qua đời thì thương khóc hết sức, song vì có lòng đạo đức nên cũng bằng lòng dưng con trọn cho Chúa như đã làm từ thuở con còn thơ ấu cho tới khi ấy. Ông già người qua đời đã lâu, anh em hết thảy mười một người, bây giờ còn bảy người còn sống, người em út làm thầy dòng Frère des écoles chrétiennes, đang làm thầy bề trên cai nhà trường tại cù lao Maurice bên phương Africa.

Thuở Phanxicô còn bé thì có lòng nhơn đức và ham việc học hành, nên đã vô học trường latinh, khi học đủ latinh thì có giặc, nên phải tập đánh giặc, mà người khỏi đi lính, sau thì vào học trường dòng sai tại thành Paris là kinh đô nước Langsa. Các bề trên cai trường thấy người thông giỏi văn chương và sách đoán, thì đã phong chức mau cho người các bực dưới, qua năm 1875, người mới 23 tuổi thì đã được lên chức thầy cả và dưng mình đi giảng đạo các nước ngoại giáo. Khi ấy cả gia quyến người thấy người chịu chức chánh tế thì rất vui mừng, song biết người sẽ lìa bỏ quê hương, cha mẹ, bà con mà đi qua xứ xa giảng dạo thì buồn rầu, nhưng mà cũng bằng lòng dưng người đi làm công việc Chúa đã kêu gọi người.

Cũng một năm 1875 ấy người đi xe lửa đi tới thành Marseille mà sang qua nước Việt Nam, thì bà con đưa đón đông và đều sa nước mắt, song người vững lòng và an ủi bà con vưng theo thánh ý Chúa.

Khi qua tới Nam Kỳ thì người mới rõ người An Nam là dân biết phép lịch lãm và rất hiền lành, thì người vui mừng và đem lòng thương người An Nam, cùng dốc lòng chịu khó nhọc mà giúp phần hồn và phần xác cho con chiên Đức Chúa Trời đã giao phú cho mình.

Người học tiếng An Nam ít tháng, thì đủ nói và đủ hiểu, thì Đức Cha sai nguời đi cai họ Phú Hiệp trong sở Cái Mơng về tĩnh Bến Tre, người ở đó cho tới năm 1883 thì Đức Cha dạy người về Tân Định, giúp cha Éveillard trong ba bốn tháng về việc cai Nhà in. Khi cha Éveillard qua đời thì người lãnh chức Bề trên Nhà in Tân Định, ở đó người học thêm tiếng An Nam và hết lòng sốt sắng dạy chầu nhưng, đồng nhi nam nữ cho biết lẽ đạo và dọn mình rước lễ vở lòng. Người ta nói người có tánh nóng nảy, khi thấy ai có lỗi thì là quở nặng, rồi một chút thì cười và tha lỗi cũng chẳng nhắc đến sự lỗi nữa. Cho nên ai nấy biết ý người thì đem lòng thương mến người như cha ruột vậy. Người có nhơn đức yêu người lắm; nên chẳng ai nghèo nàn thốn thiếu hay là trong khi túng ngặt chạy tới người mà về tay không bao giờ. Người hay xuất tiền bạc mình mà nuôi những con mồ côi, hay là gởi cho nhà trường, nhà phước nuôi mà người chịu trả tiền; đến khi lớn đến tuổi lo đôi bạn thì người lo cho đủ mọi đều như cha mẹ ruột vậy.

Qua năm 1902, Cha Emiliô Đức (Révérend père Emile Moreau) là cha sở họ Tân Định đổi đi làm aumônier nhà thương binh Saigon, thì Đức Cha Lucien Mossard, (Đức Cha Mảo) cấp bằng cho cha François Génibrel (Cha Thượng) lãnh luôn cai Nhà in và làm Cha sở họ Tân Định. Người lãnh hai việc cả thể lắm, song tính người thuần hậu thì hai phía đều bằng an, mấy cha làm phó cha sở giúp người trong việc Nhà in và việc họ cũng đều bằng lòng và giùm giúp hai công việc cách hết lòng; dầu khi chịu khó nhọc thì cũng vui lòng, vì người biết lấy lời hòa nhã mà sai biểu và an ủi. Người lãnh hai việc ấy từ năm 1902 cho tới ngày 25 Mai 1914 là ngày người qua đời.

Từ năm 1884 cho tới đầu năm 1902, người cai riêng Nhà in mà thôi, thì cũng giúp việc họ luôn, giảng dạy, ngồi tòa, dạy đồng nhi, giúp hết lòng cùng các cha sở, người cho học trò Nhà in hát lễ, dọn nhà thờ và các việc khác nữa. Từ năm 1902, người lãnh gồm luôn hai việc thì người lo lắng hơn nữa, tu bổ nhà thờ, sắm đồ lễ, bông hoa, đèn và các món, cờ, bài đăng, dọn nhà thờ rất oai nghi, trong các ngày lễ lớn. Bổn dạo bước vô nhà thờ thì rất vui lòng, vì thấy đạo thánh Chúa rất trọng vọng là thể nào.

Người có lòng lo đem kẻ có tội trở lại gỡ rối cho các bổn đạo mắc ngăn trở phần hồn, nên có nhiều lần làm lễ Hôn phối cho tám đôi mười đôi; năm 1912 tới ba mươi bốn đôi, gỡ xong trước mặt Hội thánh, năm đó nhờ có một cha giúp an ủi và dạy dỗ thì làm phép giao kỳ nhứt ba mươi bốn đôi, và kỳ sau mười đôi. Trước thì rửa tội hoặc vợ, hoặc chồng và mấy đứa con, rồi làm phép hôn phối tức thì cho mấy đôi ấy.

Người lo cho bổn đạo càng ngày càng sốt sắng, nên đã tập lần thì đã có nhiều người rước lễ hằng ngày từ mấy năm nay. Còn trong việc họ thì người dạy sắp đặt cho có thứ tự lớp lang, là đặt 2 ông trùm họ, 2 ông câu họ, 1 ông câu việc, 12 ông biện và 4 ông giáp. Cho nên trong việc họ, nhứt hô bá ứng: Các việc trong họ, hoặc về phần hồn, hoặc về phần xác thì đều được phấn phát lắm. Ai nấy thấy các ngày lễ lớn, lễ Sinh Nhựt, hai ngày kiệu Ảnh thì cũng biết việc đặt đủ quới chức cho có lớp lang thứ tự thì là việc hữu ích trong họ.

Người thật là người thông thái nên đã làm được hai cuốn tự vị rất có ích cho người Langsa học tiếng An Nam và cho người An Nam học tiếng Langsa và chữ tàu. Người lại có thông đồng với một ít hội thông thái thì đâu đó đều nhìn biết người thiệt là thông thái và ở có lòng lắm.

Mảng phấn chấn lo lắng đa đoan, mà bịnh hiểm xảy tới chẳng hay, phần thì Cha đầu bạc tuổi cao, nên sức lực đã yếu, nhưng vậy nhờ có danh sư lương y hết lòng chạy chữa thuốc men, nên bịnh mới cầm chịu trở đi trở lại trong ba năm. Năm ngoái bịnh trở nặng, Cha phải đi Pe Năng mà dưỡng, bổn đạo lớn nhỏ đều thương nhớ nguyện cầu, trông cho Cha mau mạnh mà về; khi Cha khá và về tới họ, thì ai nấy vui mừng không xiết, các viên quan quí chức đều hùn hiệp nhau, mà dọn một lễ ăn mừng rất trọng, cùng chúc cho Cha đặng thuyên dũ bịnh mà ở đời với chúng con.

Song cái đèn kia dầu hao tim lụn thì phải leo lét lần lần mà tắt, bịnh Cha cũng vậy, đầu năm nay trở lại nặng, và làm cho Cha phải chịu gầy guộc hao mòn cho đến chết là ngày 25 Mai 1914; để nhớ để thương cho các con chiên dấu yêu đang còn thảm sấu trong nơi biển ải!!!

Nay tôi xin kể ra ít đều cho Chư vị kháng quang biết công dày ngãi trọng của Cha sở cựu họ Tân Định.

Việc tống táng người thì đã có in vào nhựt trình trước rồi, nên xin Chư vị coi lại thì hiểu.

Vậy xin Chư vị, Quí quan, Quí chức, Quí hữu hiệp một ý một lòng cầu nguyện cho linh hồn thầy linh mục Phanxicô được mau vào nước Chúa mà hưởng phước đời đời.

TÂN ĐỊNH.

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1914

 

Thứ Năm, 1 tháng 12, 2022

Cha Đôminicô Nguyễn Tri Cơ

CHA ĐÔMINICÔ NGUYỄN TRI CƠ

Linh mục Bổn quốc Địa phận Nam Kỳ

--------------------

Sinh ra tại Rạch Rập (Cầu Ngang) năm 1872.

Chịu chức chánh tế ngày 7 Mars 1903.

Qua đời tại Trà Ôn ngày 29 Septembre 1922.

Ai dè họ Rạch Rập Thâu Râu mà dưng cho địa phận Nam Kỳ đặng một thầy cả có danh tiếng, đã làm nhiều việc cho danh Cha cả sáng và giúp linh hồn người ta, đó là cha Đôminicô Nguyễn tri Cơ. Cha người là Êmanoe Nguyễn tri Quản, mẹ người là Madalenna Lê thị Học, cả hai là đạo dòng; ông nội người là ông biện Hợp có nói đến trong hạnh á thánh Philípphê Minh, khi chém cha rồi thì tả đao xách đầu đem quăng dưới sông, xã Phương chạy theo chuộc lại ba quan tiền, mà bỡi không có tiền sẵn thì nó không cho, thời may có ông biện Hợp cùng chạy theo đó thấy vậy thì cởi áo lụa nâu mình, mà thế cho nó, thì nó mới cho. Đem đầu ráp lại cùng xác cha rồi, ông biện Hợp và một người khác cả hai về họ Rạch Rập đã khiêng xác thánh xuống bến, để dưới gốc me mà đợi xã Phương đi mua thọ đường đem về liệm. Nhờ đức ông bà mà Chúa chọn con cháu..

Đôminicô sinh ra tại họ Rạch Rập Thâu Râu, bây giờ là họ Cầu Ngang, về sở Chà Và, thuộc hạt Trà Vinh, năm 1872, năm Nhâm Thân. Đến ngày rửa tội đã chọn ông thánh Đôminicô làm Bổn mạng người, thì rất thậm phải. Xưa bà mẹ ông thánh Đôminicô khi gần ngày sanh thai đã chiêm bao thấy con chó cắn tha cây đuốc mà chạy cùng, âu là dấu chỉ con mình đến sau sẽ soi sáng trong Hội thánh, vì sẽ lập dòng, cùng sai các thầy đi giảng đạo mọi nơi. Bà mẹ Đôminicô nầy không đặng phước thấy như vậy, song ý Chúa nhiệm mầu khiến cho chọn ông thánh Đôminicô làm Bổn mạng hài nhi nầy, vì đến sau sẽ nên linh mục, cũng sẽ vác đuốc đức tin cùng lời giáo huấn mà soi nhiều nơi trong Địa phận. Hai ông bà tốt phước sinh đặng 12 con: bảy trai năm gái. Đôminicô là con đầu lòng, cho nên cha mẹ có ý dưng trái chiến đầu mùa cho Chúa; trong em út người cũng còn nhiều người đi tu, em gái thứ ba là Ysave Nghiệp vào nhà phước Trắng, đã khấn hứa, lấy tên là Clarise, Bề trên sai đi ngoài Bắc Kỳ ít năm, sau trở về chết chôn tại đất thánh nhà phước Trắng bên Thị Nghè. Em gái thứ tám là Maria Thi đi nhà phước Cái Mơng, cũng đã khấn hứa rồi, đang còn sống mà giúp việc Chúa, có ba em trai cũng vào nhà trường Latinh một ít lâu, song số Chúa kêu thì nhiều, mà chọn thì ít, cho nên mấy người ấy đã về thế gian, rày em út người có đôi bạn tử tế hết.

Đến sau cha mẹ người đã dời về ở tại họ Chà Và. Đôminicô tính nết hiền lành dịu dàng dễ thương, lại có trí sớm, cho nên cha sở coi họ Chà Và buổi ấy là cha Vêrô Lý, chọn làm học trò giúp cha, có ý lo lắng dạy dỗ trẻ nầy hầu sau gởi đi nhà trường Latinh, Bỡi Đôminicô ân cần lo lắng chí thú học hành, cho nên khi vào nhà trường Cái Nhum là năm 1882 thì đã thuộc sách mẹo Latinh đặng nhiều rồi, khi ấy Đôminicô mới có mười tuổi mà thôi.

Năm trước nhà nước mới bất lộc các cha, thôi giúp nhà trường có đạo, cho nên tiếng thiên hạ đồn rằng: mỗi trò đi trường Latinh phải đóng năm bảy chục một trăm đông, mà chịu tiền sở phí cho Nhà chung, cho nên năm đó học trò mới vào ít lắm, lớp nầy tựu có 15 trò mà thôi, mà có hai trò đem đồ lên nhà ngủ dọn dẹp vừa xong, chưa kịp học, kế cha mẹ ra về, thì cũng về theo, còn có 13 trò, cách vài tuần về một trò nữa, còn có 12 trò. Cha Bề trên cai trường buổi ấy là cha Georgiô Giáo (R. P. Ritter), còn cha dạy lớp đám nầy là cha Anrê Bữu, cha thấy còn có 12 mà thôi, thì cha nói chơi rằng: Chúng con bây giờ còn 12, trúng số 12 tông đồ, chớ chi chúng con bền đỗ hết thì sẽ đặng 12 thầy cả. Lời cha chúc nguyền ước ao như vậy, không đặng tròn như ý cha, lần hồi cho tới trường lớn thì mất hết mười, còn lại có hai làm thầy cả mà thôi: là cha Đôminicô và tôi đây. Trò Đôminicô tánh nết dịu dàng, lại thật thà lắm, hay bị gạt, lần kia nhằm lễ Bổn mạng cha Bề trên cai trường, tôi có đốt pháo bông chơi, pháo thăng thiên có trái châu xanh đỏ tốt lắm, khi rớt xuống đất, mấy anh lớn gạt rằng: lượm châu, lượm châu, Đôminicô tin bằng lời, lật đật chạy lại chụp một cục châu; cái thứ lửa thuốc pháo nóng hèn gì, cho nên Đôminicô phỏng tay và rầy và la khóc nữa. Bỡi bổn tính hiền lành dịu dàng và giữ luật chín chắn, cho nên năm ấy Đôminicô đi lãnh phần thưởng thứ nhứt về đức tánh hạnh (bonne conduite).

Học Cái Nhum đặng hai năm rồi lên Saigon là năm 1884. Đời đó chưa có xe lửa, mấy năm trước có một ông tây nhơn đức tử tế là chủ hàng tàu đi Nam Vang đã cho học trò Latinh lên xuống Saigon Mỹtho khỏi tiền, năm nay không còn nữa, cho nên mấy trò ở miệt dưới mà lên cho tới Saigon là cam go lắm, phải đi ghe ba bốn bữa, như Đôminicô nầy thì đi gần trót tuần lễ, lại có khi nhằm lúc cha mẹ không rảnh mà rước đưa thì phải đi quá giang với ghe quen, có nhiều lần đi với ghe chài chở lúa nữa.

Mấy năm đầu Đôminicô học cũng tầm thường chưa tỏ tài trí ra bao nhiêu, song từ lớp nhứt học văn chương sấp lên, nhứt là cách vật cùng sách đoán, thì thật là phát lắm, trí khôn bày ra rõ ràng minh mẫn, lại ưa cách vật cùng sách đoán cách riêng, cho nên những sách người mua sắm, bây giờ hãy còn lại đó thì tinh những là cách vật cùng sách đoán của các đấng có danh tiếng đã làm ra..

Khi xuống trường lớn học cách vật đặng một năm rưởi. thì Đôminicô đặng chịu chức cắt tóc mặc áo dòng làm thầy, là năm 1890. Cha mẹ bà con nở mặt nở mày vui mừng biết là chừng nào.

Các cha nhà trường thì bằng lòng về thầy Đôminicô lắm, việc học ngày một trổi hơn chúng bạn, từ đó về sau mỗi năm mỗi chịu chức liên tiếp bốn năm luôn. Hồi còn chức nhỏ cũng có đi dạy chầu nhưng đạo mới một ít lần, theo phiên theo thứ như mấy thầy khác. Chức tư rồi, bỡi chưa đủ tuổi mà chịu chức năm cho nên phải nghỉ mà đợi cho đúng tuổi, từ lúc ấy về sau thì không còn đi dạy ngoài họ nữa, bỡi thầy thông thái giỏi giắn nên Bề trên giữ lại nhà trường mà dạy học trò, đã dạy như vậy nhiều năm, chẳng những là tại nhà trường Saigon mà thôi mà Bề trên cũng có sai xuống nhà trường An Đức, đến sau cũng có đi dạy tại nhà trường Tân Định nữa.

Đời đó có luật trong địa phận buộc phải có 30 tuổi trọn mới đặng chịu chức thầy cả, mà thầy Đôminicô còn thiếu tuổi nhiều, cho nên chịu chức phó tế rồi phải ở vậy mà đợi hơn bốn năm. Tôi cũng bị một số phận như thầy, đợi là gần mỏi con mắt, mà bỡi tôi lớn hơn một tuổi, nên tôi chịu chức thầy cả trước thầy một năm, là năm 1902. Qua năm sau ngày mồng 7 tháng Mars 1903 thầy Đôminicô mới chịu chức chánh tế. Cho nên nội lớp vô trường Cái Nhum với nhau một lượt thì có hai anh em tôi làm thầy cả mà thôi.

Khi ấy cha mẹ cha mới còn song toàn, bà con rân rát, em út đông, vui mừng biết là chừng nào! Ngày cha về họ Chà Và làm lễ vinh qui, có tôi theo giúp chuyện nọ chuyên kia, tận tình huynh đệ.

