ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2022

Hạnh tích Bà Anê Linh - Cựu Bà Nhứt Nhà Phước Chợ Quán

HẠNH TÍCH BÀ ANÊ LINH, CỰU BÀ NHỨT

Nhà phước Chợ Quán

---------------------

Hôm ngày 12 tháng Juin, lễ Đức Chúa Trời Ba Ngôi, Bà Anê Linh, cựu Bà nhứt nhà phước Chợ quán qua đời, hưởng thọ đặng 63 tuổi, khấn hứa trong dòng đặng 41 năm, làm Bà nhứt đặng 6 năm.

Anê Linh sinh ra năm 1864, tại họ Búng, thuộc hạt Thủ dầu Một. Cha mẹ là người đạo đức, sinh đặng sáu người con, Anê là con thứ năm. Từ nhỏ đến 10 tuổi, Anê ở cùng cha mẹ lo học hành kinh sách. Đến 10 tuổi, cha mẹ cho vào ở nhà phước Chợ quán. Lúc đó dì ruột của Anê là Bà Maria Hòa đang làm bà nhứt nhà phước Chợ-quán. Tuy lòng thương cha mến mẹ, song Anê cũng vui dạ vưng lời, từ tạ cữa nhà vào ở với dì. Đó linh hồn ấu nhi còn trong sạch, Chúa mau mau đem vào giấu ẩn trong nhà người, cho khỏi vương phải bụi tro trần thế!

Anê sáng trí lại tánh tình nết na hiền hậu, biết vưng lời chịu lụy. Anê lo học hành đạo lý, đến 12 tuổi, thì Anê rước lễ vở lòng. Âu là ngày ấy, Chúa đã tuôn các ơn thánh vào lòng trẻ nhi nầy, cũng làm cho trẻ ấy nhứt quyết dưng mình cho Chúa ngày sau.

Từ đó về sau, nhờ gương lành cùng lời dạy dỗ của dì là Bà Maria Hòa, thì Anê quyết định từ bỏ cuộc đời, vào nhà viện tu, làm tôi Chúa cho đến cùng. Vậy năm 1880, thì Bề trên cho phép Anê nhập dòng, vào hàng các chị. Lúc đó Anê đặng 16 tuổi. Mười sáu tuổi là lúc thiếu nữ nhi đang kiếm tìm cuộc thế, những lo trau tría làm tốt đêm ngày, những lo cho gặp gỡ chỗ giàu sang mà gởi thân, thì Anê quì trước bàn thánh, đành lòng tự ý dưng trót thân mình cho Chúa. Ấy là ngày phước lộc cho Anê, là ngày Anê đã chọn phần nhứt mà chẳng ai cất lấy đặng!

Từ ngày Anê bước chơn vào nhà các chị, thì Anê càng nên sốt sắng. Bề ăn học thì trổi xa chị em chúng bạn; còn bề nhơn đức thì rất rạng ngời: nết na đầm thấm, nhịn nhục hiền lành, vưng lời chịu lụy, cùng làm trọn các việc người ở nhà tập mình. Tỉ như cây kia, trồng nơi đất tốt, nên rất chóng mau trổ sinh bông trái.

Ngày lụn tháng qua, dựa nơi bóng đền thánh, khuya sớm lo một đều khắc kỷ tu thân, giữ trong luật nhà, tập rèn các nhơn đức, cho xứng sau nầy khấn hứa trong dòng. Vậy năm 1886, Anê đặng Bề trên cho khấn hứa ba đều theo phép dòng. Ngày đó Anê đã thề hứa, dưng trót thân mình cho Chúa, giữ lòng trinh khiết, vưng lời chịu lụy khó khăn cho đến hơi thở sau hết. Mà thật, Anê đã đặng phước giữ lời hứa ấy cùng Chúa. Khấn hứa vừa xong, Bề trên sai Anê với dì Anê Quế đi dạy tại họ Gò công trước hết, vì lúc đó họ Gò công mới khởi tạo, chưa có cha ở. Mỗi tuần có cha Gioakim Lịch ở Tân An xuống làm lễ một lần. Gò công khi ấy thuộc về sở Mỷ tho, đời cha Linh (Moulin) làm cha sở. Anê dạy tại đó đặng sáu tháng, khi trở về, Bề trên dạy phải ở lại nhà phước mà giúp việc trong nhà. Lúc ấy Anê càng rạng tài đức, cùng như mặt trời càng lên cao thì yếng sáng càng chói giọi. Phận sự kẻ ở nhà Chúa, Anê giữ rất trọn hảo; việc trong nhà, Anê khéo tay bày biểu. Bề trên thấy Anê đủ tài đức, thì chọn lên coi sóc các chị áo trắng. Coi nhà áo trắng, là một việc rất can hệ cùng trọng nhứt trong nhà dòng, vì đó là nơi để tập luyện cùng dạy dỗ những kẻ sau đây sẽ khấn hứa trong dòng. Nếu kẻ làm đầu khéo dạy dỗ; biết tập rèn, thì mai sau trong dòng sẽ có người lịch lãm đức hạnh, trọn niềm việc bổn phận kẻ ở nhà Chúa. Lại nữa cũng là việc rất khó, vì kẻ làm đầu phải thông thạo trong đàng trọn lành, phải có lòng hiền lành nhịn nhục thì mới lo kham việc trọng nầy đặng. Lòng đạo đức cùng sự khôn ngoan là hai đều rất cần cho kẻ coi sóc nhà tập mình.

