Thứ Bảy, 29 tháng 1, 2022
Thứ Sáu, 28 tháng 1, 2022
Thứ Năm, 27 tháng 1, 2022
Thứ Tư, 26 tháng 1, 2022
Thứ Ba, 25 tháng 1, 2022
Thứ Hai, 24 tháng 1, 2022
Đám táng Micae Võ văn Trường
Đám
táng Micae Võ văn Trường
(Thầy
dạy trường câm Lái-thiêu)
----------------------------
Ngày thứ bảy, 9 Décembre
1939, 6 giờ tối, nghe chuông trầm nhà thờ Lái-thiêu đổ giọng bi ai, báo tin có
kẻ mới qua đời; người người đều nói: thôi rồi, ông thầy trường câm nay lìa trần!
Nhà thờ đều mau mau dưng kinh nguyện cho ông Micae Võ văn Trường mới qua đời,
xin cho mau về nới tiêu sái. Ông Micae Võ văn Trường thọ 69 tuổi.
Trong “Nam Kỳ Địa Phận’ sô 1.572 và 1.573, ra
ngày 7 và 14 Septembre 1939, có tường thuật việc gầy dựng trường câm thứ nhứt tại
Lái-thiêu; gốc gác là nhờ nơi lòng rộng rãi cha Henri Azémar xuất tiền túi ra gởi
trò Micae Võ văn Trường, là trẻ điếc và câm, qua học bên Pháp, đến khi thành
thân, người trở về quê hương giúp cha mà dạy lại kẻ câm khác.
Trò Micae xuất thân sang
Pháp mà học, hồi đó 10 tuổi, qua nhà anh cha Azémar lo lắng mọi chuyện, cho nhập
trường câm ở Rodez. Lúc học tập ở trường, thầy giáo khen, anh em chuộng. Có gan
dạ, bền chí, siêng học. Tuổi đó, thuở đó mà dám lìa quê sang Pháp thì không thường.
khi đó là năm 1880. 6 năm sau 1886, thì thành tài, lại trở về Lái-thiêu giúp
cha Azémar; khi thì dạy tại Lái-thiêu, có lúc dời về Gia-định thì lại theo mà
giúp dạy đó; hằng chăm chú lo việc dạy trẻ điếc câm vô phước. Biết bao nhiêu trẻ
nhờ thầy Micae Trường nầy mà bớt sự vô phước buồn rầu!
Cứ đeo đuổi một việc ấy
cho tới ngày sau hết, đếm ngược ngoài 45 năm – Micae nầy là dấu tích cha Azémar
trối lại cho họ Lái-thiêu và địa phận Saigon; làm rỡ danh họ, hữu ích địa phận.
Thật mang ơn cha Azémar biết bao nhiêu! Mà công khó ông giáo sư Micae chẳng biết
mấy!
Cha Azémar qua đời, 9
Juin 1895, khi đó Micae cũng vẫn bền đỗ giúp việc, đối với cha nào, người cũng
vui lòng phụ sự luôn. Trải qua nào các cha: Ernest Verney, Henri Hay, Henri
Sion và bây giờ cha Phêrô Tròn. Người vui lòng giúp, dầu cao niên lớn tuổi mệt
nhọc, cũng một lòng hăng hái như thanh niên. Lương bổng có bao nhiêu, chút đỉnh
đủ nuôi mình, thì lấy làm đủ dùng: Làng Tân-thới mỗi tháng đóng 10 đồng bạc. Hội Phước thiện ở Saigon (L. A. M. A. S) cho thêm mỗi tháng 5 đồng.
Bạn của người qua đời đã
lâu, cứ ở vậy, mà chuyên việc mình và nuôi con khôn lớn, có tư thất đủ dùng.
Micae mất đi rồi, ấy là mất một người để làm ích lợi cho trẻ vô phước điếc câm,
dầu có kẻ khác nối nghiệp.