Năm ấy cha Benoit (Lựu) làm cha sở họ Chà Và, ngài lo lắng sắp đặt dọn dẹp nhà thờ nhà thánh vển vang đẹp đẽ, hầu rước cha mới về làm lễ nhứt trong họ, chính mình ngài giảng bữa ấy nữa. Thuở ấy đường sá chưa được như bây giờ, lộ sỏi cán rồi mới khỏi Giồng Rùm một đỗi, còn từ đó mà xuống cho tới Chà Và thì đang có trải sỏi ra cùng đường, cục nào cục nấy bằng đầu gối, chưa có xe hơi như bây giờ, phải mướn xe kiến tại Trà Vinh đi hồi ba bốn giờ chiều mà gần 11 giờ khuya mới tới Chà Và, cam go lắm!

Trong đám đó có cha Vêrô Lý, là kẻ đã lo lắng cho cha Đôminicô đi nhà trường hồi trước, cho nên cha mới kiến người như cha ruột vậy, có cha Vêrô Gia phần thì là bà con với cha mới, phần thì cũng đã coi họ Chà Và xưa, cha Mátthêu Chiểu là bác bà con, có cha Gerber (Thông) đang coi họ Tân Hưng cũng đi xem lễ, vì hồi trước có làm cha phó tại Chà Và, thuở cha mới còn học trường nhỏ, cũng có đôi ba cha nữa..

Nghỉ ngơi vài tuần lễ theo lệ rồi, thì Đức Cha sai cha mới đi Cái Mơng ở giúp cha Bề trên Quí. Ở đó không đầy năm, làm việc bổn phận hẳn hòi, Bề trên yêu chuộng, bề dưới mến thương. Bỡi Bề trên tin cậy cho nên đến đầu tháng Février năm sau là 1904 thì Đức Cha dạy cha Đôminicô đi coi họ riêng, là họ Trà Ôn, về sở Mặc Bắc, là họ của cha Laurent Mỹ đã lập. Cha vừa tới nơi liền bắt tay làm việc tông đồ chí thú lắm, cũng như con gặt siêng năng cần mẫn áp vô đồng lúa chín vậy. Cha có tài chiêu hiền đãi sĩ, rước hết mọi người, cho nên mau quen biết người ta, đạo ngoại gì cũng năng tới lui thăm viếng, người sang quí những dân thường, thảy đều mến đức cha; ở đó phải coi họ Ba phố nữa.

Vốn họ Trà Ôn thì nhơn số bổn đạo không bao nhiêu song bỡi người ta đồng lòng lắm, hễ bày ra công chuyện gì, dọn lễ lạc nào, thì người ta không tiếc của tiếc công, cho nên mấy năm cha Đôminicô ở đó, đã bày ra nhiều cuộc lễ, đạo ngoại còn nhắc đến bây giờ.

Đang lúc ấy ông già cha Ximong Chánh về ở trong họ cùng qua đời tại đó, ông già cha Giacôbê Quận đến thăm con khi đó làm phó tổng bây giờ đang làm chánh tổng, quí danh là thầy cai Lưu, chẳng may ông cũng qua đời tại đó; cha Đôminicô chí tình lo tống táng cho hai ông ấy xứng đáng, đến sau hễ tới tháng học trò Latinh nghỉ thì hai cha mời nhiều cha và rước mấy thầy bên Cái Mơng qua hát lễ, làm cho việc đạo rần rộ nổi tiếng lắm. Cha coi họ Trà Ôn đặng ba năm rưởi, kế lịnh Đức Cha đổi cha về Tây Ninh, lối cuối tháng Août năm 1907. Bổn đạo lớn bé trẻ già đều thương mến, một hai gởi đơn xin cha ở lại, song cha can gián bổn đạo, để cho cha vưng lịnh Bề trên là ý Chúa sở định.

Trà Ôn mà lên Tây Ninh đàng sá xa xuôi viễn vọng, thật là ở dưới biển mà lên cho tới trên non. Tánh cha Đôminicô ưa dọn dẹp sửa soạn cho vén khéo, nên lần hồi cha lo xin cây mà cất thêm một cái thảo bạc cho rộng rãi, khách khứa có chỗ nơi cho xứng đáng, song cha chẳng bỏ qua nhà Chúa. Nhà thờ cất đã lâu lắm, cho nên mối mọt ăn tuồng trên gần hết, cha phải sửa lại như mới. Đời đó có ông chủ sự đạo đức, cùng có lòng tôn kính Đ C Bà Lourdes lắm, cho nên xin này cha làm một cái núi Đ C Bà sau bàn thờ chánh, ông ấy ra tay đốc công đốc sức mà làm, cũng có phụ tiền bạc ít nhiều; nội địa phận tưởng có một mình nhà thờ Tây Ninh lạ hơn hết, vì có núi ở trong nhà thờ. Đã nói trước, cha có tánh chiêu hiền đãi sĩ, nên về Tây Ninh chẳng những là làm quen với annam đạo, ngoại, thông ngôn ký lục, huyện phủ, mà lại làm quen với hết mọi người Langsa, đi đi lại lại thăm viếng nhau, nhằm lúc ấy có ít bà đầm đạo hạnh hẳn hòi, cho nên Chúa nhựt Lễ cả, ông nào bà nấy đều rủ nhau đi xem lễ hết thảy; khi ấy lính sơn đá còn trú Tây Ninh đông, ban đầu có một hai tên đi xem lễ, tới lui thấy cha tử tế, nói tiếng Langsa giỏi, nên lần lần rủ nhau đi xem lễ đông, sau tới mà tập hát xướng nữa, từ đó về sau Chúa nhựt lễ cả lên từng hát om sòm, cho nên việc thờ phượng Chúa ra như sống lại mạnh mẽ lắm.

Sửa soạn đặng vài năm kế cha sở Tha La là cha Du đau, mà thầy thuốc khuyên phải đi dưỡng bịnh bên Hồng Kong hay là về Tây, thì Đức Cha lại dạy cha Đôminicô xuống Tha La quyền làm cha sở năm sáu tháng, cho đến đầu năm 1910. Khi ấy Đức Cha Carôlô bây giờ đây, còn đang làm cha giữ việc nhà trường Latinh, lãnh lịnh lên làm cha sở Tha La, thì cha Đôminicô lại trở về coi họ Tây Ninh như trước, mấy tháng cha ở Tha La thì có cha Phanxicô Binh thế tại Tây Ninh. Cha trở về họ cũ mình thì nhằm năm làm lễ mấy á thánh Đức Giáo Tông mới tặng phong đầu tháng Mai năm 1909, trong phô Đấng ấy có năm Đấng Annam về Địa phận nầy là: á thánh Quí, á thánh Lộc, á thánh Lựu cả ba là Linh mục bổn quốc, á thánh Lựu là trùm họ Mặc Bắc, và á thánh Hạnh là bổn đạo họ Chợ Quán. Năm ấy Đức Cha dạy hễ họ nào có làm lễ mấy á thánh mới tặng phong, thì phải làm trọng thể ba ngày, kêu là Tam nhựt kinh lễ. Cha Đôminicô có lòng ái mộ tôn kính các vì á thánh tử đạo Annam cách riêng, cho nên cha nông công lo lắng dọn lớn hết sức, sắm cờ sắm màn treo đỏ nhà thờ, cùng trước sân và xung quanh nhà thờ nữa, cha có ý dùng dịp nầy mà thúc giục bổn đạo cho nên sốt sắng. Sớm mai lễ hát trọng thể ba bữa, buổi chiều phép lành cũng trọng, sớm mai chiều mỗi bữa có giảng về các thánh tử đạo, chiều bữa thứ hai 8 giờ tối lại có giảng tiếng tây, các quan cùng các người Langsa nội tĩnh đến đủ mặt, khi ấy cha Thiên (P. Barré) bên Tây mới qua đặng ít lâu, đang ở học tiếng annam tại Tha La, đã giảng tối ấy. Nội ba bữa mỗi đêm mỗi có đốt đèn trong ngoài nhà thờ cho đến khuya; đạo ngoại gì đi coi vô số. Trên bàn thờ có bóng hình các Đấng Tử đạo, coi tốt, nhờ các việc bề ngoài như vậy mà giục giã người ta, cho ai nấy trở nên sốt sắng, họ nầy khi trước trễ lắm.

Qua năm 1913 Đức Giáo Tông ban toàn xá, cha lại càng ra sức lo cho con chiên mình đặng nhờ hơn nữa, nên đã mời các cha đến giảng cấm phòng, làm phước ngồi tòa giải tội, năm ấy tôi giúp giảng tại Tây Ninh, chẳng những là họ nầy mà lại mấy họ nhỏ, nào là Thanh Điền, Nàng Gình, Tà Lọt hết thảy đều tựu đến nghe giảng dạy, cùng dọn mình xưng tội chịu lễ hầu nhờ ơn toàn xá, ấy là sự vui mừng an ủi kẻ chăn. Cho đặng để dấu tích nhắc lại ơn toàn xá nầy lâu dài thì cha đã dọn một cây thánh Giá lớn lắm, mà dựng ngoài đất thánh annam, có khắc chữ nhắc năm toàn xá.

Vậy chiều ngày sau rốt thì đã đi kiệu trọng thể từ nhà thờ cho tới đất thánh cũng chừng một ngàn thước, cha Đavid là cha sở Tha La làm phép cây thánh Giá, Đức Cha bây giờ, năm ấy mới thọ quờn Giám mục làm Đức Cha phó, đã ban cho kẻ đọc kinh trước cây thánh Giá ấy đặng nhờ 40 ngày tiểu xá.

Ấy là nói sơ qua về việc linh hồn, còn việc khác cha Đôminicô cũng ân cần lo lắng giúp đỡ Địa phận đặng nhiều, nhứt là nhà phước Chợ Quán và Thủ Thiêm, mấy năm ấy có cho nhiều người đi thi tại Tây Ninh đặng lãnh bằng cấp giáo làng, bỡi cha quen với đốc học, với mấy thầy giáo thanh tra việc thi, cho nên có ý dễ một chút, đậu đặng nhiều, mấy họ gần đó cũng có gởi người đi thi, cũng nhờ cha lo giùm.

Đang khi ở Tây Ninh thì cha còn coi họ Thanh Điền, cùng họ Nàng Gình giáp Địa phận Cao Mên, nhà thờ tranh mà đã xơ rơ xác rác, dột nát, tư bề trống trước trống sau, cho nên cha đã đi phổ quyến đầu nọ đầu kia cho tới Saigon mà làm lại một nhà thờ cho khá hơn.

Nhằm lúc ấy có quan Đốc phủ Nghiêm làm việc nhà nước đã lâu năm, dày công trận, nay nhà nước mới cho hưu trí, lên khẩn đất rừng tại Tà Lọt, thân dưới Nàng Gình, mới nài xin cha mở thêm họ đó nữa, song họ nầy không đặng thạnh bao nhiêu. Mỗi năm cũng có xin thầy dạy hai họ ấy, thầy nhà trường có, thầy giảng có. Họ nhỏ làm vậy chớ cũng có kiệu ảnh Đức Mẹ đôi ba phen, khi trên bộ khi dưới thuyền, làm coi cũng trọng.

Đang khi cha ân cần lo lắng sửa sang mấy họ ấy, thoát chúc có lịnh Đức Cha dạy cha về Cái Nhum, nghe đồn rằng đổi cha về làm bề trên coi thầy giảng, vì cha bề trên Hay phải về nhà trường Latinh mà dạy sách đoán; song sau đã đổi ý mà để cha coi họ Cái Nhum luôn. Cha đến đó giữa tháng Décembre năm 1913. Tới mùa Phục Sinh cha lo cấm phòng họ, cấm phòng quới chức, mời các cha giảng dạy ngồi tòa làm phước, mấy người nguội lạnh trễ nải mới nhút nhít chút đỉnh, lo đi cấm phòng ăn năn trở lại. Tháng ông thánh Giude, tháng Đ C Bà và tháng Trái Tim làm trọng thể luôn, chuông trống ìn ìn, lễ Mình Thánh Chúa dọn kiệu lớn, lễ Đ C Bà chẳng hề mắc tội tổ tông, là Sinh Nhựt cũng kiệu cả thể, người ta thấy vậy lo trở lại một ngày một đông, thứ sáu đầu tháng, xưng tội rước lễ nhiều, thêm lập hội Trái Tim, hội con Đ C Bà, thúc giục hết sức, cho nên mấy năm đầu coi mòi khá thiệt.

Đang khi phấn chấn vui vẻ, bỗng xảy ra sự buồn nầy, cha về đây chừng đặng một năm kế ông già cha phát bệnh, có lên ở với cha, cho cha lo thuốc men mà bịnh một ngày một tới, nên lo đem về xứ sở cũng đã chết bằng an, cha hết lòng thương nhớ lo bề tống táng cùng làm lễ cho cha rất dấu yêu đặng mau về chầu Chúa mà hưởng phước đời đời. Dầu lâm cơn phiền não như vậy, song cha cũng chẳng trễ bỏ việc bổn phận, lo hồn lo xác lo trong lo ngoài. Nhà thờ hồi trước tuồng trên bằng dầu cho nên mối ăn rui mè gần rớt. cha phải nông công ra sức thay trót hết tuồng trên bằng sao cho chắc hơn. Rồi lo làm nhà trường nữ lại nữa, vì đã hư cùng có ý dời lại cho gần, hồi trước cất xa.

Lập lại Nhà phước.

Khi cha mới về coi họ Cái Nhum thì nhà phước còn có 13 người, là mấy bà già, bà thì đau, bà thì yếu, bà thì ho, người thì điếc, hai nhà từng đời cha già Thu (P. Tournier) hãy còn lại đó, mà nó là xếu mếu hết, coi buồn xo, một góc một bà có cà ràn, có om nước, một mớ củi, ngồi một bên ho sò sò thấy mà thảm! Ban đầu còn cha Bề trên Hay coi sóc, đến sau cũng giao cho cha Đôminicô. Cha thấy đồi tệ như vậy thì thảm não buồn rầu, dầu vậy tới năm cũng cấm phòng đủ phép; bỡi cha sốt sắng ái mộ cho danh Chúa cả sáng và làm ích cho linh hồn người ta, cho nên trong năm 1916 cha đã xin phép Đức Cha mà lập nhà phước lại; ban đầu gay trở lắm, tiếng vô tiếng ra, kẻ bàn tới người bàn lui, song cha cứ một lòng kiên cố quyết làm cho được việc. Khi đặng phép Đức Cha rồi thì đi đến mấy nơi quen biết, hoặc viết thơ mà xin bố thí ít nhiều, cũng có xin trong hàng linh mục tây nam, góp gió làm bão. Đức Cha cho phép lập lại mà không cho phép mắc nợ, cho nên phải ra sức kiếm cho có mà làm. Đoạn vời cha Vêrô Lý, là cha dấu yêu của cha, đến mà nông công giúp sức với cha. Cha Vêrô nghe tự sự thì vui lòng, ra sức giùm giúp, đi xin xỏ đầu này đầu kia, lại gặp giống gì dùng đặng, thì cấp ca cấp củm đem về đó để dành. Cha Vêrô có tính tiện tặn giỏi lắm; khi có tiền vừa đủ thì khởi công làm nhà áo trắng, phá nhà cũ mót lấy gạch lấy đá mà xây nhà mới, song bỡi sợ làm lại chỗ cũ e mối nhiều khó giữ, cho nên day lại hướng khác, cho đỡ mối, té ra có hơi bất tiện một chút, là sớm mai chiều cũng đều bị mặt trời xỏ vô.

Cũng may phước vừa tính lập nhà phước lại, tức thì có ba bốn chị xin vào, sau thêm lần lên, nhờ đó mới có người dọn dẹp sửa soạn trong nhà. Cất lại nhà trệt, nền đúc cao, mà bỡi làm theo đồng tiền, mà tiền thì ít, làm chắc sao cho đủ, cho nên bớt chỗ nầy, ăn mót chỗ kia mà tấp vô, nên sợ nhà đó không lên được bao lâu.

Khi làm nhà áo trắng gần lợp, cái nền đổ đất mà chưa dện kịp cho chắc, xán xuống một đám mưa lớn lắm, cha Đôminicô sợ lún nền, sợ nước soi xuống mà hư vách chăng, nên cha dầm trót đám mưa mà đốc sức tát nước ra. Tàn đám mưa thì cha rét, đó gốc bịnh cha sơ phát lên là như vậy, một ngày một thêm, nay trở chứng nầy mai trở chứng khác, ít lâu thì lại khô đâu trong xương sống, nó bắt cứng đơ đi không đặng nữa, nằm xuống ngồi dậy một mình cũng không đặng. Chạy đủ thứ thuốc, thầy nam, thầy chệc cho tới thầy tây, thầy nào cũng có, thuốc hoàn, thuốc tể, thuốc rượu, thuốc nào cũng có uống, ai bày đâu thì làm đó, ai chỉ thuốc nào thì cũng tầm cho ra, nào thầy thích thầy châm gì cha cũng chịu hết, đến đỗi có một thầy biểu đào hầm như cái huyệt hẹp rồi chế thuốc dưới đốt xong rồi, biểu cha xuống nằm dưới, trên nầy che lại mà xông, cha cũng vui lòng chịu, lần đó nghe nói đem lên mệt gần chết, cha trông một đều là cho mạnh mà làm việc Chúa, cùng giúp linh hồn người ta. Ban đầu còn vịnh đi đặng, đến sau dỡ chơn lên không nổi nữa kéo xà lỉa sột sột dưới đất, cho nên có muốn đi đâu thì phải khiêng, có làm cái ghế riêng tra hai cây đòn vô để sẵn đó, muốn xuống nhà phước thì sai trẻ kêu bốn năm người lên khiêng, dầu vậy cũng rán lo coi làm cùng sắp đặt mọi sự cho an bài. .

Nhờ cha Vêrô lo giúp coi làm nhà áo đen, cùng lo coi sửa vườn nhà phước lại, hầu sau cho có huê lợi mà nhờ. Cha Đôminicô đau như vậy, mà nhờ cũng còn ăn uống đặng khá, ngặt có hai cái chơn dỡ lên không đặng mà thôi, đứng thì hai chơn chở cái mình không nổi, cho nên sụn xuống, té rồi dậy không được. khiêng hoài nhiều khi cũng bất tiện, vì có lúc người ta mắc làm việc nọ việc kia xa, kêu kiếm cũng lâu, cho nên mới bày ra mua một cái xe kéo.