Hai đều nầy Anê đã giữ rất trọn: trong 25 năm, Anê coi nhà áo trắng, thì ai ai cũng thấy rõ lòng đạo đức và sự khôn ngoan của Anê. Các đấng Bề trên coi nhà phước và những đấng coi sóc linh hồn Anê, đều rập một tiếng mà khen lòng đạo đức Anê cùng sự khôn ngoan phân xử cùng chỉ dẫn trong đàng trọn lành cho các chị noi theo. Ai nói cho đặng những ích thiêng liêng Anê đã làm cho các chị trong nhà tập mình trong dòng 25 năm đó, rày nhiều kẻ còn sống cũng chứng miệng sự ấy.

Anê chẳng những lãnh việc coi sóc các chị, mà lại làm thơ ký cho Bà Nhứt, phụ giúp các việc trong nhà. Nói đặng khi đó Anê là cách tay mặt của Bà Nhứt. Song Anê chẳng cậy tài, cũng chẳng ỷ thế, lại càng thêm khiêm nhượng, càng mến yêu chị em cùng tận tình giúp đỡ. Bỡi đó chẳng những các chị áo trắng mà hết thảy ai ai trong nhà cũng đem lòng mến thương kính phục.

Anê có trí lại có tài, khéo tay bày vẽ nhiều đều hữu ích cho nhà dòng. Chẳng những là lo dạy các chị học hành, đánh đờn, tập hát, mà cũng bày cách sinh lợi cho nhà dòng: như làm bông, và may thêu dệt đồ lễ. Trong các nghề ấy, nghề nào Anê cũng rành rẻ, nên nói đặng rằng: Anê sống ở đời lấy đức làm gương cho chị em noi đòi bắt chước, lấy tài mà sinh phương chi độ cho nhà dòng no lòng ấm cật.

Anê vốn phần xác thì yếu đuối, thầy thuốc đoán không thể sống lâu đặng, song nhờ ơn Chúa, Anê hưởng thọ đến 63 tuổi! Tuy xác thì yếu đuối bịnh hoạn, song trí lòng rất mạnh mẻ, như ta sẽ thấy các việc Anê làm sau nầy.

Năm 1915, Anê bịnh nhiều, nên xin thôi việc coi sóc các chị áo trắng. Lúc đó Bề trên mới giao việc nầy cho Dì Annà Nên. Từ đó Anê đặng nghỉ ít lâu, qua năm 1916, nhà phước tính sửa nhà lại cho có chỗ các dì ở, Bề trên liền giao việc ấy cho Anê. Vậy Anê ra tay chỉ vẽ cho thợ cùng coi làm công việc cho toàn hảo. Công việc vừa xong, Anê vô ở trong Gò vắp, tại đó nhà phước Chợ quán có lập một nhà Hài đồng, để nuôi con nít. Ở đó ít ngày, Anê liền ra tay sửa lại, sắp đặt cho đâu đó sạch sẽ vén khéo, nào nhà dì, nào nhà Hài đồng, đều cất lại mới hết. Anê cũng phụ cùng cha sở và bổn đạo họ Gò vắp mà cất thánh đàng lại.

Ở đó đặng một năm rưỡi, tưởng là an phận, hay đâu ý Chúa nhiệm mầu, định dùng Anê trong việc khác. Vậy năm 1919, lúc các dì chọn bà nhứt, thì ai ai cũng đồng chọn Anê lên lãnh việc coi sóc nhà phước. Ai nấy vui mầng vì đặng một người xứng đáng làm đầu coi sóc, có một mình Anê thì buồn bã khóc lóc đêm ngày, đến đỗi muốn trốn vào dòng khác cho khỏi gánh nặng ấy. Song bỡi Anê có lòng nhân đức, thấy rõ là ý Chúa, nên cúi đầu vưng phục.

Mội phen làm Bề trên thì Bà Anê rất ân cần lo lắng cho ai nấy trọn việc bổn phận. Người rất thẳng thép và nhặt trong sự gữ luật nhà. Bỡi Bà Anê hiểu biết, sự trọn lành kẻ ở nhà Chúa là ở tại sự giữ luật phép nhà cho chín chắn. Lại người cũng rõ phận sự đấng bề trên, là lo ai nấy trong nhà nên trọn lành, và mai sau phải trả lẽ rất nghiêm nhặt về sự ấy nơi tòa Chúa phán xét. Bỡi đó, người chẳng tày vị ai, một lấy sự công bình và luật phép nhà mà phân xử các việc. Nhứt là Bà Anê rất khôn ngoan trong lời nói, biết giữ sự kín kẻ khác. Bề khôn ngoan, cách phân xử khi gặp khó, thì Bà rất khôn khéo, biết châm chế cùng tùy lúc tùy khi, lo cho các việc đặng an bài. Bỡi đó lớn nhỏ trong dòng đều kính phục đức tài của bà.