Phận trẻ câm nhỏ đã có 2
bà phước học bên Pháp ở trường Nogent le
Rotrou (Eure et Loir), nên cứ tấn tới tiếp việc cách phát đạt mau chóng
hơn. Mà tội nghiệp cho phận câm lớn, từ đây còn ai lãnh dạy chúng nó nữa!
Bỡi vậy ai có trẻ câm, lo
gởi liền từ còn nhỏ, đừng để lớn quá 12 tuổi khó dạy lắm.
Việc làm của Micae là việc
âm thầm với Chúa, người lại là kẻ giữ miệng không nói khoe, mà vì sự ái nhơn
thì tỏ bằng việc làm, nên thế nào cũng rõ. “Hữu
xạ tự nhiên hương”, vậy quan trên đã lo ban thưởng Médaille cho người hữu
công; đây là việc quan Đốc học Gia-định đã dò xét và tâu xin. Mà thật đã được
như sở cầu. Người khiêm nhượng và âm thầm, thì chết cũng khiêm nhượng và yên lặng.
Médaille bậc hạng nhì công ghiệp, đã ban tại tại Dalat 19 Juillet 1939. Song vì
quan trên đa đoan chưa định ngày gắn, kế hay tin qua đời, thì mới đem xuống cho
bà con đặng xem. Nên người chẳng có đeo nó mà khoe khi nào trong đời. Mà thôi,
người từ sự vinh sang thế gian, mà chực lãnh khuê bài Chúa ban thưởng là phước
Thiên đàng.
Trong tháng Novembre.
Micae Trường đau sơ sài không lấy chi làm nặng, song vì lớn tuổi thì bịnh gia
tăng. Đến tháng Decembre thì nặng, thầy thuốc annam chạy. Còn ăn uống chút đỉnh.
Trong nhà hết trông cậy, vậy ngày thứ năm trước lễ Đức Mẹ, thì rước cha ban các
phép, và chịu Viaticô. Gương mặt người vẫn vui vẻ, tay cầm chuỗi luôn. Trên đầu
để tượng Đức bà cứu giúp, bên bàn thì ảnh chuộc tội; cách người nhẫn nhịn, chịu
cơn đau bịnh cuối cùng rất vui lòng và có đức tin lắm –Ai trong bà con bổn đạo
tới thăm, thì chấp tay xá, chỉ cám ơn.
Sau hết thì người mòn mõi
mà qua đời 9 Decembre 1939. Rày đặng gặp cha Henri Azemar trên trời, cha con sẽ
nói đặng vui vẻ thong thả, chẳng còn dùng dấu ra bộ tịch chi nữa.
Vừa qua đời, khi đó là thứ
bảy, thì cha sở Lái-thiêu có đánh dây thép cho Đức cha Saigon, quan chủ tĩnh Thủ-dầu-một,
quan đốc học chánh Gia-định dặng hay Micae Võ văn Trường qua đời. Sáng thứ hai,
quan chủ tĩnh Thủ-dầu-một là M. Wolf có xuống tại nhà mà trao bằng cấp cho em của
Micae Trường là Võ văn Cao. Ngài để bằng cấp và khuê bài trước ảnh chuộc tội
trước quan tài, rảy nước thánh, nguyện kinh chút và nói cho anh em con cháu
trong nhà rõ: “Quan lớn có đặng bằng cấp Hànội gởi lại, song vì nhiều công việc,
chưa kịp định ngày gắn khuê bài, nay mới đặng tin cha sở Lái-thiêu cho hay Võ
văn Trường qua đời, thì quan lớn đem Médaille xuống, để con cháu nhớ dấu tích
người có công giúp trẻ câm lâu năm.”