Hễ có muốn xuống nhà phước thì một hai đứa học trò cũng đủ, nó vịnh đưa cha lên đặng rồi, thì một đứa kéo, một đứa đẩy, ra vô nhà dòng cũng nhờ xe kéo, một hai khi biểu nó kéo đi vòng xung quanh nhà thờ dạo chơi, hay là vô lộ lớn, có khi chạy xuống tới Cái Gà.

Song xe kéo cũng bất tiện chuyện khác, là có đôi ba lần xuống dốc con nít nhỏ kềm không lại, lật xe, cha té. Như một lần trúng là ngày làm phép hai nhà áo trắng áo đen mới cất đó, trẻ nhỏ kéo cha xuống chầu lễ nhạc làm phép nhà, nó trợt, lật xe, cha té lấm mem, rồi lo gượng cho nó đỡ lên xe, kéo lộn về bỏ cha Vêrô làm sao thì làm.

Bỡi cha bịnh hoạn như vậy cho nên năm 1918, cha Tứ mới chịu chức thầy cả thì Đức Cha sai xuống làm cha phó giúp cha.

Bề trên cùng anh em bạn thầy cả thấy cha đau như vậy thì muốn khuyên cha xin nghỉ, song không ai dám nói rõ, sợ cha buồn, vì kể như đồ vô dụng rồi. Cha cũng cứ thuốc nầy thuốc kia. xông hơ bóp ngải, thuốc rượu, dầu gió đủ thứ, trông cho mau mạnh, mà không thấy mạnh.

Cực chẳng đã lối tháng Juin năm 1919 cha tính với Đức Cha mà xin nghỉ luôn cho đến khi mạnh, thì Đức Cha định cho cha về nghỉ tại Chí Hòa, Đức Cha dạy cất cho cha một nhà riêng cho dễ khỏi lên xuống, lại cho tiện bề khác, kẻo ở chung với các cha trên thì cũng khó. Cái nhà rộng rãi khoản khoát, cao ráo, lót gạch tàu, vách gạch sơn phết tử tế, lợp lá cho nên mát, phần thì ở ngay ngọn gió, đồng trống, thanh khí lắm.

Cha giao họ mà đi về Chí Hòa là đầu tháng Novembre năm 1919. Cho nên cha coi họ Cái Nhum thiếu một tháng rưởi mới đầy sáu năm..

Ra mà đi thì kẻ khóc người than, đứt ruột đứt gan, cha đổi mà thôi thì cũng là buồn hết sức, huống chi đổi mà liệt nhược đi đứng không đặng, thì thảm thiết thương cho biết là chừng nào nữa!

Cha về nghỉ tại Chí Hòa, khỏi lo việc họ thì lần lần coi bộ khỏe hơn, cha cũng cứ kiếm thuốc uống hoài, song không ra gì, bịnh cũng trơ trơ. Cha hết lòng cầu khẩn nguyện xin, thời may gặp đặng một ông thầy thuốc nam coi bịnh cha, rồi chịu cho cha mạnh, xin cha đặt đàng mấy chục đồng đó. Thiệt cũng lạ, trước nhờ ơn Chúa, sau tưởng cũng nhờ thuốc nầy, cho nên cha đứng một mình đặng, ban đầu có đứa vịnh đi thử, sau chống gậy đi một mình, rồi bỏ gậy cũng đi đặng giỏi quánh.

Bề trên thấy vậy thì mừng, anh em chúng bạn cũng vui cho cha, khá lại như vậy cũng đặng trút năm. Bỡi nằm một chỗ lâu thì nhàm lắm, cho nên vừa thấy khá lại thì muốn đi làm việc tông đồ cho mau, song cũng còn lưỡng lự, muốn kiếm việc nào cho tiện hơn. Đức Cha có chỉ một hai chỗ, song cha chưa dám lãnh cha nói chuyện với tôi một hai lần, muốn xin về Nhà trường dạy học trò, tưởng vậy là khỏe hơn, tôi can rằng: Nhà trường là chỗ luật mẹo có giờ có khắc, cha chưa mạnh thiệt, về đó chịu sao nổi, nên cũng chưa tính đâu cho chắc.

Cha Phaolồ Ngãi đang coi họ Tường Lộc, và cũng coi luôn họ Trà Ôn, đàng đi xa xuôi cách trở, nên khi vừa nghe phong phanh như vậy, bèn đốc bổn đạo họ Trà Ôn, là họ cũ cha xưa, xin rước cha về ở đó mà nghỉ ngơi, làm lễ, dạy sách phần cho con nít chút đỉnh, ngồi tòa làm phước cũng không bao nhiêu, khỏe thì làm, mệt thì nghỉ, lại họ hứa sẽ nuôi cha tử tế. Cha Phaolồ bàn tính với cha thì cha chịu, liền trình cho Đức Cha, đoạn xuất tiền ra hỏi làm một cái nhà cho tử tế cho cha ở, vì hồi trước cha sở ở sau nhà thờ chật hẹp, bịt bùng lắm.

Trời hạn gặp mưa mừng lắm, họ Trà Ôn mấy năm nay mồ côi không có cha ở; nay nghe tin cha cựu đã quen biết chịu về ở đó thì họ vui nói sao xiết, lật đật kéo cây kéo ván kêu thợ làm nhà, nhà ba căng xông cao và rộng, khoản khoát, dưới lót gạch tàu, lại phòng cha ngủ còn thêm ván râm nữa, xung quanh khép vách lụa, kèm thêm một cái nhà bếp phía sau cùng rộng rãi dễ coi, Nhà cữa xong rồi tựu nhau ăn tân gia, đem so sách ra mà tính coi hao tốn bao nhiêu. Tính hết thảy là 700 đồng, tức thì ông phó tổng đương niên, lại mới đặng chức Huyện Hàm kỳ Quốc trái nầy, mới gắm ghé chịu giữ đạo, chớ chưa rửa tội, quí danh là thầy phó Yên, lãnh chịu hết 700 đồng đó một mình, còn tiền đâu đậu ăn uống bữa đó dư lại một trăm mấy, thì thầy xin để mà mua tủ bàn để tại nhà cha. Hai vợ chồng thầy ái mộ giữ đạo lắm, song bề thế lớn cũng còn phải tính chuyện nọ chuyện kia cho xong đã, bà vợ có đến lạy Đức Cha xin cho chịu phép rửa tội trước, Đức Cha biểu đợi thầy đã, sau sẽ chịu một lượt. Nguyện xin Chúa khấng ban ơn làm cho trọn việc Chúa đã khởi công trong gia thất nầy, hầu cho ngày nào hai vợ chồng thầy đặng chịu phép rửa tội, cho sáng danh Chúa và nên gương cho bà con cùng trong tổng làng đặng noi theo. Dầu thầy chưa chịu phép rửa tội, chớ thầy lo lắng thúc hối sự cất nhà thờ Chúa cho xứng đáng, thầy hứa chịu ba ngàn, vì nghĩ Chúa cho mình có dư hơn anh em trong họ, còn mấy anh em khác thì thầy giàn chịu ba ngàn, cho nên định cất nhà thờ sáu ngàn, mà có thiếu thì thầy bao thêm.

Khi cha Phaolồ đi cấm phòng về mà đem tin cho họ hay, mọi việc đã tính xong xuôi, cha Đôminicô sẽ đến tại họ lối 10 Août, thì ai nấy hớn hở vui mừng, hết lòng chờ đợi..

Cha Đôminicô chở đồ về ghé tạm nghỉ tại nhà em cha ở tại Cái Nhum ít bữa; rủi bữa nọ xuống xuồng vô nhà thờ làm lễ thì cha trật chơn té cấn hông nơi be xuồng, làm cho cha đau bộ sườn và có hơi tức nữa, cho nên cha nán lại đôi ba bữa mà uống thuốc, chưa thiệt mạnh cha lật đật đi kẻo sai lời mà tội nghiệp người ta chờ đợi.

Cha đến họ Trà Ôn nhằm ngày thứ bảy 12 Août, sáng Chúa nhựt làm lễ nhứt trong họ, ai nấy vui mừng khôn xiết, dọn một tiệc mọn mừng cha, cầu xin cho cha mạnh thiệt mà ở giữa họ mồ côi cho hủ hỉ.

Ngày 15 Août lễ cả Đ C Bà Mông Triệu, cha làm lễ Đức Mẹ theo sức cha, lại làm một việc nên dấu tích để lại cho họ, mà nhứt là cho vợ chồng thầy phó vui mừng, là cha rửa tội cho một đứa con trai thầy phó, mới nên sáu tuổi, mà kinh phần giỏi lắm, có ý một hai tuần sau sẽ cho nó rước lễ vỡ lòng nữa. Nó học với hai Dì phước đã lâu, cha Phaolồ dọn nó rồi, song có ý nhường lại cho cha Đôminicô rửa tội. Vợ chồng thầy phó vui mừng nói sao xiết, mua mười mấy đồng bạc pháo đốt mừng, còn thêm vật bò đãi tiệc nữa.

Rồi họ mới tính với nhau đâu đậu mà chịu tiền nuôi cha, định ba tháng góp một kỳ là 120 đồng bạc, mỗi tháng dưng cho cha bốn chục cho cha ăn uống xây dụng, thêm mướn một người nấu đồ tây một tháng mười đồng, vì tì vị cha ăn đồ Annam lấy làm khó tiêu.

Khá khen cho họ Trà ôn là họ nhỏ mà thật tình với cha, ít họ mà được vậy. Song hỡi ôi! Cha con vui mừng với nhau không đặng mấy ngày! Chúa nhựt sau cha còn rán làm lễ mà trong mình đã mê mệt, rồi đó bịnh một ngày một thúc tới, phát chứng hay ụa hay mửa nước dãi, bèo bọt, rồi lại qua nấc cụt. Nội họ lăng xăng cầu thầy chạy thuốc, nhứt là mấy bà, bà cai, bà phó, bà hội đồng, bà cả, vân vân, càng xăng văng xéo véo hơn nữa, lo rước đủ mặt danh y, nào thầy nam, thầy chệc, thầy tây nữa. Thuốc bốn năm đồng một thang cũng hốt. Mấy thầy quyết lòng làm lấy danh, song bịnh coi một thúc tới, dầu vậy cha cũng rán làm lễ cho tới ngày thứ sáu 26 Août, thứ bảy không nổi nữa thì mới thôi. Cha hết lòng cầu khấn nguyện xin và ra sức uống thuốc cho mau mạnh mà giúp người ta, lại nhiều khi cha an ủi mình rằng: “Rán mạnh cho người ta vui mà, đau làm chi tội nghiệp, người ta buôn mà!”

Chiều thứ bảy coi bộ cha yếu hơn, cho nên thầy cai lật đật sai đi rước cha Phaolồ, đến ban đêm, thấy cha chưa làm sao thì đợi sáng Chúa nhựt, khi bổn đạo đọc kinh tối thì tựu xuống nhà cha, cha Phaolồ làm phép xức dầu thánh đang khi cha còn tỉnh táo như thường, xong rồi bổn đạo lên nhà thờ xem lễ, lễ rồi một người cầm một cây đèn hầu Mình Thánh Chúa, cha Phaolồ đem cho cha chịu lần sau hết như của ăn đi đàng. Dầu cha chịu các phép rồi, song cũng còn trông cậy mạnh lại, đến ngày thứ ba cha mới chịu mình phải chết, nên nói về sự chết, trối trăng đều nọ đều kia. Mười Ngươn là em cha có mặt đó, cha kêu hai đứa học trò là hai anh em ruột giúp cha xưa rày, hỏi nó muốn giống gì thì cha cho, một đứa xin một cái valise bằng da mà thôi. Còn về sự chôn cất cha đã nói với cha Phaolồ: Tôi không muốn về Chà Và, có về đặng Cái Nhum thì về, bằng không thì nằm đây mà thôi, rồi sau lại nói quyết rằng: Thôi, chết đây chôn đây, cậy có cha và anh em trong họ lo giùm.

Chiều thứ ba thì bịnh riết tới, nhưng vậy cha cũng chẳng mê sảng chút nào, mất trí chừng năm ba phút, rồi kế tắt hơi, lối 11 giờ khuya ngày thứ ba đó, là 29 Août. Việc Chúa tiên định chẳng ai dò thấu. Mấy năm trước có hỏi ai ai cũng tưởng cha chết, mà không chết, nay đi đứng được chững chàng, lật đật xin xuống Trà Ôn trọn 18 bữa mà ly trần !!!

Hai giờ khuya thì có ba người em cha đi đàng bộ, xe hơi, xe ngựa lăng xăng, tới Gò Ân Nước Xoáy mướn ghe đưa tới Trà Ôn. Mấy anh em hiệp nhau mới tính bề chở xác cha về Chà Và mà chôn theo phần mộ ông bà.

Ban đầu thầy cai thầy phó cùng trong họ quyết lòng lo lắng mai táng cha tại đó, song thấy em út cha năn nỉ nài xin thì nghĩ lại rằng: việc ruột thịt thương mến, cản làm sao được; kế vừa tảng sáng có tàu hơi đi rước cha Phaolồ, cha liền đánh dây thép cho Đức Cha và cho cha Bữu cha Lý là hai cha cha Đôminicô đã căn dặn cách riêng.

Khi cha Phaolồ đến Trà Ôn, nghe nói việc chở xác đi, thì cha can gián, cho nên mấy anh em cũng bằng lòng nghe theo. Phần tôi là anh em một lớp học với cha Đôminicô, từ khi cha về tạm nghỉ tại Cái Nhum ít bữa đặng có qua Trà Ôn, thì mỗi ngày cha cũng có rét ít nhiều, lại thêm rủi té va sườn vào be xuồng, nên năm bữa trước khi dời qua Trà Ôn thì cha chẳng có vô mà làm lễ đặng nữa, lóng đó tôi cũng đau, nên anh em không gặp nhau, tôi ái ngại hoài, sao bắt hồ nghi sợ cha chết, trước khi cấm phòng tôi cũng có can gián cha, xin đừng lật đật làm chi, việc Chúa là việc bền bỉ lâu dài, mạnh thì làm, còn đau bề trên cho phép nghỉ thì nghỉ, Chúa không cần gì ta mà lật đật. Cha trả lời rằng: ở đây lâu ngày không làm việc gì đặng cũng nhàm lắm, để đi ra đổi khí và làm việc chút đỉnh thử coi có khá chăng. Ai dè chẳng khá thì chớ mà lại bỏ xác luôn.

Chiều ngày thứ ba 29 Août thì tôi nghe nói có dây thép ông cả Châu Trà Ôn đánh qua cho em cha hay, cha đã chịu phép xức dầu rồi hôm ngày Chúa nhựt; vốn dây thép đó đánh ngày Chúa nhựt và mướn đem tới nơi nữa, mà nó trắc trở làm sao không biết, trưa thứ ba mới đem tới. Tôi nghe tin như vậy thì sáng ngày lật đặt lên Chợ Lách đi tàu qua Trà Ôn mà thăm bạn học một lần sau hết.

Tới tại nhà dây thép đôi ba phút thì có tin bên Trà Ôn gõ qua rằng: Cha chết chiều hôm qua! Tôi rụng rời tay chơn, đầu đuôi có hai anh em, mà Chúa cất hết một rồi! Tàu lại tôi bước xuống mà đi, tới ngang Hồi Xuân thấy xuồng đưa cha Giacôbê Quận ra tàu cùng qua Trà Ôn, vì đã gởi tin cho cha hay rồi. Tới bến tàu tôi đi riết sợ liệm rồi chăng; bước vô nhà thờ thì thấy cha nằm thim thíp đó, đèn chong hai bên, hòm rương bông vải đã nghiêm sẵn rồi, đợi người ta tựu đủ đặng cầu lễ rồi liệm.

Ớ Đôminicô, mọi khi gặp nhau lẹ làng chào hỏi, anh em bạn lớp mình làm sao, mạnh mẽ thể nào, sao nay nằm đó thim thiếp chẳng hở môi!!! Ở Saigon anh em bạn hữu cũng nhiều sao trốn chi lẽ loi một mình hiu quạnh, bạn hữu tới không đặng! Tại Cái Nhum con cái cũng đông, nhứt là Nhà phước cha đã ra công tái lập lại, sao chẳng nằm gần gũi con cái, mà lại lánh thân một mình xa xát làm chi lắm bây! Song nghĩ lại là tại họ nầy hết tình mến thương cha, cha cũng tận tình thương con, cho nên Chúa định đem cha về gởi xác tại đó!

Hỡi họ Trà Ôn, chớ nói mình là họ mồ côi nữa làm chi! từ rày sấp lên trước khi anh em vào nhà thờ thì phải đi ngang qua mồ mả cha yêu dấu! Ấy cha chết mà hãy còn nói! Thấy mồ mả cha thì nhớ lại mấy lời cha dạy dỗ ủi an ba năm rưởi xưa, và những lời mới trong mười tám bữa trước khi cha qua đời.

Tôi hết lòng khen họ Trà Ôn, lúc cha đau cầu thầy chạy thuốc, tốn của nhọc công không tiếc, đến lúc cha qua đời lại càng rộng rãi chí tình hơn nữa. Mấy bữa ấy thầy cả và nhà thầy cai, ông cả, hương quản ở thường xuyên đó mà lo lắng cùng mấy bà nội họ. Thầy phó và hội đồng ê mình tới không đặng. Trong họ tính nhắc một cái thọ đường bằng sao tám chín chục đồng cho xứng đáng, song mấy em cha xin mua hàng nhỏ hơn, vì cũng còn quyết liệu thể nào mà đem xác cha về Chà Và cho đặng, nên đã mua hòm vên vên mà cũng là rôm rả lắm.

Bà phó liền đưa cho em cha hai chục đồng mà biểu xin một lễ hát, lẽ đó cha Phaolồ đã làm ngày thứ ba giáp tuần cha qua đời. Bày vẽ cái gì tiền bạc họ trao ra lập tức.