----------------------

Bà Anê cũng tu bổ nhà phước lại lo cho đâu đó sạch sẽ vển van. Cất một nhà cho con nít ở, làm lại nhà khách, sửa lẫm lúa. Bỡi người khéo biết ở đời, nên nhiều người giàu có cũng đem lòng thương mến. Nhờ đó nhiều người dưng cúng ruộng đất để giúp việc nhà dòng; kẻ khác thì chịu tiền làm vách thành nhà phước cùng xây vách đất thánh, làm mồ lại cho các dì đã qua đời. Nhờ Bà Anê dốc công cùng biết kiếm của, nên đã xây thêm một nhà từng rất rộng rãi, để cho các chị áo trắng ở. Khi lên làm bà Nhứt, thì Bà Anê soạn sổ sách các ruộng đất của nhà phước, lo đâu đó cho đành rành, sắp đặt cho có thứ lớp. Thấy đó mới rõ tài người, bỏ qua phía nào cũng xuôi hết. Trong dòng mà đặng một người như vậy thì rất nên là quí báu!

Qua năm 1925, Bà Anê làm Bà Nhứt đặng trọn sáu năm, theo luật hội thánh mới ra, hễ đủ sáu năm thì phải thôi, để cử người khác. Vậy các dì chọn Bà Anê làm bà nhì, đó là việc bà làm cho đến chết.

Năm đó Bà Anê Linh khỉ sự đau bịnh ho, cách ít tháng sau thì thổ huyết. Trong lúc đó ai cũng tưởng Bà phải lìa thế, song ngày giờ Chúa định chưa tới, còn phải ở lại ít lâu, làm cho thành công việc Chúa phú.

Vậy Bà vô Chí hòa, tạm nghỉ ít lâu, nhờ cha sở họ Chí hòa tận tình thuốc men phụ dưỡng, nên Bà đặng khá lại. Vừa khá lại, thì đầu năm 1926, khởi sự cất nhà cho các chị áo trắng ở. Bà Anê Linh phụ lực với cha coi nhà phước, quí danh là cha Laurent Bính, chánh sở họ Chợ quán, mà lo bày vẽ các công việc. Dầu đã yếu đuối bịnh hoạn, song hằng ngày những theo coi công thợ, chỉ vẻ cho nó làm, nên nhà đã chắc chắn, lại công việc rất mau rồi. Trong lúc coi làm nhà áo trắng, thì Bà ra huyết lại đôi phen, song bà chẳng kể sau, một cứ việc làm như thường bữa.

Nhà áo trắng vừa xong, ăn lễ lạc thành vừa rồi, thì khởi sự sửa nhà thờ lại cho có chỗ đủ cho các dì xem lễ đọc kinh, vì nhà thờ đã chật. nhơn số kẻ vô nhà phước một ngày một đông. Nên phải làm thêm một chái nhà bên hông nhà thờ, luôn tiếp với nhà mới cất cho các chị áo trắng, như vậy người bịnh liệt cũng dễ bề xem lễ đặng, vì nhà thương cũng luôn theo một phía đó. Còn phía trước nhà thờ thì thêm một căn và làm một từng đờn cho các chị hát. Luôn dịp cũng sơn phết nhà thờ lại, Bà Anê lãnh coi các việc; đó chẳng phải lần đầu, vì chăng mấy năm trước, bà đã sửa trong cung thánh, làm lại phía sau bàn thờ cho rực rỡ, đặt bôn đúc, để ảnh Đức Mẹ, đặt đèn khí. Phen nầy Bà Anê cũng tận tâm lo sửa soạn nhà Chúa cho xứng nơi Chúa ngự, dầu tốn hao bao nhiêu cũng chẳng tiếc. Lúc làm nhà thờ, thì bà đã đau nhiều, bịnh nặng, hai chơn đi đứng không nỗi, ngày đêm nằm một chỗ, cựa quậy không đặng, song dầu vậy, cũng cứ một lòng mạnh mẻ, lúc khỏe thì biểu khiêng đi coi làm, một ít lâu trước khi bà qua đời, thì biểu khiêng vô đặng chỉ cho thợ sơn phết. Đến ngày 20 April, thì bà kêu thợ lại biểu phải nong công làm cho kịp lễ Đức Bà Phù Hộ các giáo hữu. Nhà thờ xong xuôi, thì bà xem lễ cũng rước lễ đôi ba phen trong nhà thờ mới. Các công việc ngày đã hoàn thành, rày bà đặng hát lời kinh ca vịnh Nunc dismittis của thánh Siméon xưa!

Mà thật, bịnh một ngày một thúc tới, hai chơn thì sưng lên, cả mình đau đớn nhức nhói, trong lúc đó bà cũng giữ một mực, lo đủ các việc thiêng liêng, lúc khỏe thì đọc kinh lần hột, khi đau đớn thì kêu than cùng Chúa, các dì giúp bà thì đọc kinh giảng sách cho bà nghe. Mỗi ngày thì bà chịu lễ, lúc khá thì các dì khiêng bà lên nhà thờ, khi mệt thì đem Mình Thánh Chúa cho bà chịu. Bà cũng xin các chị khiêng bà đi chầu Mình Thánh Chúa và làm việc tháng Đức Mẹ. Dầu đau đớn, song tánh tình vẫn vui vẻ luôn, ai đến thăm viếng thì bà tỏ mặt vui cười, chẳng chút chi buồn bực than trách.