Ngày thứ ba, 6 giờ, đoàn
trẻ câm nam nữ trong họ để tang, cùng con cháu, nhiều bổn đạo, và có cha, bà
phước, nhiều viên chức, đến rước linh cửu đến nhà thờ. Dọc đường tiếng kinh
nguyện, hòa tiếng nhạc ai bi cho đến nhà thờ, rước và làm lễ - Chánh tế cha sở
Lái-thiêu, có thầy năm thầy sáu giúp – Có mấy cha xung quanh đến chầu lễ. Trên
ghế dọn riêng ở cung thánh có Đức Giám mục Saigon đến chầu. Ghế các quan: có
quan chánh chủ tĩnh Thủ-dầu-một, Đốc học chánh Gia-định, và một ít ông lớn
trong ty sở theo dự.
Lễ tất, Đức cha, các
quan, các cha, anh em bổn đạo đồng đưa linh cửu đến huyệt, để cầu nguyện và tự
giã ông phen sau chót.
Thật là một đám tang xác
long trọng, tưởng thuở giờ tại Lái-thiêu chưa có đủ chức sắc đạo đời như vậy.
Thôi, tới đây xin giã từ
ông Micae Võ văn Trường một phen sau hết, đất huyệt vùi lấp hài cốt ông, mà
không vùi lấp đặng công khó ông mấy mươi năm trời khó nhọc với phận sự trong việc
giáo huấn trẻ câm. Trước mặt đời ông sống và làm việc cách âm thầm thinh lặng,
mà công nghiệp ông Chúa sẽ cao rao mà ban thưởng trên Thiên đàng. Nay trông cậy
ông đã đặng ca tụng Chúa với thần thánh muôn kiếp.
In
memoriá æterná Justus !
Người
lành sẽ được nhớ đời !
F.
X. Lê vĩnh Khương
Nguồn: Báo Nam Kỳ Địa Phận,
số 1588, ngày 28. 12. 1939
Chủ Nhật, 23 tháng 1, 2022
Sự tích trường câm Lái-thiêu
Sự
tích trường câm Lái-thiêu
(Thủ-dầu-một)
---------------------
Người gầy dựng trường câm
tại Lái-thiêu (Thủ-dầu-một), là cha Henri
Azémar, năm 1880, là thầy bổn sở họ Lái-thiêu. Cha Henri Azémar là một thầy cả có dạ nhiệt thành, ân cần lo tròn phận
sự tông đồ, Bề trền đã phú thác cho cha và giàu lòng bác ái, hết sức thương yêu
và giúp đỡ kẻ tật nguyền vô phước.
Trong trường họ
Lái-thiêu, khi đó có một học trò câm và điếc, tên là Võ văn Trường, tác chừng 9
hay là 10 tuổi, nó cũng đến trường theo mấy trò khác đi học chữ và sách đạo
Thiên Chúa. Cha Henri Azémar thấy trò
câm và điếc ấy thì xót thương, vì ở xứ nầy không có trường chuyên môn dạy kẻ
câm, biết làm sao mà dạy nó học cho được!
Bên quê nhà của cha tại Rodez sẵn có trường riêng cho kẻ câm và
điếc, cha bèn ngụ ý, kêu cha mẹ trò câm đến mà giải bày cùng an ủi cha mẹ bằng
lòng giao nó cho cha gánh lo gởi qua Tây học, sở phí và các cuộc cha vui lòng
chịu hết; cha cũng khuyến khích cha mẹ nó mà rằng: Thiên sanh nhơn hà vô lộc, hữu kỳ tật tất hữu kỳ tài. Mai sau nó ăn
học thành tài, trở về xứ sở, thì cha mẹ và nó đặng nhờ và sẽ làm ích cho những
đứa vô phước mang tật điếc cùng câm như nó. Nghe lời cha giải bày khuyến khích
lại thấy cho có lòng thương xót thân phận con mình vô phước; hai ông bà là người
đạo đức vâng thuận mà giao phú con mình cho cha lo lắng cho nó đi học bên tây.