Khi bổn đạo tề tựu đủ mặt rồi thì cầu lễ, đoạn ba anh em tôi đã hát Libera trước khi liệm xác vào thọ đường, hồi đó chừng bốn giờ chiều thứ tư; đã định chôn ngày thứ sáu, nên tôi lật đật hối đánh dây thép cho Đức Cha và cho ít cha thiết nghĩa, họa may có ai đến kịp chăng, song rủi làm sao không biết, mà dây thép tới Saigon trễ cho nên mấy cha đi không đặng.

Liệm rồi tôi bàn tính với cha Phaolồ, thấy cai cùng quới chức trong họ lo xây kim tỉnh cái huyệt cho cha, người ta mừng lắm, lo kêu thợ chệc đến đo coi, định sáng thứ năm sẽ chở đá, gạch, vôi, cát, ciment đến mà làm, ăn mấy thì họ trả mấy, chẳng làm sao.

Té ra nửa đêm có ghe bà già cha với mấy em đến nữa, rồi bàn tính với nhau, như xin phép được sẽ đào lên đem về xứ sở, cho nên cản không cho xây kim tỉnh cho dễ bề đào lên bỡi thương quá nên tính một hai đem về cho đặng.

Tôi không dè, làm lễ rồi mới hay, thì đã hồi thợ rồi. Sáng thứ năm hai lễ mồ một lễ hát, kiến cho cha Giacôbê Quận là bạn hữu hát ngày ấy. Chiều ba giờ tàu lại có cha sở Vĩnh Long và cha Tôma Vàng An Hiệp, lại có Dì Thi là em cha Đôminicô đang dạy tại An Hiệp cũng tháp tùng đi theo một lượt ấy. Dọc dàng dì nói chuyện muốn đem xác cha về Chà Và, cậy cha sở Vĩnh Long lo giùm, liệu thế nào cho đặng, tốn hao bao nhiêu không hề gì. Cho nên khi tới Trà Ôn thì cha đánh dây thép cho cha sở Cần Thơ, mượn vào tòa xin giùm, lúc đó là gần tan hầu chiều. Vậy đêm đó chưa ắt mai sẽ hạ rộng tại đó hay là chở đi.

Có ý mời cha sở Vĩnh Long làm lễ hát ngày thứ sáu, thay mặt cho Đức Cha, song khi người rõ lại tôi là anh em bạn học với cha Đôminicô, thì ngài chằng chịu, một nhường lại cho tôi.

Tội nghiệp! thấy bà cai tổng thức cả và đêm với mấy người đờn bà, cùng ra tay nấu nướng, hầu năm giờ sáng mà có đãi đạo hò, cho nó đưa cha ra phần mộ; đạo hò đã tựu lại đó hồi ba giờ khuya. Sáng ngày bổn đạo tựu đến sớm lắm, cha Phaolồ làm lễ trước, hát lễ mồ, rồi kế mấy cha làm lễ liên tiếp theo đó; sáu giờ cầu lễ rồi làm lễ hát, có hai vợ chồng ông chủ sự Madame et Monsieur Guéguen, có ông Huyện chủ quận Trà Ôn, các chức làng gần đủ mặt, kẻ ngoại tới coi cũng đông. Hát lễ mồ rồi mấy em cha xin đình lại, đợi tin Cần Thơ trả lời cho phép hay là không thể nào. Ấy là đều làm cho người ta buồn, họ dọn đồ về hết, giao cho mấy anh em làm sao thì làm, bãi đạo hò nữa, mấy anh em phải mướn lại. Các cha cũng phải về, vì mai là thứ bảy; còn cha Phaolồ và tôi nán lại cho vuông tròn ân tình bạn hữu. Để xác cha nằm trong nhà thờ mà đợi cho đến hai giờ chiều, dây thép lại biểu phải làm đơn xin quan Nguyên Soái, phải có giấy thầy thuốc, phải có người nhà nước coi tẩn liệm, phải chuyện kia chuyện nọ lăng xăng. Đặng tin rồi lật đật đánh trống cho người ta hay mà tựu lại đưa cha, chẳng mai trời chuyển mua lớn lắm, cho nên phải lật đật, người ta tới không đặng bao nhiêu.

Đưa cha ra tới huyệt, trước cữa nhà thờ, hạ rộng vừa rồi, lấp đất chưa xong thì trời mưa ào xuống. Phải chi chôn sớm mai thì tốt quá! Song biết làm sao, cũng bỡi cái thương mà ta chuyện lỡ dở làm vậy.

Vợ chồng thầy phó đã xin cho linh hồn cha năm chục lễ Misa, làng ngoại đi điếu 15 đồng xin năm lễ, ông cả Châu có đạo xin ba lễ cũng 15 đồng, còn ít bà già xin một đôi lễ nữa.

Thiệt rất đáng khen họ Trà Ôn tận tình với cha, họ đó là họ đầu lòng của cha, khi cha mới ra ở riêng mà làm việc tông đồ.

Nhà phước cùng bổn đạo họ Cái Nhum báo hiếu đền ơn cha thể nào, thì đã có ấn hành vào nhựt trình “Nam Kỳ” rồi, nên nay chẳng nhắc lại đây nữa.

Ớ Đôminicô, ớ bạn thiết nghĩa, ngày cha làm lễ Vinh Qui xưa, là lễ nhứt tại họ Chà Và, thì tôi đã tận tình giúp cha, lần nầy là lễ sau hết cho cha thì tôi cũng bảo mãn với cha, tôi đứng làm lễ sau hết cùng đưa cha ra phần mộ, thì lòng tôi ngùi ngùi thương nhớ. Đầu đuôi có hai anh em một lớp với nhau, chớ phải nhiều nhỏi gì, sao cha vội bỏ đi chi mau lắm bây!

Tôi chép hạnh cha đây, trước là có ý cho sáng danh Chúa, vì cha đã làm thầy cả Chúa dưới thế nầy đặng 19 năm, 5 tháng, 22 ngày, hết tình tôi ngay con thảo; sau là cho anh em bạn đồng liêu đặng vui mừng vì cha là một thầy cả có danh tiếng, và xứng đáng bực mình; sau nữa cho giáo hữu nhứt là những con chiên cựu của cha các nơi đặng nhớ công ơn cha, mà giúp lời cầu nguyện cho cha. Ngày nào cha về chầu Chúa, xin cha nguyện cầu cho địa phận Nam Kỳ nầy, hầu kẻ chăn cùng đoàn chiên, đặng lòng ái mộ làm việc bổn phận mình cho sốt sắng, giữ đạo cho nên. Sau hết xin cha chớ quên anh em bạn lớp với cha, chí tình thương nhớ!

Ớ Đôminicô, thôi! giã từ ly biệt, cha hãy nằm an nơi đất thánh Trà Ôn, đợi ngày sau sống lại vang hiển, nguyện cho anh em gặp nhau trên cõi thường sinh đời đời!

Chung.

Paul Thắng.

.Báo Nam Kỳ Địa phận năm 1922

Thứ Hai, 28 tháng 11, 2022

Sự tích Đức Cha Lucianô Mossard

SỰ TÍCH

ĐỨC CHA LUCIANÔ MOSSARD

GIÁM MỤC MÊĐÊA,

CÙNG THAY MẶT ĐỨC GIÁO TÔNG, MÀ CAI TRỊ

ĐỊA PHẬN ĐÀNG TRONG PHÍA TÂY.

---------------------

PHẦN THỨ NHỨT: HẠNH THẦY CẢ.

--------------------

Đức cha Lucien Emile MOSSARD

Đức Cha Lucianô Mossard sinh tại Dampierre-sur le Doubs, thuộc về Địa Phận Besançon, trong Nước Langsa, ngày 23 tháng Septembre, năm Chúa giáng sanh 1851. Cha mẹ Người cứ thói lành các nhà đạo đức bên Nước Langsa, mà lo cho Người chịu phép rửa tội nội trong 24 giờ.

Tổ phụ Người, phải kể là dòng dõi người đời xưa. Đời nay ít có gia đạo lạ lùng và đáng khen thể ấy: đức tin chơn chất vững vàng, truyền tử lưu tôn; tánh hạnh ngay lành nhơn đức, là gia tài tổ phụ lưu lại.

Xem tích sau nầy, thì đủ biết cha mẹ Người đạo đức chắc chắn là thể nào. Thuở loạn lạc bên Nước Langsa, thì đạo thánh phải gian nan kể chẳng xiết. Trong những ngày buồn bực dữ dằn thể ấy, thì nhà cha mẹ Lucianô đêm ngày mở rộng, mà chực rước các Thầy cả bị kẻ nghịch truy tầm tập nã. Đang khi dân loạn hằm hằm như sư tử, bắt bớ cùng làm khốn khổ nơi nơi, thì nhà Mossard bằng tịnh im liềm, cứ việc giấu giếm Thầy cả, và để nhà mình cho phô đấng ấy ẩn dật. Nhà Người trở nên chốn đạo thánh đỗ nhờ, cũng trở nên đền thờ cho các Cha làm lễ, ban phép bí tích, cùng an ủi giúp đỡ bổn đạo trong cơn hiểm nguy dường ấy.

Đó là gan dạ phi thường, chẳng kém gì bực anh hùng. Đó là kính Chúa yêu người, trổi hạng thường nhơn. Chứa đạo trưởng là việc rất cheo leo, cùng là tội nặng nề trong Quấc Pháp đang thì cấm kín. Mà cha mẹ Người coi chết như chơi, và làm việc lành cực trọng dường ấy như việc bổn phận tầm thường, thì thiệt là can đảm và công trọng ít ai dám ví.

Gia đạo nhơn đức dường ấy, ắt đặng ơn Chúa tuôn xuống dường nào, ai hầu kể xiết. Cho nên Lucianô thấm mùi đạo đức những thuở còn thơ; Người đặng lòng kính Chúa yêu người, và đặng ơn mạnh mẽ vững vàng trong hết mọi việc Người làm cho đến mãn đời.

Trong mọi ơn Chúa ban cho gia đạo Mossard, phải kể ơn Chúa gọi Lucianô vào hàng đạc đức là ơn vô giá. Lucianô theo ơn Chúa gọi, bèn bỏ mọi sự thế gian, mà dưng mình làm tôi Chúa. Người vào trường nhỏ - Petit Seminaire - tại thành Marnay, cho đặng học tiếng Latinh, cùng dọn mình làm thầy cả.

Lucianô ở trường Marnay 6 năm, từ 1866 tới 1872, chuyên việc học hành, cùng lo vun quén nền nhơn cội đức, Tánh nết Người hiền lành vui vẻ. Thầy dạy cùng anh em bạn học, và các kẻ quen biết Người thuở ấy, đều mến yêu cùng giữ lòng thiết nghĩa cùng Người bền chặt lâu dài.

Người đã đặng phước sinh nên con nhà ngoan đạo, như mới nói trước nầy, lại thêm doan gặp một Cha linh hồn rất khôn ngoan nhơn đức. Đ C T lòng lành vô cùng, nhứt là trong việc Chúa gọi vào đàng trọn lành cùng lên hàng đạc đức, thì mọi nơi mọi đời Chúa cũng cho gặp những Cha linh hồn thể ấy. Những đấng ấy thật là người Đ C T: Homo Dei! Một sự tới lui cùng nghe lời phô đấng ấy dạy dỗ, ghe phen cũng đủ mà làm cho ta nên lành, nên thánh.

Lucianô được phước gặp Cha Piquet, là Thầy cả thiệt là đích đáng Thầy cả! Đêm ngày Cha ấy ân cần luyện tập Lucianô, cùng tận tình vun quén cây quí trọng Chúa đã kí thác cho người săn sóc, hầu ngày sau trỗ sinh bông trái tốt lành ngon ngọt trong Hội thánh Đ C T.

Khỏi 6 năm, Lucianô vào trường lớn tại thành Vesoul, học Sách đoán, cứ việc sử kinh, cùng lo bề đức hạnh hơn nữa. Ngày qua tháng lụn, trẻ Lucianô nên người. Thỉnh thoảng việc học hành một ngày một tấn, đàng nhơn đức càng bước càng xa, thì mắt Người cũng xem xa, thấy bên rốt cõi Phương Đông lúa chín đỏ đồng Hội thánh, mà thiếu tay gặt. Người bèn động tình cám cảnh, nghe tiếng phán trong lòng, gọi Người sang Phương ấy, mà cứu muôn vàn linh hồn đang ngồi giữa chốn tối tăm, và dửng dưng trong bóng sự chết.

Tiếng ấy là tiếng kêu công, kêu tế lễ, kêu tử vì đạo! Lòng Lucianô rộng lớn hải hà, như ngày sau trong Thơ Chung thọ quờn Giám Mục, Người mượn lời thánh cả Phaolồ, mà cất tiếng khuyên khắp hết giáo nhơn trong Địa Phận rằng: “0s nostrum palet ad vos, cor nostrum dilatatum est. Non angustiamini in nobis” (2 Cor. VI, 11 et 12) Miệng thầy mở sẵn mà phân trần dạy dỗ anh em. Lòng thầy rộng lớn minh mông, chẳng thiếu chỗ cho anh em nương dựa.

Lucianô vừa nghe tiếng Chúa, tức thì tâu thưa cùng Chúa rằng: “Ecce ego, mitte me” (Isai. 6, 8). Lạy Chúa, có tôi đây, xin Chúa sai tôi đi. Người chí quyết, chẳng những là làm Thầy cả, mà lại thêm bực Tông đồ, thêm triều thiên Giảng đạo, và thời may gặp phước trọng hơn nữa, là thêm nhành lá Tử vì đạo. Vậy sang thu năm 1873, Nguời từ giả trường Vesoul, mà đi kinh thành Paris, vào gõ cữa trường DÒNG SAI, xin nhập học cùng dọn mình đi giảng đạo ngoại quốc.

Lucianô ở trường Paris ba năm; đoạn chịu chức Thầy cả tại đó, năm 1876. Người về làm lễ nhứt tại xứ sở là Dampierre, trong nhà thờ Người đã chịu phép rửa tội, đủ mặt cha mẹ thân bằng cùng bổn đạo quê hương, ai nấy đều vui mừng hớn hở chầu lễ Vinh qui. Người bổn hương muốn tỏ lòng mến yêu thiết nghĩa, thì đã hiệp nhau mà dưng cho Người đủ cuộc đồ làm lễ, các Cha thường đem theo khi đi giảng đạo bên Phương Đông.

Qua tháng sau Người đi thành Marseille, xuống tàu trẩy sang Nam Việt, qua Địa Phận Đàng Trong Phía Tây, là nơi Chúa định cho Người làm việc Tông đồ.

Vậy đều Lucianô mơ ước bấy lâu, thì rày đặng phỉ nguyền toại chí. Song lúc biệt li phân rẽ, sao cho khỏi đau lòng rơi lụy, Cha mẹ họ hàng, anh em bạn hữu, quê hương nhà cữa, từ rày li biệt! Li biệt đang buổi xuân xanh, là tuổi con người ở đời ai cũng trông mong thanh nhàn phước lộc! Li biệt cho đến trọn đời!

Sự đau đớn phân rẽ nầy, ghe kẻ cầm bằng tử vì đạo. Mà hẳn thật, Thầy cả xuất thân đi giảng đạo ngoại quốc, thì là đi chịu tử vì đạo. Nhiều đấng đã đặng phước đổ máu mình, mà xưng đạo thánh Chúa ra trước mặt thiên hạ, ấy thật là Đấng tử vì đạo. Còn các đấng khác, thì chịu tử đạo thiêng liêng: là chịu cực khổ gian nan, thốn thiếu cơ hàn, nguồn cao nước độc, nắng mưa thì tiết đất Nước nầy, cùng nhiều đều khác sát hại mạng sống người Phương Tây giảng đạo bên cõi Đông Dương. Ấy là tử vì đạo hằng ngày, ấy là tế lễ mạng sống mình bằng giây bằng phút!.

Thật sự là như vậy. Mà nhằm là sự ấy làm cho đấng giảng đạo thêm gan dạ vững vàng, cùng vui mừng khoái lạc, thí thân mà làm cho sáng danh Chúa cùng cứu linh hồn thiên hạ.

Về phần Cha Mossard, suy đi xét lại kỉ cang, thì thấy Người có ơn riêng cùng đặng đủ đều, mà làm nên đấng giảng đạo. Trí lòng, thì Người đã sẵn lòng tế lễ, cho đặng làm việc Tông đồ. Xác, thì nói được: Đ C T đã dựng nên xác Người sức lực mạnh mẽ dường ấy, cho đặng chịu cực bên cõi Phương Đông. – Thể diện cao lớn oai nghi, hình vóc tốt tươi phì mỉ; gan dạ sấn sướt vững vàng, mà rất bằng tịnh hiền lành, đằm thắm dè dặt; lòng từ bi quảng đại, kiến thức rộng xa; trí xét phân minh biện bạch; tánh rộng rãi làm lành, lại thêm đãi buôi bặt thiệp. Nói tắt một lời: Người đủ tài năng mà làm được người quyền thế – homme d'action-; Người đủ đều mà nên một đấng từng trải cuộc đời – homme pratique-, bỏ vô việc nào cũng xuôi, ở với ai cũng đặng.

Người như vậy, là người tài lực, Chúa đã dựng nên mà trị đời. Chẳng chầy thì kíp, muốn hay là không, việc Đ C T đã định thì sẽ ứng nghiệm như ý Chúa: người Đ C T đã dựng nên cho đặng cai trị, thì Đ C T sẽ trao qui mô Địa Phận cho Người.

Cha Mossard tới Saigon ngày 30 Septembre năm 1876, không ngờ tới ơn trọng Chúa dành để cho Người ngày sau chút nào. Giả như ai ra rước Người, mà nói 20 năm nữa Người sẽ làm Giám Mục Saigon, thì ắt là Người lắc đầu và mĩm cười, chớ có đem lòng tin là họa.