Đến ngày 17 tháng Mai bịnh càng nặng, dầu đã uống nhiều thứ thuốc chạy nhiều lương y có tiếng, đó chẳng phải là ý bà muốn, song cũng nhờ lòng rộng rãi của một gia thất kia, tuy còn ngoại, song đã cho người con gái theo đạo, rày đang ở nhà tập mình trong nhà phước Chợ quán. Tốn hao bao nhiêu, nhà nầy không tiếc, tiếc một đều là không thể cứu bà đặng. Lòng yêu người như vậy, lẽ nào Chúa chẳng trả công lại sao, một chén nước lã, thí cho kẻ khó, Chúa còn thưởng thay, huống chi công ơn thể ấy! Vậy ngày 17 tháng Mai, thì bà xin chịu phép xức dầu thánh. Cha Bề trên trường Latinh, là cha linh hồn bà cho bà chịu lối 5 giờ chiều. Lúc đó bà tỉnh táo như thường, sẵn lòng dưng trót mạng sống nơi tay Chúa phân định.

Đến ngày thứ bảy, áp lễ Đ. C. T Ba Ngôi, bà thấy trong mình đã mòn sức, nên bà xin cha phó họ Chợ quán, quí danh là Bênêđitô Cậy, ban phép đại xá sau hết cho bà. Từ đó bà càng dọn mình hơn nữa, đến hai giờ khuya bà xin chịu lễ, song dì giúp thấy bà như thường tưởng chưa sao, nên xin bà chịu khó đợi đến sáng, cho dễ bề đem Mình Thánh Chúa cho bà. Bà cũng vui lòng đợi, một ít lâu sau nghe bà than thở lớn tiếng rằng: Lạy Chúa, con xin dưng các sự đau đớn con chịu đây, xin Chúa cho kẻ có tội trở lại, kẻ ngoại đặng ơn phần rỗi và cho chị em trọn niềm việc bổn phận cho sáng danh Chúa. Lời cầu nguyện thể ấy, nơi giường người hòng lìa thế, thì đẹp lòng Chúa là thể nào!

-------------------

Khỏi một ít lâu sau bà hỏi thăm mấy giờ, đoạn cũng xin chịu lễ, song bỡi còn khuya, lại cũng chẳng dè bịnh trở, nên dì giúp xin bà rán đợi đến sáng. Lúc đó bà tỉnh táo như thường, chăm chỉ nghe mấy lời dì giữ linh hồn đọc, đoạn bà nói rằng: một chút nữa đây tôi sẽ dùng bữa cùng Đ. C. G. Mà thật sự, giờ sau hết đã đến, giờ gian nan khốn khó đã cùng, rày đến giờ tớ trung nghĩa vào ra mắt cùng Chủ nhơn lành. “Euge serve bone, intra in gaudium Domini tui”. Mặt bà lúc đó bình tịnh vui vẻ, miệng bà cứ thầm thì kêu xin, bà rán giơ tay làm dấu thánh giá một phen sau hết, đoạn linh hồn tốt lành liền ra khỏi xác cách êm ái dịu dàng!

Beati qui in Domino moriuntur” Phước cho kẻ chết lành trong Chúa. Đó mới trọn câu sống sao chết vậy!.

Sáng ngày vừa dặng tin bi ai ấy, thì nội nhà phước đều châu lụy chan hòa. Kẻ khóc người than, đoạn mau mau thông tin cho các dì khắp nơi đặng cầu lễ cho linh hồn Anê cùng về chôn xác. Lúc bà đau nặng thì các dì đi dạy các họ có về thăm bà lần sau hết. Đó là một đều nên gẫm: Kẻ bề trên thẳng nhặt thể nào, nếu bỡi lòng đạo đức mà ra, thì sau lại càng làm cho kẻ bề dưới mến yêu kính phục.

Thợ làm với bà khi xưa thì dưng công xây cho bà một huyệt nơi đất thánh nhà phước. Từ ngày Chúa nhựt đến thứ ba, thì các dì và nhiều bổn đạo họ Chợ quán thay phiên cầu lễ. Sáng ngày thứ ba, đúng năm giờ rưỡi cha Laurent rước xác vô nhà thờ, đoạn làm lễ hát trọng thể. Chính Đức cha chầu lễ, cùng có nhiều cha quen biết đến xem lễ và đưa xác. Bổn đạo họ Chợ quán cũng đông, có bà Paul de Marie và ít bà nhà trắng, nhà phước Cái mơng và Thủ thiêm cũng cho ít dì đi đến xem lễ và đưa xác. Lễ hát vừa xong, Đức cha thân hành làm phép xác, đoạn đưa linh cửu bà đến phần mộ, tại đất thánh nhà phước, trước nhà thờ Chợ quán. Đám xác rất trọng: thánh giá mở đầu đi trước, tới đồng nhi và bổn đạo họ Chợ quán, đến các dì các chị, mỗi người tay cầm đèn sáng, miệng lần hột cầu hồn, đoạn đến các cha, trước quan tài Đức cha đi giữa, đầu đội mũ bạc, sau quan tài, thì bà con cùng thân quyến của bà chịu tang để chế. Trên quan tài để một tràng bông hường, kết hình thánh giá. Tới nơi, Đức cha đọc các kinh cầu chúc cho linh hồn bà đặng lên nơi tiêu sái: Re-quiescat in pace! Đọc kinh xong mỗi người rảy nước thánh trên quan tài mà từ giã, đoạn ai nấy lui về lòng ngùi ngùi thương tiếc! Xác Bà Anê Linh rày nằm tại đất thánh nhà phước, kế một bên cây thánh giá, chính bà đã lo xây dựng. Nằm đó nghỉ an đợi giờ sống lại hiển vinh! Hỡi bà Anê! Bốn mươi bảy năm, giã từ sự thế, ẩn thân nơi nhà Chúa, lánh xa các cuộc vui chơi, chỉ lo tu thân tích đức. Dầu lắm khi phải gian nan khốn khó, nhiều lần ngậm cay nuốt đắng, song lúc gian nan cũng như hồi thới lai, bà một lòng vàng đá, trọn niềm phận sự, hết dạ kính Chúa yêu người. Rày đã mãn vòng lao lý, đàng bà đi đã đến chốn, khá trông Chúa nhơn từ khấn ban phần thưởng cho bà, là con trung tôi hiếu của Chúa, “Ai bỏ cữa nhà cha mẹ, anh em chị em, vườn ruộng vì danh Tao, thì sẽ đặng lãnh bằng trăm và sẽ đặng sống đời đời.” Lời Chúa phán đành rành, lẽ nào còn nghi nan đặng sao!