Tính xong với cha mẹ trò
câm là Võ văn Sơn và thị Điểu, rồi thì cha liền viết thơ cho
người anh của cha tại Rodez, tỏ bày sự
cha muốn cậy anh phụ lo cho trò câm vô học tại trường ở Rodez, mọi phần phí tổn thì cha chịu hết - Người anh của cha, vì tình Huynh đệ, lòng
thương em đi giảng đạo xứ xa, nay có dịp may để cho anh em thơ từ qua lại thường
năng, và thấy trò câm là đứa của em mình gởi gắm, thì cũng đặng dịp nhớ đến em
mà an ủi lòng cho bớt buồn. Vậy nên người anh trả lời cho em biết anh vui lòng
chịu lời phú thác mà lo cho trò câm ăn học.
Đặng lời như cởi tấc
lòng, cha Henri Azémar liền đi trình
bày việc mình toan tính cho Đức Giám mục địa phận là Đức cha Isidore Colombert, và xin ngài ban phép
thi hành – Đức Giám mục thấy việc lành đáng khen và sẽ sinh ích cho nhiều kẻ vô
phước, mang phải tật điếc và câm. Trong xứ nầy kẻ vô phần, phải chịu tật nầy
thi ai ai cũng coi như người vô dụng, không ai lo tới, không kẻ màng đến. Vậy Đức
cha vui lòng cho phép cha Azémar thi
hành sự cha đã toan tính.
Đặng Bề trên nhận lời,
thì cha Azémar mầng lòng, mau mau lo
sắm rương tráp, và lo cho nó giấy thông hành cùng giấy tàu, cho trò câm đi qua
học bên tây – May đâu có cha quen về Tây, thì cha Azémar gởi gắm trò âm cho cha ấy chăm nom trong lúc ở dưới tàu.
Qua tới Marseille thì có anh cha đón rước đem về
Rodez. Anh cha thấy trẻ con Annam câm và điếc, mà vui vẻ dạn dĩ, thì
thương như con và lo gởi nó cho thấy trường câm. Thầy dạy học, thấy trò câm nhu
mì, khiêm nhượng, vui vẻ, tử tế với anh em bạn học, cũng siêng năng ham học,
thì thấy mầng thầm và đem lòng hi vọng lắm – Bỡi nó không buồn bả, không nhớ
cha mẹ quê nhà, một ham mộ sự học, nên trò Trường mau đặng tấn phát. Thầy dạy
viết thơ cho cha Azémar hay , trò câm
của cha đặng mạnh giỏi và học mau tấn tới, thì cha mừng và thông tin cho cha mẹ
nó đặng vui lòng và an tâm, vì con mình rày hết dốt nát, bây giờ nó biết viết
thơ tiếng pháp rành rẻ và ký tên: Võ văn Câm! Thuở giờ không có ai câm mà đặng
phước như như câm Trường vậy; ấy Chúa thưởng lòng cha Azémar sốt sắng thương lo cho kẻ bịnh tật nghèo nàn!
Ngày giờ chóng qua, trò
câm học bên Rodez đã đặng 6 năm, viết
tiếng Pháp rành rẻ, ngặt nói và không nghe đặng. Tiếc một điều là nó không học
đặng một nghề gì riêng, như vẽ vời, đánh máy chữ hay là toán pháp.
Qua năm 1886, mãn 6 năm
trời, thì cha Azémar gởi thơ cho bề
trên trường câm, mà xin cho Trường về xứ sở nó. Lúc đó trò Trường đã học đủ lẽ
đạo, đã xưng tội rước lễ và Thêm sức vừa xong. Bề trên trường liệu nó về đặng
và viết thơ trả lời cho cha Azémar
hay.
Khi về đến quê nhà thì ai
nấy vui mừng lắm; song có một mình cha Azémar
nói chuyện đặng với trò câm; cha viết tiếng pháp hay là dùng 2 con mắt hay là 2
tay mà làm dấu. cha lại phải chịu khó học những dấu của trò câm tả ra bằng tiếng
Pháp. Và cha dạy nó viết chữ quốc ngữ, bỏ dấu cho trúng, thành thử nó như người
Pháp học tiếng Annam với người annam!