Cha Lucianô vừa bước chơn vào vườn nho, Chúa đã định cho Người làm việc Chúa, tức thì Người liền tra tay gầy việc, cùng dưng trót mình mà làm cho sáng danh Chúa.- Thuở ấy Đức Cha Isidorô Colombert cầm lái thuyền Hội thánh Nam Kỳ, vững vàng vinh hiển lắm. Đức Cha thấy bổn đạo Thiên Trước- Indiens – qua Saigon một ngày một nhiều, mà không có Cha nào thuộc tiếng Thiên Trước, cho đặng giúp những kẻ ấy, thì Đức Cha hằng lo lắng, chẳng khi an lòng. May ý Chúa phân định, sẵn cha Mossard mới qua, thì Đức Cha sai Người đi nước Thiên Trước, tại kinh thành Pondichéry, cho đặng học tiếng cùng xem xét phong tục thói phép người Thiên Trước, tại đất Nước chúng nó; hầu sau để lo việc rỗi linh hồn chúng nó trong Địa Phận Saigon.

Cha Lucianô ở Pondichéry bảy tám tháng, thì đã hiểu phong tục cùng thông thuộc tiếng Nước ấy. Đoạn Người trở về Nam Kỳ, ở với Cha Le Mée, tại Saigon, cho đặng lo cho bổn đạo Thiên Trước. Đầu hết, Người mở hội cấm phòng, cho bổn đạo đặng ăn năn trở lại cùng nên người sốt sắng. Bổn đạo Indiens vui mừng phở lỡ, nam nữ lão ấu đua nhau đi nghe giảng tiếng Nước mình.

Ai nấy hưng sùng toại chí, vì rày có kẻ lo cho mình dễ bề chịu ơn Chúa ban trong Hội Thánh, cùng dễ nhờ phần rỗi linh hồn.

Đoạn Đức Cha sai Người xuống Cái Mơng, ở với Cha Bề trên Quí, cho đặng học tiếng Annam. Người học mau và nói rõ lắm. Các Cha còn nhớ mấy Conferences Người giảng trong buổi cấm phòng. Chẳng nói chi về bài giảng hay, một có ý nói về cách Người đọc và nói tiếng Annam sửa lắm; lại có duyên nói làm cho động lòng cũng hay, làm cho vui cũng giỏi. Cung giọng chính đính rõ ràng, lại thêm sách hoạch sắc sảo. Thiệt là miệng có duyên, có tài mà học nhiều thứ tiếng.

Khi bổn đạo nghe tin tức Cha biệt trần, thì ai ai đều thương tiếc không cùng, và ngợi khen không xiết. Kẻ khen rằng: Khôn ngoan lịch lãm, người tặng là: oai khí phương phi; kẻ khen là: nhơn từ quảng đại, người tặng rằng: Đại nhơn trong đời ít có. - Tôi nghe một người khen rằng: Đức Cha nói tiếng Annam rõ ràng và có duyên lắm. Miệng Đức Cha giống miệng Đức Chúa Cha! Tôi mới hỏi người ấy, thấy miệng Đức Chúa Cha bao giờ, mà sánh như vậy.- Người ấy trả lời rằng: Thấy trong hình.

Đầu năm 1878, khi các Cha tựu về cấm phòng, thì Đức Cha Isiđôrô đổi Người về Nhà trường Latinh Saigon, dạy học trò cùng giúp việc trọng nhứt trong Hội thánh, là tập tành con trẻ dọn mình làm thầy cả bổn quốc. Cách Người dạy rõ ràng dễ hiểu. Tánh hạnh nhơn từ hiền hậu, trên các Cha yêu vì, dưới học trò lớn nhỏ đều cảm tình mến đức.

Thuở ấy nhầm lúc Người sức lực mạnh mẽ lắm, không biết khó nhọc mệt mỏi, không lo dưỡng sức, không sợ lao tâm tiêu tứ. Tích nầy tỏ Người can đảm dũng lực là dường nào: Ở Nhà trường, phần thì dạy học trò, phần thì Người lo học thêm tiếng Annam; nhiều bữa trời nóng nực quá lẽ, cho nên 5 giờ chiều Người đi cùng một hai cha, qua Vườn thú mà dạo chơi hóng mát. Người ưa đi coi cọp, nuôi trong chuồng sắt, Năm ấy nuôi hai con cọp lớn lắm, mạnh mẽ dữ tợn phi thường. Nó chờm lên cao để hai chơn trên song sắt, dửng gáy lên, và kêu la gầm hét vang trời, ai nghe thấy cũng ghê. Người bèn xắn tay áo, và nói cùng Cha đi với Người rằng: Tôi mà được vô với nó, nội một khắt tôi bóp cổ chết tươi!

Ai hay sức lực dường ấy, mà chẳng khỏi bao lâu Người bị đau phổi, ho, suyển, đến đỗi dạy học trò chẳng đặng nữa, nên phải đi Hong Kong dưỡng bịnh, là năm 1880. Người đi Hong Kong về, cũng chưa thiệt mạnh, cho nên Bề trên dạy đi nghỉ thêm bên Thiên Trước. Vốn bịnh Người kị phong thổ ướt át nặng nề. Mà phong thổ Nước Thiên Trước thì khô ráo, cùng thanh khí hơn trong Nam Kỳ, cho nên trông cậy Người nghỉ bên ấy, thì mau thuyên bịnh.

Mà thiệt, Người dưỡng bịnh ít tháng, bèn trở về mạnh khỏe, thì Đức Cha dạy Người coi họ Tân Định, nhằm năm 1881. Qua năm sau Người đổi vô Chợ Đũi, là nơi phải lo cất nhà thờ, trường học và nhà cha ở. Người về Chợ Đũi lại dễ lo cho bổn đạo Indiens, vì chúng nó xúm nhau ở phía đó gần hết.

Thuở ấy họ Chợ Đũi còn bẩn chật khó khăn, và chưa đặng đông đảo như bây giờ. Nhiều người trong bổn đạo làm công từ bữa, đủ ăn từ ngày. Song Cha Lucianô, chẳng những là chẳng sờn lòng, mà lại khôn ngoan khéo léo, lấy lời lành khuyên giáo đoàn chiên; lần hồi Người quyên tiền, lập đặng trường học, cất nhà ở đơn sơ mà rộng rãi khoản khoát, đoạn lo xây nền nhà thờ cho Chúa ngự.

Bổn đạo thấy Cha sở tận tình lo lắng cho trong họ, thì ai nấy đều sẵn lòng tư trợ. Kẻ giàu người khó, kẻ công người của, cả và họ đồng tâm hiệp lực, mà lo cho huờn tất mọi việc như Người sở nguyện.

Mọi sự cũng gần sẵn cho đặng sáng tạo đền thờ, hay đâu bịnh Người trở lại và một ngày một tăng. Có bữa bịnh làm xung, Người ngồi cúi đầu trên ghế mà chịu như vậy cho tới hai ba ngày, thở chẳng ra hơi, có hồi tưởng chết. Mà vừa tỉnh lại, thì người cứ công việc như thường: ngồi tòa, giảng dạy, coi làm nhà cùng mọi việc khác, cũng như chẳng có bịnh hoạn khi nào. Người cũng không năn nỉ thở than, một vui lòng làm các việc bổn phận, cùng phú mạng sống mình trong tay Chúa, chẳng biết lo sợ chút nào.

May có đấng Bề trên xem sóc, và biết lo cho Người. Vậy năm 1884, Đức Cha Isiđôrô, dạy Người về Tây dưỡng bịnh. Vốn Người thiệt là mạnh mẽ lắm, mà hay đau là tại phong thổ xứ nầy, cho nên Người về quê cảnh Langsa, khí thanh mát mẻ, phong thổ tốt lành, thì nội trong một năm Người mạnh lại như trước.

Người bèn trở qua Nam Kỳ, cứ việc đã gầy dựng, cùng làm huờn tất nhà thờ Chợ Đũi, là năm 1886, Bổn đạo vui mừng hớn hở ai kể cho cùng. Mọi việc hoàn thành trọn hảo; rày họ Chợ Đũi đủ no phần linh hồn như các họ: nhà thờ, nhà trường, nhà cha sở; mọi việc an bài, cũng nhờ Người khéo lo khéo tính.

Qua Janvier 1887, Cha Luciano đổi ra Saigon, cứ lãnh việc coi sóc bổn đạo Indiens, lại thêm làm Bề trên Nhà trường Taberd cho tới Janvier 1890. Nội ba năm Người làm hết sức, cho học trò Taberd đặng tấn phát bề đạo đức cùug việc văn chương chữ nghĩa. Người đã cất hai nhà đồ sộ nguy nga, còn vững vàng chắc chắn cho đến bây giờ: nhà giữa ba từng, nhà bên tả hai từng.

Nội Lục Châu, ai ai cũng nghe tiếng Trường Taberd. Luận về nhà cữa, thì năm ấy trường Taberd cũng kể đặng vào số hạng nhứt. - Bằng về học trò, thì gần đủ các sắc: Langsa, Annam, Lai (Tây), Thanh Nhơn, Thiên Trước, Cao mên. Phần đông hơn là học trò trong: ăn, ngủ và ở luôn trong trường. Xét về việc học hành, thì từ khi lập Trường Taberd là năm 1874 đến rày, biết là bao nhiêu đấng tài trí anh hùng, văn minh lịch lãm, bỡi trường ấy mà ra. Đủ bực quan quyền chức sắc, đủ hàng văn võ công danh, các sở các nghề, đâu đâu cũng gặp học trò cựu Taberd.

Học trò Taberd một ngày một đông, Nhà Chung không đủ Thầy cả mà cứ việc ấy, nên cuối năm 1889 Đức Cha Colombert giao Trường ấy cho Thầy Dòng “Frères des Ecoles Chrétiennes”; đang hồi nhà cữa đồ sộ yên bài, học trò đông đảo tấn phát, bề văn chương, bề đạo hạnh thới thạnh mọi đàng.

Đầu năm 1890, Cha Lucianô đổi vô Chợ Lớn. Bổn đạo họ nầy, nửa Annam nửa Thanh Nhơn, còn chung một họ và một nhà thờ; người Langsa cũng nhiều. Lại có Nhà Phước Trắng nuôi con nít mồ côi, dạy học trò Langsa và Annam, coi nhà thương cùng lo việc Hài đồng, rửa tội cho con kẻ ngoại; cho nên công việc cũng nhiều.

Cuối năm 1891, Đức Cha đổi Người về Chợ Quán, là họ lớn cũng có danh tiếng xưa nay trong Hội thánh Nam Kỳ; lại có Nhà Phước Annam đã lập tại đó đời Cha Đoan, năm 1861.

Người tận tâm tận lực lo cho Nhà Phước. Tiên vàn, Người lo dạy dỗ, cùng dẫn đàng nhơn đức cho Nhà Phước nên người trọn lành thật, hầu làm cho sáng danh Chúa, cùng giúp việc Hội Thánh cho trọn niềm. Mà Người cũng làm nhiều việc khác, Nhà Phước đặng nhờ cho đến rày, và sẽ nhớ lâu dài sau nữa. Người thối thúc việc học hành, ân cần việc đờn hát, cho các dì làu thông đạo lý văn chương, cùng giỏi nghề đờn hát, hầu giúp việc Chúa trong các họ cho rỡ ràng tấn ích. Đoạn Người bày cuộc thêu đồ lễ, Nhà Phước còn làm cho tới bây giờ, càng ngày càng thêm khéo léo tốt lành lắm.

Đang khi Người cần mẫn các việc trước nầy, thì Người cũng lo giùm việc nhà cữa: Người đã cất nhà thờ Nhà Phước rất vển vang gói gắm, vẽ vời rực rỡ, lót gạch bông cùng sắm ghế Thonet trong cả và nhà thờ. Thật là một dấu tích châu báu, Cha Lucianô để đời trong Nhà Phước Chợ Quán. Đoạn Người lại cất nhà thương trong Nhà Phước, hãy còn đó bây giờ.

Người lo cho Nhà Phước, mà không bỏ bổn đạo, cũng không để cho trong họ phải thiệt thòi khuy khuyết chút nào, lại ân cần coi sóc đoàn chiên, xứng bực đấng chăn chiên lành. Nhà thờ họ Chợ Quán bây giờ, là việc Cha Errard đã tạo lập. Cha làm chưa rồi, kế thọ bịnh mà qua đời. Cha Lucianô cứ việc cùng làm huờn tất, lại lo vẽ vời rực rỡ, cùng sắm chuông, chặng đàng thánh giá và các cuộc trau tria trần thiết. Đoạn thỉnh thoảng góp gió làm bão: lần hồi Người cất nhà ở, là nhà Cha sở Chợ Quán bây giờ.

Ấy là những việc nặng nề khó nhọc, thường sinh lao tổn tâm thần, nhứt là thuở ấy Người không có cha phó ở giúp như bây giờ. Ước chừng chẳng có sức lực như Người, ắt là khó nỗi gánh gồng cho đủ đỗi. Thật thì Người cũng mệt lắm, vì còn gốc bịnh cũ; lại phong thổ xứ nầy nóng nảy độc địa, sức mạnh thể nào cũng khó nỗi cầm lâu.

Những mảng lo trong lo ngoài, mà quên ngày lụn tháng qua. Mới đó mà Cha Lucianô ra vào đất Chợ Quán đã sáu năm: trong thì Nhà Phước, ngoài thì Họ, lớn bé trẻ già, ai ai đều thương mến nói không cùng! Đang khi chủ chăn và đoàn chiên tưởng còn lâu năm sum hiệp, bỗng đâu ý Chúa nhiệm mầu, đem Cha Lucianô lần hồi lên phẩm trọng hơn trong Hội Thánh.

Đầu năm 1898, Đức Cha Dépierre đổi Người ra Saigon, làm Cha sở Nhà thờ chánh - curé de la Cathédrale -, thường kêu là Nhà thờ Đ C Bà. Họ Saigon là họ lớn hơn hết, mà cũng là họ khó hơn hết trong Địa Phận. Vốn là họ Langsa: bổn đạo Langsa cùng trên vài ba ngàn, Mà người Annam, Thanh Nhơn và Thiên Trước ở kinh thành Saigon, thì cũng thuộc về họ Saigon; nhứt là bổn đạo Annam ở tại Saigon cũng đông lắm.

Vậy đang khi Người tận tâm tận lực, đêm ngày lo lắng cho trọn niềm phận sự làm Cha sở Saigon, chưa đầy một năm; thì tiếng Đ C T, tiếng Bề trên và tiếng các Cha chọn Người lên kế vị Tông Đồ, làm Giám Mục, nối quờn Đức Cha Gioang Maria Dépierre đã qua đời ngày 17 Octobre năm 1898.

Bổn đạo nghe tin ấy, thì hưng tâm mừng rỡ ai kể cho cùng, đã hơn 20 năm Cha Lucianô ra vào mấy họ Châu Thành: Saigon, Taberd, Trường Latinh, Tân Định, Chợ Đũi, Chợ Lớn, Chợ Quán; kẻ lớn người nhỏ, ai ai cũng đều biết Người là một Đấng đại tài, xứng quờn Giám Mục. Lại ai ai cũng đều thương mến hết lòng, vì Người nhơn từ quảng đại, hằng mở rộng tay mà làm lành cho đoàn chiên Chúa chẳng khi đừng. .

Còn người Langsa, từ quan quyền tới kẻ làm ăn buôn bán, đều kính yêu vì nể. Vì mấy năm Cha Lucianô làm Bề trên Trường Taberd, nhứt là nội năm Người làm Cha sở Saigon, thì ai cũng biết Người là một Đấng oai nghi xứng đáng, đằm thắm khôn ngoan; việc ra vào với quan quyền chức sắc cùng bổn đạo Langsa, đều bặt thiệp thiết tình. Lại Người ái mộ giúp người quê hương. Số là năm Người làm Cha sở Saigon, có một tàu trận Langsa ghé tại cù lao Côn Nôn, bị dịch khí dữ dằn lắm, quan quân và bạn tàu chết hết nhiều. Người vừa nghe tin ấy, tức thì chạy đến Giám Mục, mà xin phép đi Côn Nôn, cho đặng an ủi cùng giúp đỡ linh hồn những kẻ ấy.

Vậy ngày mồng 1 Mai năm 1899, Đức Cha Cardot, là Giám Mục Địa Phận Birmanie Méridionale, cũng là xứ sở liêu hữu với Cha Lucianô, đã truyền chức cho Người làm Giám Mục Mêđêa, cùng thay mặt Đức Giáo Tông, mà cai trị Địa Phận Đàng Trong Phía Tây; có Đức Cha Van Camelbeke là Giám Mục Qui Nhơn, và Đức Cha Grosgeorge là Giám Mục Nam Vang thị chứng: Đức Cha Caspar là Giám Mục Địa Phận Huế chầu lễ. Các Cha trong Địa Phận tựu về gần đủ mặt, nhiều Cha trong mấy Địa Phận lân cận và một quê cùng Đức Cha Lucianô cũng đến chầu lễ, còn bổn đạo Saigon cùng các họ xung quanh thì vô số; thiệt là một lễ vui mừng và trọng thể phi thường, ít khi gặp trong Sử Hội thánh Nam Kỳ.

---------------------

PHẦN THỨ HAI: HẠNH GIÁM MỤC.

---------------------

Đầu năm 1899, Đức Cha Lucianô vừa đặng sắc Tòa Thánh tặng phong Người lên nối quờn Đức Cha Dépierre, thì Người về dinh Giám Mục, cầm mối giềng Địa Phận Nam Kỳ. Người tạ thế đầu năm nay. -1920, -  cho nên trào Người cai trị tính đặng 21 năm chẳn.

Địa Phận nào đặng Giám Mục cai trị lâu năm, thì Địa Phận ấy thật là lớn phước; nhứt là khi đặng những đấng khôn ngoan tài đức, cầm lái thuyền Hội Thánh một tay mạnh mẽ vững vàng.

Từ năm 1873 tới năm 1920, Hội Thánh Nam Kỳ được phước gặp hai trào Giám Mục, tổng cọng đặng 42 năm: Đức Cha Colombert 21 năm, Đức Cha Mossard cũng 21 năm. Đã hay Đức Cha Colombert làm Giám Mục hơn 22 năm; song Người đã làm Phó Đức Cha Miche hơn một năm, và trong năm ấy Người đi dưỡng bịnh bên Hong Kong và Nhựt Bổn, cho nên cũng tính chẳn cho Người cai trị 21 năm.