Giã từ bà phen sau hết! Chị em ở lại đau lòng xót dạ, song hết thảy thề quyết sớm khuya sẽ theo một nẻo bà đi. Công khó bà muôn đời ghi nhớ, đức tài bà chẳng khá quên đâu, ước trông có ngày, chị em lớn nhỏ sẽ đồng phước cũng bà một chốn!

Người qua đời mà công việc hãy còn: ai bước chơn vào nhà phước, thấy nhà cữa đồ sộ, đâu đó thứ lớp, sạch sẽ vển van, thì liền nhớ, không có nơi nào trong nhà mà không nhờ công khó bà Anê Linh!

Khi bà qua đời rồi, có một dì, lúc bà sanh tiền thì theo phụ lực làm các việc với bà, kiếm đặng một tờ giấy, chính tay bà đã viết lúc cấm phòng đầu năm 1927. Trong đó bà viết rằng: “Lạy Đức Chúa Giêsu là Cha rất nhơn từ, ơn Chúa cho con mỗi ngày hằng nhớ sự chết, nên các đồ con dùng thì con coi là đồ để liệm xác con. Cho đặng thêm lòng tin cậy phú dưng mình cho Chúa, thì con dốc lòng mỗi ngày khi sớm mai, con sẽ dưng cho chúa mọi sự lành Chúa ban cho con, cùng mọi sự khó con chịu, lại các việc lành nhỏ mọn con làm nhờ ơn Chúa, cùng những sự yếu đuối con lầm lỗi mất lòng Chúa. Con xin dưng cho Chúa hết, các sự lành xin Chúa giữ, các đều lầm lỗi con xin Chúa sửa lại, và nhờ công nghiệp Chúa sẽ đền bồi sự thiếu thốn con. Con xin dưng sự dốc lòng ấy trong tay Đức Mẹ. Con nhờ ơn cấm phòng lần nầy tưởng chắc là lần sau hết cho con, vì Chúa đã cho khỏi sự chết lúc trước, song sự yếu đuối cơn bịnh thì còn luôn. Con cám ơn Chúa, vì cơn bịnh nầy là dấu Chúa thương con cho con đặng dọn mình chết lành, song con tiếc một đều là con không đặng chịu khó hơn nữa: …Chỗ khác than thở với Chúa rằng: Lạy Chúa, việc đó con lấy làm khó, song con thưa với Chúa, nếu Chúa muốn dùng con như tôi tá Chúa để giúp việc nhà Chúa, thì con dưng mình lãnh lo việc ấy… Nếu Chúa muốn bỏ con ra như đầy tớ vô ích thì con cũng vui lòng!”

Ít hàng đó, cách nói đơn sơ thật thà, song đầy lòng kính mến Chúa cùng tỏ ra lòng khiêm nhượng của bà Anê Linh.

Chúc nguyền cho trong nhà nữ tu xứ nầy đặng nhiều người tài đức như bà Anê Linh.

Cúi xin Chúa nhơn từ cho linh hồn Anê đặng lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đ. C. T hưởng phước vui vẻ vô cùng. Amen.

(Chung)

N. P. C. Q

. Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1927


Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2022

Hạnh Dì Madalêna Diên - Nhà phước Thủ Thiêm

HẠNH DÌ MADALÊNA DIÊN

Nhà phước Thủ-thiêm.

---------------------------------

Một Dì thuộc Dòng Chị em mến thánh giá, tuổi đi quá bát tuần, mới qua đời tại Nhà phước Thủ-thiêm hôm ngày 16 Mai, tưởng nên kể qua lý lịch và hạnh kiểm của Dì cho chư độc giả rõ.