Sau khi câm Trường học viết
tiếng Annam rành rẻ rồi, thì cha Henri Azémar xin Nhà nước cho phép khai
trường câm. Nhà nước và Hội đồng Quản hạt có lòng rộng rãi cho phép khai trường
và ban cho số tiền phụ cấp giúp đở. Cha Azémar
làm xong việc; khi ấy là năm 1890. Thuở đầu tiên có chừng 7 hay là 8 trò câm
trai và 8 hay là 9 trò câm gái. Cha Azémar
mua một sở ruộng chừng 30 mẫu ở làng Trường lộc (Gò-công - Thủ-đức) cũng kêu là
Tắc-Bà-Đỏ. Nhờ huê lợi miếng ruộng nầy, và nhờ Nhà nước phụ cấp để nuôi học trò
câm ăn học và bồi bổ nhà trường. Những học trò câm đầu tiên khi ấy còn sống đến
rày; nhiều đứa biết viết và thuộc dấu rồi trở về giúp cha mẹ làm ăn, và cũng có
đôi bạn cũng sanh con cái, mà không câm, về phần câm Trường, thì cha đã lo đôi
bạn cho nó là Agnes Điều, gái nầy
không câm, song có tật lảng tai. Vợ chồng có 6 đứa con, bây giờ còn sống đặng 1
trai 2 gái. Có đôi bạn và con cháu không câm điếc.
Năm 1915, cha Azémar xin quan chủ tĩnh Thủ-dầu-một là
ông Quesnel ban tiền phụ cấp mỗi
tháng 12$, thì quan chủ tĩnh cấp ban cho mỗi năm 100$ - Làng Bình Nhâm 100$ -
Làng Tân Thới 150$, như đã thấy trong sổ giáp lai còn lưu lại.
Năm 1895, ngày 9 Juin,
cha Henri Azémar qua đời – Đức cha Dépierre giao cho cha Ernest Verney,
giáo sư trường Latinh, coi họ và trường câm Lái-thiêu – Cha E. Verney, dầu yếu
đuối, không đặng mạnh, song cha cũng vui lòng và sốt sắng ân cần lo cho học trò
trường câm, cũng như cha Henri Azémar.
Bây giờ người lo cho có Dì phước Thủ-thiêm dạy câm gái, còn câm trai thì có thầy
giảng Cái-nhum; câm nam chừng 5 hay là 6 đứa, câm gái chừng 3 hay là 4 đứa.
Chừng đến năm 1899 hay là
1900, không biết tại sao mà cha giao học trò trường câm chon am cho thầy dòng
Tabert ở Tân-định, rồi ít lâu sau sang qua Gia-định. Có câm Võ văn Trường phụ
giúp thầy dòng dạy học trò câm – Cách 3 hay là 4 năm sau, các trò câm đều thôi
học ráo, trường trống, không còn 1 trò nào học, hoặc nó về nhà cha mẹ nó, hoặc
trở về Lái-thiêu học lại như trước.
Đến sau vì có đều trắc trở,
nên thầy giảng Cái-nhum và mấy dì phước thôi dạy Lái-thiêu mà trở về nhà dòng
mình. Lúc đó, trường họ và trường câm không người coi sóc chăm nom dạy dỗ, nên
lộn xộn bất tiện lắm. phần cha Verney
đa đoan nhiểu việc, và hay đau ốm, nên cha xin bà Mẹ nhà phước trắng (Mère provincial), phú giao cho các bà sửa
soạn nhà cữa. bà mẹ giao cho bà Antoinette làm bề trên và có 6 bà bổn xứ Annam
phụ giúp; các bà ở luôn cả năm, dễ bề chăm nom học trò và nhà trường. lại các
Bà sẵn giàu lòng yêu người, nên thương và lo cho mấy trò câm như mẹ lo cho con
cái mình vậy – Khi bà Antoinette qua
đời rồi, thì có bà Grabriel nối thế;
Bà vì có quen biết nhiều người tây, nên năng đặng mấy kẻ ấy đến thăm trường,
cùng mướn trò câm gái thêu và may y phục tây; Bà hết lòng lo thương cho trẻ
câm, hay tìm dịp cho nó làm việc khi có giờ rảnh. Khi đó số học trò câm được chừng
15 hay 16 đứa.