Trào Đức Cha Colombert, gọi đặng là trào sửa sang tạo lập; trào Đức Cha Mossard, là trào huờn thành trọn hảo. Cuối năm 1873, Đức Cha Colombert, lên gánh qui mô, thì Hội Thánh Nam Kỳ đang còn xơ vơ xửng vững, mới khỏi cơn bắt đạo chừng 10 năm. Cha thầy chưa đặng bao nhiêu, bổn đạo tan tác đời cấm kín, mới qui về lập họ; nhà thờ cất đỡ bằng lá, trường học chưa mấy cái; nhà các Cha, phần nhiều hơn là lều trại su sơ ướt át, sinh ốm đau bịnh hoạn.

Trọn 21 năm, Đức Cha Colombert, tận tâm tận lực, lo lắng sửa sang tạo lập một cách lực lượng may mắn kể không xiết. Thuở ấy còn nhờ bổng lộc nhà nước Langsa, mới chiếm cứ Nam Kỳ; nhứt là nhờ các Cha và bổn đạo hết lòng rộng rãi vùa giúp, cho nên khi Đức cha Colombert qua đời, thì trong cả và Địa Phận đã gần đủ nhà thờ, trường học cùng nhà các Cha. - Còn việc giữ đạo, thì nơi nơi cũng phấn chấn rở ràng.

Tới trào Đức Cha Mossard lãnh mối giềng Địa Phận, thì Người cứ trớn thuyền mà đưa thẳng tới, cho một ngày một huờn thành trọn hảo.- Đây nói luôn về việc sáng tạo đền thờ. Trào Đức Cha Lucianô, thì trong Địa Phận cũng tạo lập nhiều nhà thờ mới; mà ước chừng được chín mười cái, thiệt là xứng đáng tốt lành; và một hai cái lớn, tốt, còn đang làm. Xưa nay ai ai cũng biết Đức Cha có tài cất nhà; mà sự khó hơn: Là Người có tài lo cho có tiền, cho đặng cất nhà.

Có hai nhà thờ, Đức Cha đã có công khó nhiều lắm: là nhà thờ Chợ Đũi bây giờ với nhà thờ Chí Hoà. Nói được hai nhà thờ ấy và nhà dưỡng lão trong chí Hoà, là việc của Đức Cha đã làm. Thật thì, trước là Đức Cha đã nhờ lòng rộng rãi ông Lê Phát Đạt cùng gia quyến người, sau cũng nhờ một hai Cha tài cán, giúp Đức Cha mà coi công việc; mà từ khỉ sự cho đến huờn thành, Đức Cha khó nhọc ra vào hai họ đã không biết là bao nhiêu.

Chép hạnh Đức Cha, là chép sử Địa Phận; vì các đầu giây mối nhợ đều về một tay Đức Cha, Vậy nay xem qua trong cả và Địa Phận, nhứt là nội Saigon cùng mấy họ xung quanh, tính hơn vài chục nhà thờ, thiệt là nguy nga rực rỡ. Trong số ấy, có năm bảy cái, gọi đặng là monuments, là tích để đời trong Hội Thánh Nam Kỳ; như nhà thờ Đ C Bà, Saigon, nhà thờ nhà Phước Trắng, nhà thờ Chợ Đũi, Chợ Quán, Lái Thiêu, Mỹ Tho, Mặc Bắc

Như mới nói khi nãy, các nhà thờ đã sáng tạo trong Địa Phận, là nhờ của Nhà Chung phụ giúp, nhứt là nhờ của và công bổn đạo, của và công các Cha; vì nhiều Cha thí công mà làm, hoặc coi làm, cho bớt tốn hao. Hoặc nhờ Đức Cha xin một hai nhà phú hộ bao bọc một mình, như hai ông bà Lê phát Đạt, như vợ chồng thầy Lê phát An, mới thi ân tạo lập nhà thờ Hanh Thông Tây.

Phô kẻ ấy: từ Đấng Bề trên trong Hội Thánh cho đến người bổn đạo thường, kẻ công người của, mà tạo lập đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự dưới thế gian nầy; thì đến ngày ban thưởng, ắt Chúa sẽ rước phô kẻ ấy về đền thờ Chúa cao ngự trên trời, mà ngự trị cùng Chúa đời đời chẳng cùng.

Trước nầy cũng đã nhắc lại một đều: là từ khi hết cơn bắt đạo cho đến năm Đức Cha Colombert lên quờn, thì trong Địa Phận không mấy Cha mà có nhà cữa cho dễ ở. Bỡi vậy tính phỏng, mà lấy mực trung - la moyenne - , thì các Cha Tây đời ấy sống trong Nam Kỳ chừng 7 năm. Mãn trào Đức Cha Colombert, thì tính trội đặng 15 năm. Bỡi đâu mà thiệt hại dường ấy? - Trước là tại phong thổ khí địa xứ nầy; sau cũng tại nhà ở su sơ ướt át, ăn uống cực khổ, cho nên sống lâu chẳng đặng. Bỡi đó cho nên, trong ba bốn mươi năm trước nầy, Bề trên trong Địa Phận hằng lo việc ấy hết lòng, hầu các Đấng giảng đạo đặng sống lâu sức khỏe mà làm việc Chúa. Đức Cha Lucianô đã noi gương Tiền hiền trong việc ấy. Rày, nhà các Cha thanh khoảng dễ ở gần hết; lại nhiều nhà, thiệt là mát mẻ khỏe khoắn nữa.

Dầu vậy mặc lòng, các Cha Tây cũng còn năng đau, cho nên khi thì phải đi Hong Kong, khi thì phải về Tây mà dưỡng bịnh, là tại thì tiết phong thổ Nam Kỳ. Vì vậy Đức Cha Lucianô đã làm hết sức, tìm phương cho đỡ bớt điều bất tiện ấy; hầu các Cha có chỗ nghỉ ngơi dưỡng sức, cho đặng làm việc Chúa bền bĩ lâu dài.

Đầu hết, Đức Cha đã làm nhà dưỡng bịnh – Sanatorium - tại Vũng Tàu, là nơi khí thanh gió tốt, tắm biển cùng dạo chơi hóng mát nhiều nơi phong cảnh xinh đẹp lắm. Song đặng bề nầy, lại mất bề kia: là phong thổ xứ Vũng Tàu hay sinh rét, và thì tiết cũng như miệt trong nầy, lại mùa nắng, hồi bật gió, có khi Vũng Tàu nóng hơn trong nầy, vì là đất cát và đồng khô cỏ cháy,

Bỡi vậy Đức Cha cũng chưa an lòng. Cho nên qua năm Đức Cha Qui Nhơn giao sở Phan Thiết sáp vào Địa Phận Saigon, thì Đức Cha Lucianô ra Phan Thiết, thấy địa cảnh phải thế, nhà thờ ở một bên bãi biển, đêm ngày gió thổi luôn luôn; thì Đức Cha nhứt định lập nhà dưỡng bịnh cho các Cha tại Phan Thiết. Người bèn đem Cha Masseron về đó, cất nhà từng cao lớn rộng rãi lắm, phòng bè mát mẻ khoảng khoát, cùng sắm đủ đều cho kẻ yếu đuối mệt nhọc đặng nghỉ ngơi bổ sức; nói tắt một lời, thiệt là phải cách và tốt mọi bề.

Song cũng chưa phải là phỉ nguyền. Dầu gió tứ mùa thổi luôn mát mẽ; song phong thổ cũng còn phong thổ Annam, sánh với địa cảnh Langsa còn khác xa vô ngằn.

Sau hết, Đức Cha thiệt là bền chí, khó nhọc thể nào cũng chẳng nề. Lần hồi Người rán ra Dalat, mà dọ coi có quả như lời thiên hạ đồn thổi chăng. Khi đã rõ phong thổ Dalat chẳng kém gì bên nước Langsa, thì Người nhứt định cất nhà dưỡng bịnh tại Dalat. Đây càng ngày càng thấy Đức Cha có tài là thế nào. Việc cất nhà tại Dalat, mắt hơn trong Saigon bằng hai, bằng ba. Đức Cha tốn của nhà chung chừng một phần ba, còn hai phần, thì Người đã nhờ nơi kẻ thiết nghĩa cùng Người, là Cha Couvreur, giữ việc Hội Giảng tại Singapour.

Đàng ra Dalat, bây giờ cũng còn nhọc lắm. Mà Đức Cha đã chịu khó đi nhiều lần, và ở nhà quán, cho đặng săn sóc việc cất nhà. Nhà ấy cất rồi chừng một năm rưỡi nay: nhiều cha đi ra nghỉ tại Dalat đều biết, không cần chỉ vẽ ra đây. Nói tắt một lời: Đức Cha khôn khéo tài ngõ lạ lùng, nhà cao lớn rộng rãi, tốt, tiện, khỏe... cái gì cũng đủ. Lại thêm một phòng dài và rộng lắm, làm nhà thờ, có để Mình Thánh Chúa. Nay cha Sidot làm cha sở Dalat.

Chúa nhựt Lễ cả bổn đạo Langsa, Annam đông đảo; giảng tiếng Langsa, Annam; có các Bà Nhà Phước Trắng lập trường học, lo đờn hát... mọi việc như trong Saigon.

Từ Saigon tới Dalat, đi xe lửa và xe hơi, hết thảy là 442 kilomètres. Xe lửa chạy khỏi Phang Rang chừng 40 kilomètres, thì sang xe hơi đi vòng vo lên núi 80 kilomètres nữa, mới tới Dalat.

Dalat là một chỗ đất bằng (plateau) lớn lắm, trên chót núi Lang Bian. Nói đất bằng: mà gò mổng tứ tung (mamelons) chỗ thấp thì cỏ mọc xanh tươi mát mắt, nơi cao thì muôn vàn cây thông (pins) giăng giăng tứ phía, nhành ngọn dum da, gió rào rào im mát: thiệt là phong cảnh xinh đẹp nói không cùng.

Đất Dalat cao 1500 thước tây trên mặt biển. Khí trời tứ mùa mát mẽ, Mùa lạnh (Décembre, Janvier, Février,) mực trung ống thủy (thermomètre), ban đêm xuống lối 7 tới 10°; ban ngày lối 15° tới 20°. (Đức cha đã thấy một lần xuống tới 0) - Mùa nóng (Avril, Mai, Juin), ban đêm xê xích lối 15 - 18°; ban ngày lối 22° - 25°.

Cả năm, dầu nóng thể nào cũng không quá 27° (Trong ta tiết tháng Avril, Mai, có bữa nóng nực tới 35° - 38°).

Tội nghiệp Đức cha! Người rán tìm cho được chỗ thanh nhàn, như lòng Người sở nguyện, mà để lại cho các Cha. Nguyện cho Người lên chốn thanh nhàn tự tại vô cùng!

Trong mỗi họ có nhà thờ, nhà cha, rồi tới trường học. Việc giáo huấn, là việc xưa nay Hội Thánh mọi nơi mọi đời hằng ân cần lo lắng hết lòng. Thật thì Hội Thánh lo việc ấy, chẳng phải, như thế gian, nhứt là đời bây giờ, cầu danh lợi làm hơn, coi chức quờn làm trước, còn tánh hạnh phong hóa, đức nhơn đạo vị thì chẳng lo chi tới. Đã vậy, rồi lại có hơi trách Hội Thánh không lo văn chương cho đủ.

Đức Cha Lucianô rõ biết bấy nhiêu đều ấy, cho nên Người làm một sách nhỏ, đề hiểu là: “Mémoire pour les Ecoles de la Mission”, và ít Thơ riêng, gởi cho Nhà Nước, mà phân giải về các trường trong Địa Phận. Người nói: Chữ nghĩa, mà không đức hạnh; thông minh, mà không phong hóa, thí sinh thiệt hại trong Nước Nhà gia đạo, - Đoạn Người cũng nói: Trường có đạo ân cần việc đức hạnh trước hết, mà không bỏ việc văn chương chữ nghĩa chút nào.

Các đều sau nầy làm chứng: Trước đi tóm lại ít đều về Trường Taberd, đây nói thêm đôi đều thì đủ hiểu. Mấy lần phát phần thưởng trong trường Taberd, thiên hạ vào xem chen chơn không lọt, đủ mặt bá quan văn võ, đủ người chức sắc văn minh, thì mỗi lần mỗi trần thiết và rao bài vở công việc học trò, thì ai ai cũng thấy việc học hành dường sức thể nào. Mỗi khi học trò Taberd đi thi, thì Nhựt Trình Saigon cũng đều rao báo, cho thiên hạ đặng hay thi cử thể nào; những trò thi đậu, thì cũng bia danh bảng nhạn.

Lại cách hai năm nay, Đức Cha Lucianô đã mua nhà Musées, liền đất với Trường Taberd, mà mở Trường Taberd cho rộng hơn, vì không đủ chỗ cho học trò vào thêm. Năm nay số học trò Taberd là: 1005 trò, số ấy cao rao cả tiếng, việc văn chương dạy   tại Taberd giỏi dở thể nào. Mà còn một tiếng rõ ràng minh bạch hơn nữa, là tiếng cha mẹ ngoại, thà chịu tổn hao cho con đi học Taberd; thì chẳng qua là vì cha mẹ biết con mình học đó, thì chẳng những là nền văn minh lịch lãm, mà lại thêm đức hạnh thìn từ, là đều báu trọng hơn nữa.

Trường Thầy Dòng mở mang nhiều chỗ, và càng ngày càng thạnh. Nội 21 năm Đức Cha Lucianô cai trị Hội thánh Nam Kỳ, Thầy Dòng đã lập thêm trường Nam Vang, Sóc Trăng và Mỹ Tho. Tới đâu thì Thầy Dòng cũng tận tâm tận lực giáo huấn con nhà Nam Việt, tới đâu trường Thầy Dòng cũng tấn phát rỡ ràng.

Đây không có ý nói về Trường Latinh, vì là chỗ tu trì. Song việc giáo huấn trong Nhà ấy cao cả vô song; còn văn chương chữ nghĩa cũng không thua gì nơi khác. Ai đi Nhà trường Latinh, thì cũng quyết lòng làm thầy cả. Song kẻ bền đỗ cho đến cùng, thì ít: ấy là đều tự nhiên, không lẽ khỏi đặng. Và trong những kẻ về thế gian, thì thiếu chi người trí huệ văn minh, nhiều kẻ cũng tột đỉnh công danh. Chẳng qua là vì Nhà ấy, chẳng những là dạy đàng nhơn đức trọn lành, mà cũng dạy văn chương chữ nghĩa không kém gì nơi khác.

Sau nữa, phải nói đôi lời về các trường nam nữ trong họ. Việc nầy là việc cần kíp lắm, các Đấng Bề trên trong Địa Phận, tự cổ kim hằng lo lắng hết sức hết lòng. Vì nhờ đó mà con nhà có đạo mới biết Kinh Phần, và học hành đạo lý; nhờ đó mới lo được cho con nít xưng tội chịu lễ, cùng uốn lòng nó nên người đạo đức những thuở còn măng; hầu sau, khi ra giữa đời, nó biết giữ mình tinh tấn cùng giữ đạo trọn niềm.

Đức Cha Lucianô hằng thôi thúc việc dạy dỗ con nhà có đạo trong các trường họ; lại thúc giục kẻ làm thầy phải ra sức học hành cho giỏi, hầu giúp các trường họ cho đặng càng ngày càng thạnh. Cách chừng bảy tám năm nay, Nhà Nước buộc phải có bằng cấp mới có phép dạy học. Thì Đức Cha vội vàng khai trường Normale (là trường dạy những người để làm thầy giáo) tại Biên Hoà, và dạy mỗi Nhà Phước phải cho hai ba người đi học đó, cho đặng đi thi cùng lãnh bằng cấp theo luật Nhà Nước. Từ ấy đến rày, mỗi Nhà Phước mỗi cần mẫn việc học hành hết sức, và mỗi Nhà mỗi có nhiều người thi đậu, mà cứ việc dạy các trường trong Địa Phận cho tới bây giờ, cùng ra sức cho một ngày một tấn tới hơn nữa.

Sau hết, mới đây Nhà Nước buộc phải có bằng cấp dạy tiếng Langsa. Đức Cha Lucianô cũng lo lập tức. Người bàn tính lâu ngày, lựa chỗ mà lập trường Normale cho tiện, hầu mỗi Nhà Phước cho năm bảy người đến đó, cho đặng học tiếng Langsa. Ngày 26 Décembre năm rồi đây, Đức Cha đi Vũng Tàu, có ý xin vợ chồng thầy Lê phát An giúp Đức Cha một việc lớn, là mua giùm nhà của Nhà Nước để cho vua Thành Thái ở mấy năm trước tại Vũng Tàu, cho đặng lập trường Normale tại đó. Hai ông bà sẵn lòng rộng rãi làm lành, mà nhứt là vì lòng thương Đức Cha lắm, cho nên chịu mua nhà ấy mà dưng cho Nhà Chung, để làm trường Normale. Đức Cha lo việc ấy vừa rồi, kế xuống tàu về Tây và bỏ mình bên ấy. Cám thương Đức Cha lo cho đoàn chiên cho đến ngày sau hết!

Trong sự tích Đức Cha Lucianô, còn một đều rất đáng khen và đáng nhớ, là cách người ở với Quan quyền cùng Nhà Nước Langsa, kể lượt qua ít đều, thì đủ hiểu Đức Cha khôn ngoan lực lượng là dường nào.

Năm Đức Cha còn làm Cha sở Saigon, thì Nhà Nước lập Hội để lo việc dựng hình Đức Cha d'Adran (Đức Thầy Vêrô), thì Hội đã chọn Người làm Thơ ký. Cho nên người gặp nhiều dịp tới lui quen biết các quan cùng nhiều người Langsa. - Cùng một năm ấy, người lập Hội Thánh Thể Lầu (Euvre des Tabernacles) để nhóm các bà Langsa - vợ quan cùng người nhơn đức tử tế, – cho đặng may đồ lễ, cùng quyên tiền mà mua đồ lễ bên Tây, để giúp các họ nghèo nàn thiếu thốn.