Dì Madalêna Diên sinh ra năm 1850, người quê quán tại họ Giồng-rùm (Trà-vinh), là con của ông Raymongđô Dương-Văn-Mưu và bà Mátta Nguyễn-thị-Bường. Dì vào tu tại Nhà Phước Thủ-thiêm năm 1873, và đến năm 1876 thì khấn hứa theo luật Dòng. Khấn hứa đoạn, Dì đi dạy tại Bàrịa. Cách ít lâu, Bề trên đổi Dì lên Búng (Thủ-dầu-Một), ở đó trên 10 năm. Họ Búng con nít thật đông, nhờ Dì nông công dạy dỗ, mà chúng nó ham học thì mau tấn tới. Sau bề trên kêu Dì trở về Nhà phước coi việc nhà nhuộm, Dầu công việc ở Búng đang tấn phát và nam nữ lớn bé trong họ đang tríu mến Dì, song vừa nghe lịnh Bề trên, Dì liền vui lòng tuân theo và ân cần làm việc Bề trên chỉ biểu.

Khi họ Thủ-dầu-một mới khai trương, xin các Dì lên dạy, thì Bề trên sai Dì lên đó. Đương ở nhà nhuộm, công việc đã thạo và ra dễ dàng, lại phải đi lãnh dạy trẻ con ở một trường mới mở, thật là một việc rất khó. Dầu vậy, Dì cứ một mực vui vẻ vâng lời, và hết sức siêng năng cần mẫn, cho nên trẻ con học mau thuộc và mau thông hiểu lẽ đạo.

Bề trên lại đổi Dì đi Bến-sắn, Bến-cát, cũng thuộc hạt Thủ-dầu-một. Bất luận ở đâu, dầu lâu hay mau, Dì cũng hết lòng làm trọn bổn phận và được thiên hạ mến yêu.

Lúc Đức cha J.B Tòng làm cha chánh sở Bàrịa, Ngài thấy dân Quảng-Bình vào ở đánh cá rất đông, số bổn đạo càng ngày càng tăng, một mình Ngài lo không xuể, nên đã xin Bề trên cho 2 Dì xuống giúp Ngài. Lúc ấy là đầu năm 1919, Bề trên sai 2 Dì đi Bàrịa, dạy tại Xóm-lưới. Trong số ấy có Dì Madalêna Diên, khi ấy đã 69 tuổi, chẳng nệ nhọc thân cực trí, cứ nhắm mắt vưng lời. Dì rất siêng năng sốt sắng việc linh hồn; thường ngày khi mãn giờ dạy trẻ ở trường, thì Dì đi đến các nhà bổn đạo khuyên lơn an ủi những kẻ nguội lạnh rối rắm. Nhờ đó, Chúa ban ơn cho phô kẻ ai biết nghe lời Dì mà lo trở lại.

Theo luật nhà Dòng, hễ ai khấn hứa đủ 50 năm, thì Chị em trong nhà ăn mừng lễ Vàng.

Vì vậy, năm 1926, Nhà phước Thủ-thiêm đã ăn mừng đệ ngũ thập châu niên Dì Madalêna Diên khấn hứa trong Dòng.

Qua năm 1928, tuổi Dì quá thất tuần, bịnh hoạn, yếu đuối; Dì phải trở về Nhà phước đặng điều dưỡng. Hễ Dì nghe ở xung quanh có ai ngoại, hoặc có đạo mà rối rắm gần chết, thì Dì mau chơn đến tận nơi an ủi nó trở lại. Năm 1930, Dì lãnh coi sóc nhà Hài-đồng của Nhà phước Thủ-thiêm. Dầu già cả mệt nhọc, mà Dì rất mến thương con trẻ, hằng săn sóc chúng nó luôn luôn.

Được ít lâu, Dì phát bịnh, nên phải nghỉ coi nhà Hài-đồng. Nghỉ thì nghỉ, mà nào Dì có chịu ở nhưng; cả ngày lo làm việc giúp Nhà phước, lo làm bông cho họ nầy họ kia.

Đầu tháng Mars năm nay (1933), Cha sở họ Phước Khánh, J.B. Đồng, thấy tại làng Bình-khánh, trong sở Ngài, có nhiều người muốn trở lại đạo, nên cha xin 2 Dì đến giúp, Bề trên lại sai Dì Malalêna đi với một Dì nữa. Dù biết sức hơi mình đã tổn, song đã quyết ý dưng trót mình và trót đời mình để làm tôi Chúa, thì Dì cúi đầu vưng ý Bề trên, sẵn lòng tế lễ mạng sống mình cho Chúa, vì không có nhà ở, nên khi đến nơi dạy, phải ở đậu bạc nơi nhà bổn đạo. Dì dạy xong xuôi, cha rửa tội được 15 người và làm phép hôn phối được 3 đôi.

Đang còn dạy, Dì phát bịnh nặng, phải trở về Nhà phước. Không đầy 3 tuần, Dì đã trút linh hồn bằng an trong Chúa. hưởng thọ được 83 tuổi, ở Nhà phước được 60 năm, khấn hứa được 57 năm.

Cả đời Dì ở Nhà phước, chỉ biết có một sự vưng lời và siêng năng làm việc, đáng nên gương cho các chị em trong Dòng noi dõi. Ất Chúa đã dành để phần thưởng trọng vọng châu báu cho Dì ở trên Thiên đàng. Nếu lúc còn sống, Dì có nhuốm phải đôi chút bụi trần thế, thì các chị em trong nhà phước và các bổn đạo, nhứt là những kẻ đã thọ ơn Dì giáo dục khuyên lơn, xin cầu nguyện cho linh hồn Dì mau khỏi nơi luyện ngục, mà đặng vào chốn hỉ hoan đời đời.