Cha Ernest Verney qua đời ngày 19 Mars 1915, thì Đức cha Mossard đặt cha Henry Hay coi họ và trường câm – Cha Hay có lòng rộng rãi, đã mua một sở ruộng chừng 30 mẫu tại Bãi-xan,
để lấy huê lợi mà giúp trẻ câm; mỗi năm thâu đặng chừng 7 hay là 8 thiên lúa.
Qua năm 1926, ngày 8
Juin, Henry Hay lại qua đời, thì có
cha Henri Sion thay thế. Trong khoản
cha Sion coi họ và trường câm, thì
không có thay đổi, thêm bớt gì, mọi việc trường câm y như bấy lâu trước.
Đến năm 1931, Đức cha Durmotier đổi cha Sion đi coi họ Phú-riềng thuộc tĩnh Biên-hòa, và giao cho cha Pierre Tròn coi họ và trường câm
Lái-thiêu cho tới bây giờ (1939).
Năm 1933, Đức cha đi viếng
trường câm; thấy trẻ câm nam nữ ở gân nhau, nhà các bà thì riêng ra, cách ăn ở
không thứ tự phân biệt, thì Đức cha dạy cất nhà riêng cho câm nam như thấy bây
giờ; Nhà rộng ở đặng chừng 50 người có dư, có đủ phòng ngủ; phòng học, phòng để
cho các bà; có nhà bếp, có nhà điện, khoản hoát xem coi sạch sẽ, thị tứ lắm.
Qua năm 1931, bà François là Bề trên các bà về dòng thánh
Phaolồ, có lòng ái mộ lo lắng giúp mấy trẻ câm từ 7 tuổi đến 12 hay là 13 tuổi;
bà có gởi hai bà người bổn xứ Annam
qua học tại Nogent le Rotrou (Eure et
Loir) về dòng Đức Bà chẳng hề mắc tội tổ tông, để học dấu câm. Nơi nhà dòng
ấy có trường câm dạy theo cách Méthode
Belge kim thời. Có tấm gương lớn để trước mặt, muốn cho hiểu vật chi, thì
chỉ trong hình vẽ, có sách sẵn. Rồi thầy nói, hả miệng, bẻ miệng cách nào, học
trog câm xem trong kiến mà nhái lợi. Khi hai bà Annam ấy học đặng rồi thì
năm 1936 trở về Saigon và đặng bà mẹ Provinciale
sai lên dạy trường câm Lái-thiêu cho đén ngày nay (sœurs Simone et Monica).
Có hai cách dạy trong trường
câm; Mấy trò câm từ 7 đến 13 tuổi, thì dạy nói, viết làm dấu; mấy trò câm nầy
miệng lưỡi còn dễ học nói đặng.
Còm mấy trò lớn tuổi hơn,
14, 15 tuổi sấp lên, đứa nào điếc mà còn nghe được chút ít thì học nói đặng rõ
hơn. Còn như điếc ngắt quá, thì khó mà học nói cho rõ đặng. vậy mấy đứa lớn tuổi từ 14 tuổi sấp lên, thì dạy viết, dạy làm dấu.
Việc dạy trẻ câm thật rất cam go, khó nhọc, vì phải nhịn nhục, phải bền chí. Phải
chi dễ bề dạy tập kẻ câm, thì ắt là đã có trường câm nhiều nơi khác rồi. Dầu việc
dạy câm nói là đều cực lòng khó nhọc, nhưng có đều làm cho thầy dạy vui, là thấy
trò câm ham nói và ra sức chăm chỉ ngó miệng thầy dạy.