Khi Người lên quờn Giám Mục, thì Người đã tận tâm tận lực lo việc dựng hình Đức Cha d'Adran và đã làm lễ ấy trọng thể hết sức, đời Quan Toàn Quyền Doumer. Ngày làm lễ dựng hình, có quan Toàn Quyền cùng bá quan văn võ, và thiên hạ đến xem vô số. Đức Cha Lucianô đã làm bài giảng, mà kể công trận Đức Thầy Vêrô phò Vua vực Nước, và nhắc lại chính việc Người Langsa bên cõi Đông Dương, là giáo hóa cùng giúp Nước Annam thuần thuộc sung mãn.

Từ ấy đến rày, kẻ qua người lại trước Nhà thờ Saigon, thấy hình Đức Cha d'Adran, thì hiểu đặng rằng: Các Giám Mục cùng các cha Langsa qua giảng đạo bên Nước Annam, thì có ý nầy: Trước là đem tin lành cho người ngoại giáo, biết đàng thờ phượng Đ C T, cho đặng rỗi linh hồn; sau là hết lòng giúp đời vực Nước tùy thì tùy sức: giúp nước Langsa là quê vức mình, giúp Nước Annam là đất mình bảo hộ. Gương Đức Thầy Vêrô cùng các Giám Mục cả và Nước Annam, xưa nay đều làm chứng đều ấy tỏ tường.

Song, thương ôi! Đức Cha Lucianô phải đau lòng xót dạ biết mấy phen! Nhứt là từ ngày Đạo với Đời phân rẽ, thì xảy ra nhiều chuyện buồn thảm, khó kể ra đây. Đã hay các Quan Langsa cầm giềng mối cai trị Xứ nầy, có lòng yêu vì kiêng nể Đức Cha: song Luật bên Quốc Chánh, bên nầy chẳng hề đổi đặng. Thỉnh thoảng Luật ấy thi hành trong Nam Việt, Đức Cha đã cất tiếng lên mạnh mẽ lắm, thấu về Đại Pháp, mà chẳng cãi việc thi hành ấy..

Ban đầu bãi tiền phụ giúp các trường Địa Phận, rồi tới thuế huê lợi. Mỗi lần, Đức Cha mỗi làm hết sức mà binh vực việc giảng dạo, Người đi làm nhiều đơn và thơ, dài và hay lắm, trưng nhiều lẽ mạnh mẻ hết sức, mà gởi cho Quan nhậm xứ nầy, cùng gởi về Đại Pháp, mà kêu nài chống cãi; song vô ích! Song làm như vậy Người mới an lòng, vì đã làm trọn việc Giám mục, mà binh vực Hội thánh, Chịu oan thì chịu, mà Người đi cất tiếng khẳng khái chững chàng, mà phản cớ rằng oan!.

Còn một việc khác: Số là nhà cũ Đức Cha, ở đường Colombert, là của nhà nước để cho các Giám mục Saigon ở, từ đời Đức Cha Miche. Nay Đức Cha Mossard càng ngày càng thấy chuyện bất bình, Người biết chắc chẳng còn ở đó đặng nữa, cho nên Người nhứt định ra trước. Vậy người đã lập Hội, mà xin giao hữu Nam Kỳ giúp làm nhà mới cho Đức Cha, là nhà Đức Cha ở bây giờ, đường Richaud, môn bài 108.

Tám chín năm nay, các Cha và bổn đạo ra vào Nhà mới nầy, cũng biết sánh so với nhà cũ, chẳng lựa là phải nói làm chi cho lâu dài. Xin dưng một tiếng mà thôi: Khen Đức Cha khôn ngoan trí huệ lạ lùng, khéo trả cách cao sang, khéo ra cách vinh hiển, khéo cất một tòa đồ sộ nguy nga, để đời cho các Giám mục Địa Phận Nam Kỳ!

Song cuộc đời, cho dầu bất bình thể nào mặc lòng, Đức Cha Lucianô là ĐẠI NHƠN; Người bước trên các cuộc thấp hèn thế sự! Người cứ một lòng thương Quê Hương, giúp Quê Hương và làm cho con nhà Annam biết mến Quê Hương. Mấy lần có việc éo le trong Xứ, như năm dân ngụy toan phá Khám lớn, cùng quyết làm loạn trong Lục tĩnh, thì quan văn võ biết Đức Cha từng trải mọi công cuộc đất nước nầy, cho nên tới bàn hỏi. Đức Cha dùng ơn khôn ngoan Chúa ban, mà giúp Quê hương trong giờ eo hiểm.

Tới mấy năm giặc rất hung bạo mới rồi đây, cách Đức Cha ở thể nào, ai ai cũng biết. Mấy lần làm lễ cho quan quân tử trận, mấy lần mở hội Quốc trái, mấy lần bày cuộc mừng vì binh Langsa một ngày một thắng, sau hết lễ toàn công đặng trận cả thể; thì mỗi khi ấy Đức Cha đã đồng tâm hiệp lực cùng Nhà nước, mà làm cho rỡ danh nước Langsa trong đất Nam Kỳ là thể nào. Đã có Nhựt Trình “IMPARTIAL”, ngày 23 Février 1920, rao báo trong Lục châu rằng: “... Trong đám giặc mới rồi đây, mấy kỳ Nhà Nước mở cuộc Quốc Trái, thì Người hết dạ trợ lo mua giúp. - Đức Cha Mossard hằng giữ phận sự Người Langsa truớc hết, thiết tình lòng dạ người Langsa, cùng hằng lo khai hóa mở mang cho Nước Langsa.

Vậy Đức Cha Lucianô đã gặp nhiều việc khúc mắt, mà Người khôn ngoan kiến thức phi thường, giải xuôi mọi việc một cách oai linh khẳng khái; không hạ oai quờn Giám mục, cũng không mất lòng ai. Trên thuận dưới hòa, trăm họ đều kính tài mến đức.

----------------------

Bây giờ phải nói ít đều về việc giảng đạo, cùng về sự sống thiêng liêng trong Hội thánh Nam Kỳ. Mùa giảng đạo, mà kẻ ngoại rùng rùng trở lại đông đảo cùng lập họ lớn: mùa ấy đã qua rồi, và chẳng biết bao giờ Chúa cho đặng lại như vậy nữa. Thật thì trong 21 năm Đức Cha Lucianô cầm quờn cai trị, thì số bổn đạo cũng thêm đặng nhiều; song thêm mực thường mà thôi, là mỗi năm mỗi tăng số con nít có đạo mới sinh, mỗi họ mỗi thêm ít người chầu nhưng đạo mới và con nít kẻ ngoại thuộc về việc Hài đồng.

Cho nên việc giảng đạo trong bốn năm mươi năm nay, lần hồi để nên giống như các Nước bên Phương Tây: là các việc tiền hiền đã lập, thì cứ mà làm, và ra sức cho đặng càng ngày càng thạnh, một là một huờn thành trọn hảo. Nghĩa là ra sức dạy dỗ giáo nhơn cho làu thông đạo thánh Đ C T, cho đặng thêm đức tin cùng thêm lòng sốt sắng; gắng công tập tành giáo hữu giữ đạo trọn niềm, cùng tấn tới trong đàng nhơn đức một ngày một hơn. Đó là việc các Nước đạo dòng đã làm xưa nay, mà nhằm là việc khó nhọc lâu dài lắm.

Ta muốn hiểu việc ấy lâu dài khó nhọc là chừng nào, thì hãy sánh kẻ đạo dòng cùng người đạo mới, coi khác xa nhau là thể nào. Còn trong kẻ đạo dòng, thì cũng nhiều bực khác nhau: kẻ nghe lời đấng chăn giữ linh hồn mà giữ đạo sốt sắng ân cần, với người nguội lạnh trễ nải, chẳng biết nghe tiếng chủ chăn, mà buông mình theo tính mê nết xấu, cả hai cũng đạo dòng, song khác xa nhau là dường nào nữa.

Vì vậy việc giảng đạo đời nay, là tập tành giáo hữu nên người ngoan đạo cùng nên trọn lành, Đức Cha Lucianô đã dùng mọi phương cách, mà giúp bổn đạo trong việc ấy. Mỗi năm Người mỗi gởi Thơ Chung mà an ủi nhắc nhở đoàn chiên, cùng chỉ cho giáo hữu phương pháp phải dùng, cho đặng càng ngày càng tấn tới trong đàng hơn đức.

Trong Thơ Chung năm 1917 Người trối lời nầy: “Ta tưởng Thơ Chung nầy là Thơ sau hết Ta để lại cho anh em, xin anh em khấng nhậm như lời Ta cố ngôn trối phú. Trước khi Ta giao đoàn chiên Chúa cho Đấng Đ C T đã chọn, mà kế vị Tông đồ trong Hội thánh Nam Kỳ, thì lòng Ta ước ao một đều: là Ta hết lòng sở nguyện, cho đặng thấy toàn chiên Ta chăn giữ bấy lâu, nên tốt lành trọn hảo mọi bề.”

Đó là đều Đức Cha Lucianô đã hết lòng sở nguyện, cùng đã ra sức thi hành trọn 21 năm. Nhờ các đấng giảng đạo đồng tâm hiệp lực cùng Người, thì số các Cha, các Thầy cùng Nhà phước càng ngày càng thêm đông đắn, hầu giúp Người trong việc mở mang đạo thánh, cùng làm cho giáo hữu đặng nên tốt lành trọn hảo, như lòng Người sở nguyện.

Đức Cha Lucianô đã ở và đi dạy tại Trường Latinh Saigon. Người hiểu việc ấy rất cần, rất trọng là dường nào; cho nên chẳng những là Người lo sửa sang nhà cữa bề ngoài, mà nhứt thiết Người sở nguyện lập nhà thiêng liêng cho cao trọng tốt lành, là thêm số linh mục bổn quốc, thêm kẻ giúp việc Hội Thánh mà tài năng nhơn đức, sốt sắng hẳn hòi - operarios Inconfusibiles - cho đặng làm cho sáng danh Chúa cùng cứu linh hồn thiên hạ. Từ năm 1899 tới năm 1919 tính hơn 50 linh mục bổn quốc đã chịu chức trong 20 năm Người làm Giám Mục. Gần hết thảy, là chính mình Người đã đặt tay trên đầu mà phong quờn chánh tế: ấy là con cái và triều thiên của Người.

Một việc khác, Đức Cha Lucianô đã lo lắng tận tình, là Nhà Dòng Cái Nhum. Cách hai năm nay Người đã cất tiếng lên, nài xin khắp hết giáo nhơn lấy lòng rộng rãi, mà giúp việc cất Nhà Dòng lại cho rộng lớn, hầu thêm số Thầy giảng, để mở mang bờ cõi Hội thánh Nam Kỳ, cùng giúp giáo nhơn giữ đạo trọn niềm. Đến ngày Người gần về Tây, dầu mệt nhọc hết sức, Người cũng rán xuống Cái Nhum, mà coi công cuộc nhà cữa cho hẳn, rồi mới đi an lòng.

Còn một đều giúp Đức Cha, cho đặng sự Người sở nguyện: là từ khi Đức Giáo Tông Piô thứ X đã ra Sắc chỉ, mà dạy về việc rước lễ hằng ngày, thì các họ đều ra sức vâng lời Tòa Thánh. Sổ xưng tội rước lễ đời bây giờ, tưởng bằng ba bằng bốn đời trước. Mà theo lời Đ C G đã phán: Mình Thánh Chúa là lương thực để nuôi linh hồn, cùng làm cho linh hồn đặng sống. Cho nên càng năng chịu nên, thì càng đáng sống và càng ngày càng sống trọn lành. Sự sống ấy là sống thiêng liêng, mà thấy được bề ngoài, vì tỏ ra trong tánh hạnh và cách ăn thói ở. Nhờ việc năng chịu Mình Thánh Chúa nên, mà đồng nhi nam nữ đặng giữ mình tinh tấn đang tuổi xuân xanh, cùng giữa muôn chước cám dỗ cùng dịp hiểm nghèo trong đời bây giờ; nhờ đó mà giáo hữu một ngày một thêm đức tin, thêm lòng đạo đức sốt sáng, cùng tấn tới trong đàng trọn lành.

Sau nữa, có một đều cũng giúp sự sống thiêng liêng ấy, là các việc bề ngoài bổn đạo làm mà thờ phượng Đ C T... le culle extérieur - . Vốn người ta có hai phần: linh hồn và xác, cho nên việc thờ phượng Đ C T cũng phải đủ hai phần. Mà phần đông hơn trong bổn đạo, ít hiểu việc thiêng liêng, nên phải nhờ việc bề ngoài mà giúp việc linh hồn: như cấm phòng, giảng, dạy, các Hội đã lập xưa nay, kinh nguyện, đàn hát, sắm đồ thờ cùng trau tria trần thiết; nói tắt một lời, các việc lành phước đức, các việc bề ngoài ta làm mà giữ đạo: các việc ấy thảy đều giúp ta ái mộ việc thờ phượng Đ C T, giúp ta thêm lòng đạo đức sốt sắng cùng tấn tới trong đàng trọn lành.

Đức Cha Lucianô đã làm sách “Directoire,” để làm mẹo mực cho các đấng giảng đạo đặng giữ một khuôn rập như nhau trong việc thờ phượng Đ C T, cùng việc giúp linh hồn giáo hữu. Trong sách tốt lành châu báu ấy, Đức Cha chỉ đủ các việc Thầy cả phải làm, trước là cho đặng giữ trọn bổn phận mình cùng đặng nên thánh, sau là giúp bổn đạo đặng nên nhơn đức trọn lành. Rày trong cả và Địa Phận, nhứt là trong các họ lớn cùng mấy họ có Cha ở thường, thì việc thờ phượng Chúa vui mừng an ổn, và tốt lành rực rỡ, chẳng kém gì các Nước bên Tây: ấy là trào huờn thành trọn hảo.

Ấy là ít lời tóm lại Sự Tích Đức Cha Lucianô, cùng các việc Người đã làm trong Hội thánh Nam Kỳ trọn 43 năm. Xem bấy nhiêu, thì cũng hiễu được tánh hạnh và nhơn đức Người. Song chép thêm đôi lời cho rõ ràng hơn nữa.

Đức Cha Mossard là người đức tin mạnh mẽ lắm. Nhơn đức cùng lòng sốt sắng Người, thì theo lý lẽ và bền đỗ vững vàng, chẳng hay tỏ bề ngoài, cũng chẳng hay kiếm sự bề ngoài. - Lòng trông cậy vững vàng, như đá ngoài gành, sóng đánh thể nào cũng không nao chuyển. Người biết gánh Người nặng nề lắm, mà Người cũng có Đ C T phép tắc và lòng lành vô cùng; Người chịu khó nhọc cùng làm hết mọi việc vì Chúa, thì chẳng có lẽ nào mà Đ C T bỏ Người. Bỡi vậy Người đặng lòng mạnh mẽ sấn sướt trong hết mọi việc Người làm cho đến chết.

Tánh ý Đức Cha Lucianô cần mẫn chí thú; nhứt là từ khi Người cầm lái thuyền Hội thánh Nam Kỳ, thì Người càng ân cần săn sóc việc rất trọng ấy đêm ngày: đó là “Sollicitudo omnium Ecclesiarum” (Cor. 11, 28), là lo lắng các việc trong cả và địa phận. Người lo làm việc gì, thì chí quyết làm cho được, và làm cho rồi thì mới an lòng. – Tại lòng cần mẫn như vậy, cho nên các việc Người làm, nhứt là việc thiêng liêng, đều có giờ khắt: làm lễ, đọc kinh officium, viếng Mình Thánh Chúa, Người cứ giờ đã định và cứ một giờ ấy luôn, chẳng dời đổi khi nào. Cũng vì lòng cần mẫn ấy, cho nên khi đã già cả, Người sợ lo các việc nặng nề trong Địa Phận không xiết, thì Người đã xin phép Tòa Thánh, đoạn truyền chức Giám Mục cho Đức Cha Victor Carôlô, ngày 15 Avril năm 1913, cho đặng giúp Người mà cai trị Hội thánh. Từ ấy, đã gần 7 năm, hai Đức Cha nên như một; một ý một lòng săn sóc đoàn chiên Chúa, cho đặng sống thật, và càng ngày càng sống trọn lành: “Ut vitam habeant, et abundantius habeant” (Joan-10, 10).

Đức Cha Lucianô rất đằm thắm dè dặt, và nhịn nhục hiền lành. Người hằng làm chủ tâm tình và tánh ý mình luôn: In patientia possidebat animam suam. Dầu gặp cực khổ, khúc mắt thế nào mặc lòng, Người chẳng nao, chẳng chuyển, chẳng nóng nảy; một cầm lòng nhịn nhục, mà tính êm mọi việc. Biết mấy lần mũ vàng Giám Mục trở nên mũ gai đau đớn nhức nhối không cùng, mà Người cũng cam chịu bằng lòng, chẳng hề năn nỉ thở than. - Còn sự hiền lành, thì nói sao cho xiết. Bỡi Người hiền lành, cho nên tới đâu ai ai cũng thương, ở đâu ai ai cũng mến. Tại đức hiền lành, mà Người đặng chẳng những là đất trên trời, mà lại đặng đất thế gian, là đặng lòng trăm họ, cùng đặng của cúng thì mặc thửa ý Người mà làm việc Chúa: “Beati mites, quoniam ipsi possidebunt terram”(Mat. 5, 4). Trọn 43 năm, Người không có của, mà tay Người đã xuất biết bao nhiêu tiền của, mà làm cho sáng danh Chúa cùng làm lành cho thiên hạ! .

Sau hết, Đức Cha Mossard có lòng rất tốt lành - un cœur d’or - lòng nhơn từ quảng đại, lòng lân ái thiết tha, lòng thương yêu và làm ơn cho kẻ bề dưới. Người ta lớn là tại lòng; Đức Cha Lucianô là Đại Nhơn, là tại lòng Người lớn và tốt lành hết sức. Trọn 21 năm Người chăn trót đoàn chiên Chúa, thì chiên mẹ, chiên con thảy đều mến yêu gậy Người chăn giữ. Nội 21 năm, Người đã vãng đi vãng lại các họ trong Nam Kỳ, hoặc ban phép Xức trán, hoặc vì lễ nọ, hoặc tính việc kia, thì khắp hết giáo nhơn đều biết và ngợi khen lòng nhơn từ quảng đại Người kể chẳng xiết.