Một dì nhà phước Thủ-thiêm.

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1933

 

 

 

 


Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2022

Cha Emile Moreau (Đức)

CHA EMILE MOREAU

LINH MỤC DÒNG SAI ĐỊA PHẬN NAM KỲ.

---------------------

Sinh ra ngày 13 Juin 1844.

Qua Nam Việt 6 Août 1869.

Qua đời ngày 6 Mai 1912.

---------------------

Cha Emile Moreau (Đức)

EMILE MOREAU sinh ngày 13 tháng Juin, năm Chúa giáng sanh 1844, tại Andrezé, là họ nhỏ về Địa phận Angers, trong nước Langsa. Cha mẹ người đạo đức sốt sắng, cho nên con sổ lòng đầu hôm, thì sáng ngày vội vàng đem đi chịu phép rửa tội.

Khi Emile khôn lớn, thì đi học tiếng Latinh tại trường Combrée, cách xa quê quán chừng 80 dặm đàng. Ở đó người gặp một Thầy cả rất khôn ngoan nhơn đức, tên là Piou, cũng một quê quán cùng người. Thầy cả nầy thấy trò nào có lòng ái mộ việc rỗi linh hồn thiên hạ, cùng ham chịu cực chịu khó vì Chúa, thì người ân cần dạy răn an ủi, cho những trẻ ấy theo ơn Chúa gọi, mà đi giảng đạo bên rốt cõi Đông Dương.

Emile, thuở học trong trường, ăn ở thể nào, thì sau nầy đâu đâu cũng ăn ở thể ấy. Tánh nết người ít oi thật thà, đằm thắm dè dặt, cần kiệm siêng năng, phần xác thì ăn mặc đơn sơ, sức lực mạnh mẽ; phần trí thì có tài xét suy nhằm lý, trí sáng, học giỏi, cùng kể đặng là một đấng thông minh.

Chẳng khỏi bao lâu, cha Piou thấy Emile, tuy bề ngoài không bặt thiệp lịch lãm bao nhiêu, song có đủ đều, cho đặng làm thầy cả cùng đi giảng đạo phương xa, thì cha ấy tỏ thật cho người toan liệu. Emile suy nghĩ ít lâu, cho biết thánh ý Đ C T, cùng cứ việc học hành cho đủ văn chương cách vật, đoạn xin phép vào trường Dòng Sai tại kinh thành Paris.

Emile học tại Paris ba năm, đoạn chịu chức thầy cả, rồi giã từ cha mẹ quê hương, mà trẩy sang Nam Việt cho đến chết. Ấy là của lễ rất trọng vọng châu báu trước mặt Đ C T. Mà Đ C T cũng hứa trả bằng trăm, cùng ban phần phước đời đời cho kẻ tế lễ mình mạnh mẽ dường ấy: “Omnis qui reliquerit domum, aut fratres, aut sorores, aut patrem, aut matrem..., propter nomen meum, centuplum accipiet, et vitam æternam possidebit” (Matt. 19, 29).

Cha Moreau tới Saigon ngày mồng 6 Août 1869, Đức Cha Miche bèn sai người đi Thủ Dầu Một, cho đặng học tiếng an nam, Khỏi ít tháng, Đức Cha lại dạy người đi nhậm sở Chà Và, Cầu Ngang và Cái Đôi, thuở ấy kêu là Rạch Rập, Thâu RâuLáng Sác.

Người về Chà Và ít lâu, kế cha Leprince cũng đổi xuống coi họ Giồng Rùm gần đó. Hai Cha đã qua Nam Kỳ một lượt với nhau, hai cha đã thiết nghĩa cùng nhau cho đến trọn đời. Hai cha giống nhau hai đều lắm lắm: một là ăn ở tiết kiệm khó khăn, trong nhà không biết sửa soạn trần thiết là cái gì; hai là ham học, ham xem kinh sử nói không cùng, năm nọ tháng kia đọc mãi, chẳng khi nhàm. Tại cách ăn ở bề ngoài đơn sơ nghèo khó, còn trí hóa thì mê việc học hành, nên quen gọi hai cha ấy là hai ông Quân tử.

Cha Moreau ở Chà Và được vài năm, đang sốt sắng lo cho danh Cha cả sáng, đang ái mộ việc rỗi linh hồn thiên hạ, bỗng đâu có giặc nổi lên, hăm đốt nhà thờ cùng giết bổn đạo, vì nói tại bổn đạo đem Langsa qua lấy Nam Kỳ.

Lúc ấy là đầu năm 1872. Khi giặc mới dấy, thì tưởng là giặc chòm, khuấy phá sơ qua. Ai dè quân ngụy đã âm mưu tập lập lâu ngày, quyết dấy lên một lượt trong ba hạt: Bến Tre, Vĩnh Long và Trà Vinh.

Mà hẳn thật nó đi làm như mưu mô đã lập: nó giết ba bốn người có đạo tại Cái Tắt (Cái Mơng), đốt nhiều nhà thờ trong ba hạt mới kể trước nầy, chém quan tham biện Vĩnh Long cùng một thông ngôn và chín tên lính an nam theo tham biện, phía dưới Vũng Liêm. Cha Abonnel, là anh ruột cha Abonnel ở Gò Công bây giờ, bị giặc giết cùng một người có đạo, trong kinh mới, gọi là kinh Luro, về hạt Trà Vinh.