Quan Giám-đốc ty Giáo-huấn
ở Gia-định có đến viếng và xét trường, ngài hứa sẽ xin Chánh phủ ban thưởng huy
chương cho giáo sư trường câm, vì đã dày công khó nhọc lâu nay. Quan phó soái
và Phu-nhân cũng có đến xem xét trường, và đã rộng lòng bố thí rất nhiều, để
cho trẻ câm học hành và vui chơi. Có ông chánh Hội trưởng “Hội trợ giúp phụ cấp
xã hội” đến xem xét và thấy trường câm Lái-thiêu là một việc tốt lành đáng bố
thí phụ giúp, để an ủi và nuôi dưỡng dạy dỗ trẻ câm phải số phận vô phước tật
nguyền.
Nhờ có lịnh quan trên dạy,
nên các làng lo gởi đứa câm lớn, nhỏ, ngoại, đạo đến trường, cả thảy đều đặng
thâu nhập vào trường hết; bỡi đó nên số trò câm càng ngày càng gia tang. Lại vì
nghe nói trường có dạy câm nói đặng, nên kẻ có con câm thì lo gởi vô trường;
ngày nào nhập trường cũng đặng. Lại hễ khi nó học vừa đủ biết, thì cũng cho nó
về nhà giúp đỡ cha mẹ, khi nó xin. Không buộc trò câm phải theo đạo, một để nó
thong thả trong sự tín ngưỡng chọn lựa lấy; trừ ra mấy đứa nào cha mẹ nó bằng
lòng cho luôn cho chủ trường.
Khuyên ai nấy có con vô
phước câm điếc, hãy mau lo gởi vô trường, cho nó ăn học, mà nhờ tấm thân, kẻo
phải thiệt thòi tội nghiệp! Vì sẵn nay có trường riêng và có Nhà nước rộng rãi
khoan hồng phụ cấp, để nuôi dưỡng dạy dỗ mấy trẻ vô phước điếc câm.
Đời văn minh, mấy trẻ con
không tật nguyền câm điếc, thì có phước đi học nơi trường lớn nhỏ, trường làng,
trương tổng, trưỡng tĩnh, mai sau học đặng thành tài, thì đặng thông minh, độ
thân và vinh hạnh. Còn mấy trẻ điếc câm thì xem ra như đồ vô dụng, không ai
màng tới. Song Đấng Tạo hóa nhơn từ vô cùng là Người đã cho có ông L’abbé de l’Epée là người phương tây đã
tìm đặng cách dạy đứa câm và điếc nói đặng, nghe đặng và viết đặng. Thật rất
nên cám ơn đội trên và khen tài kẻ kinh nghiệm dạy dỗ thế ấy.
Ngày nay bên xứ Nam-kỳ nầy
đặng có trường câm, để chăm lo cho phận kẻ điếc câm, đặng nuôi dưỡng, học hành
cho biết viết, biết nói cùng nghe hiểu đặng, thì thật rất hữu ích cho người
annam có con vô phước mang phải tật câm điếc.Ấy cũng nhờ cha H. Azémar rất đáng kính và đáng mến yêu,
vì bỡi ngài có lòng hay yêu thương người, có lòng rộng rãi và chẳng quản nhọc
công, tốn của, mà gầy dựng cho có một ngôi trường câm.
Sau hết xin ai nấy có gặp
nhà nào có con điếc và câm, như là người ngoại thì mách bảo cho họ đem con phú
thác cho trường câm nuôi dưỡng dạy dỗ; hoặc đến nhà các cha sở ở mấy họ có đạo,
mà xin cha lo gởi giùm. Các cha sẵn lòng giúp luôn. Hay là muốn rõ đều chi, cứ
gởi thơ ngay cho cha sở họ Lái-thiêu.
Monsieur
le Cure de Láithiêu
Post.
Lái-thiêu – (Cochinchine)
Fr.
X. Lê-vĩnh-Khương
Nguồn: Báo Nam Kỳ Địa
Phận, số 1572 và 1573, năm 1939