Biết mấy kẻ đã nhờ lòng lân mẫn Người. Kẻ cơ bần thốn thiếu, người lâm nạn rủi ro: ai chạy đến cùng Người, đều đặng ủi an giúp đỡ. – Kẻ sa ngã cùng người xiêu lạc, thì Đức Cha nhơn từ hết chỗ nói; cách Người ở giống như Đ C G là Đấng chăn chiên nhơn từ chí thánh: “Arundinem quassatam non confringet, et linum fumigans non extinguet” (Matt. 12, 20).

Nói tắt một lời, trót hạnh và đời Người tóm lại một chữ thương yêu. Nhứt là từ khi lên quờn Giám Mục, Người đã chọn một câu trong Kinh Thánh, mà làm hiệu (devise), thì Người đã giữ trọn câu ấy mọi đàng: “Hic est fratrum amator, et populi Israel” (2 Mach. 15, 14), Nầy là Người hay thương anh em, cùng thương dân Chúa; Người thương hàng đạc đức, thương kẻ viện tu, thương bổn đạo, thương hết mọi người.

Đang khi Chủ chăn và đoàn chiên an nơi địa cuộc tốt lành, tưởng còn lâu năm vui vầy sum hiệp trong Hội thánh Nam Kỳ. Bỗng đâu ý nhiệm Chúa sâu thẳm vô cùng, khiến cho đoàn chiên cách biệt Chủ chăn. Cuộc tan lìa rất đắng cay thảm sầu thể ấy, xảy ra như sau nầy.

Đức Cha Lucianô đi nhứt định cuối tháng Février, hay là đầu tháng Mars năm nay (1920) thì Người sẽ về Tây, cho đặng sang thành Roma chầu Đức Giáo Tông, cùng dự Hội Nghị các Giám Mục Dòng Sai sẽ nhóm tại Roma trong kỳ tháng Mai, mà tính nhiều đều đại sự về Hội giảng đạo Ngoại quốc, cùng các Địa Phận bên cõi Đông Dương. Mà bỡi Đức Cha đau con mắt, cho nên Quan thầy Angier xin Người về Tây trước một tháng, cho đặng chịu mổ mà lấy vảy cá trong con mắt ra. Bên Langsa có nhiều lương y đại tài và danh tiếng trong việc chữa con mắt, lại bên ấy khí thanh mát mẻ cùng nhiều phương hiệu nghiệm cho đặng mau lành.

Vậy Đức Cha định lại đầu tháng Janvier xuống tàu. Mà trước khi đi, thì Người muốn tính một hai việc trong địa phận cho yên rồi mới đi. Ngày 26 Décembre, Người đi Vũng Tàu, tính mua nhà vua Thành Thái ở mấy năm trước tại Vũng Tàu, cho đặng làm trường Normale, như đã nói trước nầy.

Đức Cha đi xe hơi, ghé Bà Rịa thình lình lối 8 giờ sớm mai. Tôi mừng quá bội, hối đổ chuông trống, mừng rước Đức Cha, Đức Cha vào nhà, than mệt và nói chưa ăn uống chi hết. Tôi lật đật dọn cho Người điểm tâm. Song Đức Cha mệt, ăn không đặng, nghỉ chừng nửa giờ rồi lên xe ra Vũng Tàu, chí quyết lo cho xong việc Người sở nguyện. Tôi dạy đổ chuông một hiệp nữa đưa Đức Cha.

Mà hỡi ôi! Tôi có ngờ đâu gặp Đức Cha, và đưa Người lần ấy là lần sau hết! Chúa khiến cho con đặng thấy mặt Cha một phen sau hết trong chốn khách đày nầy! Viết tới đây, hai hàng nước mắt tuôn xuống ròng ròng!........ Càng nhớ tới càng châu lụy chan hòa! Nhớ 18 năm trời, hằng ngày con hằng chịu ơn Đức Cha. Tới ngày nay, con rõ lòng Đức Cha hơn nữa, thì Đức Cha đã khuất rồi! Ớ Đức Cha rất nhơn từ quảng đại, rất đáng mến yêu! Biết đời thuở nào con báo đáp cho cùng! Bút nào mà chép lòng lân mẫn nhơn lành Đức Cha cho xiết !!! . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

2 Janvier: Đức Cha xuống tàu “André Lebon”, mà về Nước Langsa. Bề ngoài coi sức lực vui vẻ như thường mà bề trong tưởng Người đã làm bịnh trượng, mà Người chẳng dè.

Tàu đi được nữa đàng, thì trong mình Đức Cha cũng chưa làm sao; mà từ Djibouti cho tới Marseille, thì Người bị ho suyễn lại như ba bốn mươi năm trước, khi ở Trường Latinh và ở Chợ Đũi.

28 Janvier: Đức Cha tới Marseille, trong mình đã mệt lắm. Cha Masseron về Tây dưỡng bịnh cách ít năm trước, biết ngày Đức Cha tới Marseille, cho nên xuống tàu mà rước Người. Cha Masseron thấy Đức Cha yếu liệt khác sắc, thì lo sợ cho Người lắm, không dám bỏ Người một mình, một theo mà giúp đỡ hết lòng hết sức. - Đức Cha ở tạm nhà giữ việc Hội Giảng tại Marseille, mỗi đêm mỗi bị cơn suyễn.

31 Janvier: Trong đêm thứ sáu, rạng mặt thứ bảy Đức Cha bị một cơn suyễn nặng lắm. Cha giữ việc, là cha Milliet, thấy hiểm nghèo, bèn rước quan thầy thuốc lập tức. Quan thầy tới nơi, thì Đức Cha bất tỉnh. Quan thầy chích bốn mũi thuốc, mà Người mê mang, không hay biết chút nào. Sáng ngày Người tỉnh lại, và qua bữa sau thì khỏe hơn một chút.

2 Février: Dầu Đức Cha còn mệt lắm, mà cũng rán về thành Dijon, là quê nhà em ruột Người, tên là Alphonse Mossard, đã qua đời cách hai năm trước. Cha Masseron đưa Người đi. Tới Lyon, có cháu Người, tên là Emma Mossard, đón rước Người mà đem về Dijon, thì cha Masseron trở về Marseille.

4 Février: Tới Dijon, Đức Cha vừa bớt mệt, thì rán viết thư cho Đức Cha Quinton, mà kể tắt mọi đều mới thuật lại trước nầy, và nói Người ở nhà em dâu, thì nhờ em và cháu lo lắng hết sức hết lòng, cho nên Người khỏe lại, và hết cơn ho suyễn. Lại Người tới Dijon, thì có quan thầy khán bịnh kỉ cang, và nói Người bị trái tim và phổi yếu lắm. Quan Thầy dạy phải nghỉ hết các việc, đừng lo, đừng làm chi hết, vì bịnh trái tim hiểm nghèo lắm. Trong thơ ấy Đức Cha cũng nói: trông cậy ít ngày khá, mạnh, thì Người sẽ đi Paris, vào nhà thương St Jean de Dieu, cho đặng chịu mổ vảy cá trong con mắt. Người cũng gởi lời thăm các Cha, và xin giúp lời cầu nguyện cho Người.

7 Février: Cháu Đức Cha gởi thơ cho cha Masseron, mà cho người hay bịnh Đức Cha đã giảm, và quan Thầy quyết chắc Đức Cha chẳng còn cơn suyễn như khi ở Marseille nữa.

9 Février: Đức Cha gởi thơ thăm cha Joubert. Ấy là dấu thương yêu thiết nghĩa lắm: Cha Joubert đã ở với Đức Cha nhiều năm tại Taberd, rồi ở luôn với Đức Cha từ ngày Người lên quờn Giám Mục cho đến đầu năm nay là 21 năm tròn.

11 Février: Đức Cha viết một bức thơ dài, gởi cho cha Masseron, mà nói mình một ngày một khỏe và đặng sức lại, cùng kể công việc Người toan làm, chừng sẽ mạnh thiệt.

Hỡi ôi! Mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên! Ai hay thơ đã là thơ sau hết của Đức Cha Lucianô! Ai dè sớm mai còn sống, mà tối chẳng còn! Thơ ấy chưa tới tay cha Masseron, kế sáng ngày sau, 12 Février, dây thép đã tới trước, mà đem tin rất buồn thảm rằng: Đức Cha Mossard đã biệt trần

Cuộc ai bi cấp báo như vậy, xảy ra thế nầy: Cùng 11 Février ấy: 8 giờ rưỡi tối, Đức Cha truyện vãn vui vẻ và toại chí lắm; nói về việc đi thành Roma,... lại nói trong mình khỏe và khá hơn nhiều. Song bỡi chưa thiệt mạnh, thì Đức Cha sợ thức khuya mệt, cho nên bảo phải đi nghỉ; khi ấy Người thấy trong mình nghẹt hơi, khó thở một chút. Trong nhà biết Đức Cha bị như vậy hoài, cho nên tưởng không hề gì. Vậy mọi người chào nhau cùng chúc nghỉ an, rồi ai về phòng nấy. Cháu Đức Cha xin Đức Cha khi có việc gì cần kíp, thì rung chuông để sẵn một bên giường, đoạn bà ấy lên từng trên mà nghỉ.

Cách ít phút, bà nghe rung chuông, bèn vội vàng chạy xuống, thấy Đức Cha đang ngồi trên giường, nghẹt hơi, thở chẳng đặng. Bà ấy liền la cả tiếng, xin tiếp cứu! Tức thì cả nhà chạy vào phòng Đức Cha, thấy Người còn tỉnh như thường, nói một hai tiếng mà không rõ, vì thở không ra hơi. Cách một lát, con mắt Người đứng tròng. Cháu Người bèn hối đi rước Cha, Thầy cả tới kịp, ban các Phép Bí tích sau hết cho Người. Quan thầy cũng đến lập tức, chích thuốc cho Người, song thấy đã vô phương điều trị. Cách chừng nửa giờ, Đức Cha tắt hơi! linh hồn lìa xác bằng an trong tay Chúa cùng Đức Mẹ, lối 10 giờ tối, ngày 11 Février 1920, nhằm lễ Đ C Bà hiện ra tại Lourdes.

Cám thương Đức Cha Lucianô li trần rất vội bấy! Song chết vội như vậy, mà chẳng phải là thình lình cho Người chút nào, vì Người đã đau khi đi dọc đàng, nhứt là khi tới Marseille. Lại Đức Cha đã biết, và đã nói nhiều khi, Người sẽ chết như vậy chẳng sai. Cho nên Người hằng dọn mình sẵn luôn. Anh em Đức Cha hết thảy là 10 người. Mà 10 người cũng đều chết gần như vậy: Đức Cha là người chết sau hết.

Đức Cha Mossard thật là Đại Nhơn: tác lớn, trí lòng kiến thức càng lớn hơn nữa. Trọn 21 năm Người cầm lái thuyền Hội thánh Nam Kỳ, rất vững vàng kiên cố; sóng gió bão bùng thể nào, thuyền cũng thẳng lèo lướt tới. Chuyện bằng trời, Đức Cha cũng bằng tịnh xem qua. Nay sự chết bỗng đâu giục ngựa xông tới, Người an lòng bước ra đón rước! Giờ sau hết của Người, nội có một giờ; thì cũng nội một giờ, Người đang sức lực oai linh, khác nào cây cao tận trời. bỗng liền ngã xuống! Người sống là ĐẠI NHƠN, Người chết thiệt là ĐẠI THẤN!

Đức Cha qua đời tối thứ tư, 11 Février. Xác Người mặc đủ y phục quờn chức Người, để vậy tại nhà cho tới xế ngày thứ bảy, 14 Février, mới liệm vào quan tài, đoạn đem đến nhà thờ chánh (cathédrale), để trong từng dưới, đã trần thiết theo cuộc tang trọng thể lắm, xứng đáng bực Người.

Đức Cha Landrieux, là Giám Mục thành Dijon, đã dạy rao trong các nhà thờ Châu thành cùng nơi lân cận, cho bổn đạo hay Đức Cha Mossard đã qua đời, và mời giáo hữu đi chầu lễ táng xác. Nhà Trường Dòng Sai Paris đã xin Đức Cha Cuaz và Đức Cha Demange đi dự lễ nầy, lại cho cha Sy thay mặt Nhà Trường mà đi chầu lễ.

Quan Thượng bộ kiêm các Thuộc địa, là ông Albert Sarrant, nghe tin Đức Cha Mossard tạ thế tại Dijon, thì đã đánh dây thép, tỏ tình thống thiết cùng thông phần áo não, lại cho quan thay mặt mình đi thành Dijon, mà chầu lễ mai táng.

Cả ngày Chúa nhựt, 15 Février, bổn đạo thành Dijon tuôn đến nơi để xác Đức Cha, mà đọc kinh cầu nguyện cho Người. - Qua ngày thứ hai, 16 Février, làm lễ táng xác Đức Cha trọng thể lắm, bổn đạo đi chầu lễ chật nhà thờ. Có Đức Cha Landrieux, các cha Chanoines nhà thờ chánh cùng các Cha trong thành đông lắm. Quan Tổng trấn Tĩnh Côte-d’Or ngày ấy đi khỏi, nên đã cho Quan khác đi chầu lễ thay mặt mình. Đức Cha Cuaz, là cựu Giám Mục Địa Phận Lèo, làm lễ hát trọng thể. Lễ rồi Cha Masseron lên tòa, giảng một bài kể lại tánh hạnh và công trận Đức Cha Mossard. Người thay mặt Địa Phân Nam Kỳ, mà dưng lời từ tạ cùng đưa Đức Cha về nơi cõi thọ.

Lễ xong, thì đã quá 11 giờ trưa. Bỡi đất thánh xa nhà thờ nhiều dặm đàng, cho nên Đức Cha Landrieux định để chiều mới đưa đi phần mộ. Vậy chiều ngày ấy, Đức Cha Landieux, cha Sy, cha Roy và cha Masseron đi trước thẳng ra đất thánh, còn Gia quyến và thân bằng cố hữu thì đi đưa theo quan tài. Tới nơi, bèn mai táng Đức Cha trong mộ xây sẵn cho các Giám Mục thành Dijon. Đức Cha Mossard nằm kề Đức Cha Monestès đã qua đời 4 năm trước.

Vậy Đức Cha Lucianô Mossard nghỉ an trong đất Tổ phụ, là Đất rất châu báu tốt lành, giữa quê nhà cùng bà con thân thuộc. Đang khi ấy Hội thánh Nam Kỳ chịu tang rất đau đớn thảm sầu, không lưỡi nào mà kể cho đặng. Ngày thứ ba, 17 Février, kế ngày táng xác Đức Cha Lucianô tại thành Dijon, thì Đức Cha Victor Carôlô dạy đánh dây thép trong cả và Địa Phận, mà thông tin áo não ấy. Ai nghe cũng rụng rời, nhiều kẻ khóc ròng!

Đức Cha Victor Carôlô đã làm lễ hát trọng thể cho Đức Cha Lucianô tại nhà thờ Đ C Bà. Bổn đạo Langsa, Annam tại Saigon cùng các họ xung quanh đua nhau đi chầu lễ, đủ mặt Quan quyền chức sắc Langsa và Annam, ai ai đều đến tỏ hết tình phân ưu sầu não cùng thương tiếc hết sức hết lòng. Đức Cha cũng dạy mỗi họ trong cả và Địa Phận, sức làm đặng ngằn nào thì phải làm lễ trọng thể hết sức, mà đền ơn trả thảo cho Đức Cha Lucianô. Từ ấy, bổn đạo cũng xin nhiều lễ cho Người, nhiều họ cũng làm thêm nhiều lễ trọng lắm.

Cùng ngày 17 Février ấy, Đức Cha Landrieux gởi thơ cho Đức Cha Quinton. mà kể lại việc mai táng Đức Cha Mossard bữa trước tại thành Dijon. Xin rút ít lời trong thơ ấy mà chép ra đây, cho giáo hữu xem và gẫm:

......... “Ý nhiệm Chúa khiến cho Đức Cha đã mất Cha lành yêu dấu, là Đức Cha Mossard; mà lại thảm, vì Đức Cha không được chúc an ủi, là giúp đỡ người trong giờ lâm tử cùng trong việc trợ táng phong phần. Chúng Tôi hiểu đều ấy làm cho Đức Cha và đoàn chiên Đức Cha đau lòng xót dạ biết là ngần nào!.

Phải chi cuộc tang chế nầy xảy ra tại Saigon, ắt là Thuộc Địa Nam Kỳ cùng cả và Địa Phận Đức Cha, từ Quan quyền chí nhẫn thứ dân, sẽ làm lễ mai táng trọng thể là dường nào, cho đặng tỏ lòng hiếu thảo, mến yêu cùng thương tiếc Người.

Chúng Tôi đã tận tình làm việc ấy cho xứng đáng hết sức thay vì Đức Cha. ..... và táng xác Người trong Mồ đã xây sẵn cho các Giám Mục thành Dijon.

Đó là nơi Đức Cha hiệp cùng chúng Tôi, mà thương nhớ và cầu nguyện cho Người.”

Vậy, ớ Đức Cha rất nhơn từ quảng đại và rất đáng mến yêu, xác Đức Cha xa chúng con muôn muôn dặm; song lòng trí chúng con gần Đức Cha, mà thương nhớ và cầu nguyện cho Đức Cha chẳng khi dừng. Chúng con xin dưng mấy trang thật thà vắn või nầy, là lễ bạc lòng thành, để trên phần mộ Đức Cha, tỏ tình chúng con thương tiếc và cám mến Đức Cha hết lòng hết sức. Xưa Đức Cha còn ở với chúng con, thì Đức Cha thương yêu dìu dắt chúng con; nay Đức Cha về cùng Mạch yêu mến vô cùng, thì xin Đức Cha cứ thương và cầu nguyện cho chúng con đặng tốt lành trọn hảo như lòng Đức Cha sở nguyện, hầu ngày sau Chủ chăn và đoàn chiên sum hiệp cùng nhau trên đất phước, mà yêu mến Chúa và thương yêu nhau đời đời chẳng cùng! “Hic est fratrum amator, et populi Issael; hic est qui multum orat pro populo et universa sancta civitate.” (2 Mach. 15, 14).

CHUNG.

J. B. Tòng.

Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1920