Cùng một khi ấy Đề Triệu, là tướng giặc, đem binh đốt nhà thờ Cầu Ngang, và tính kéo lên phá họ Chà Và.

Cha Moreau thấy con chiên mình cheo leo lắm, bèn đem bổn đạo lên Giồng Rùm, hiệp cùng cha Leprince cho đặng mạnh thế, cho gần Trà Vinh, mà xin quan trên cho binh tiếp cứu. Rủi, ngày ấy binh mắc đi dẹp giặc bên phía Ất Ếch. Nên quan trả lời xin hai cha toan liệu thể nào mặc ý, vì quan quân không có mà tiếp cứu.

Khi ấy giặc đóng tại Cầu Ngang, trống giống om trời, tiếng reo dậy xứ; thiên hạ nhổm chơn. Hai cha thấy việc hiểm nguy, phải liều mình vì đoàn chiên, bèn tuyển những người tráng lực trong hai họ, mà lập nên một đạo binh ứng ngãi.

Đoạn sắp binh ra trận. Hai cha cầm súng đi trước, kế một khẩu súng đồng tiếp theo. Binh kéo băng ngang qua đồng. Tới đầu làng Mĩ Cẩm, cách binh giặc chừng ít ngàn thước, cha đặt ống dòm, thấy bên giặc đang chạy lăng xăng. Ấy là dân chạy thám. Cha bèn dạy bắn một phát súng đồng, tức thì thấy giặc đổ xuống phía Thâu Râu. Hai cha kéo thẳng xuống, khỏi xóm Bùng Binh, bắn một phát súng đồng nữa. Bên giặc thấy có hai ông Tây, và súng ống binh lính hẳn hòi, bèn chạy tuốt qua phía biển.

Binh có đạo đắc thế, đuổi theo, bắt đặng 17 tên ngụy, dẫn về Giồng Rùm. Bữa sau trên Trà Vinh quan đem binh xuống dẹp giặc, thì bổn đạo nạp 17 tên ngụy đã bắt đặng ngày trước cho quan trị tội.

Giặc yên rồi, cha Moreau đem bổn đạo về Chà Và. Cha cùng con, cữa nhà tan hoang, đồ đạc mất hết. Cha con hui hút với nhau chẳng đặng bao lâu, kế bị một trận bão, cũng nội năm 1872 ấy: nhà thờ, nhà cha sập ráo. Ngày ấy có cha Leprince xuống thăm, không chỗ ở, còn có một vựa lúa khỏi sập, nên hai cha vào đụt đó ba bốn ngày.

Bão rồi, cha cất nhà thờ lại. Đoạn đấp một lộ thẳng ra rạch, và khai một kinh cũng ra rạch ấy. Đó là kinh Chà Và bây giờ; người ta kêu là kinh nhà thờ, hay là kinh cha Đức (là tên an nam cha Moreau). Bổn đạo nhờ kinh ấy lắm: lòi lúa gạo, chuyên chở vật chi cùng tiện bề thông lợi..

Qua năm 1873 người phát bệnh nặng, phải lên Bãi Xan, ở. nhà cha Thinselin mà uống thuốc. Ở đó ít lâu không khá, người bèn qua Mỹ Tho, ở nhà cha Moulins. Khi vừa mạnh, thì lật đật trở về Chà Và, mà coi sóc đoàn chiên Chúa.

Thuở ấy một mình cha Moreau coi từ Chà Và, Cầu Ngang cho tới Láng Sắc. Việc đi họ là việc rất cam go, vì đàng sá chưa có. Đàng bộ, thì đi theo bờ ruộng, lội bàu lội bưng; phần thì đế sậy lợp khỏi đầu, phải vạch mà đi; phần thì đĩa, vắt, cực khổ trăm bề.

Còn đàng ghe cho tới Láng Sắc, là hai ba ngày đàng: mưa nắng, muỗi mòng, bực bội, khó đi lắm. Nhưng vậy người hằng hớn hở liều mình, mà lo việc rỗi linh hồn giáo hữu.

Người có lòng thương bổn đạo lắm, nhứt là chầu nhưng, đạo mới cùng con nhà nghèo. Người hay cho của ăn đồ mặc, tiền bạc, thuốc men. Khi thì trả nợ giùm, khi lại giúp chầu nhưng lập nghiệp. Gần nhà thờ, có một nhà nghèo cực lắm, hai vợ chồng với một đứa con. Người chồng hay đi câu nhắp. Bổn tánh cha làm lành, thì hay giấu, giữ lời Đ C G dạy rằng: Hễ tay mặt làm phước, thì đừng cho tay trái hay: “Nesciat sinistra tua quid faciat dextera tua”( Matt. 6,3). Vậy mỗi tuần cha mỗi đi dạo theo bờ ruộng, kiếm người ấy, mà cho một hai đồng bạc, biểu mua gạo mà nuôi vợ nuôi con.

Chà Và, Cầu Ngang, Cái Đôi, nhiều kẻ mang ơn người, hãy còn sống bây giờ. Khi người đổi đi rồi, thì mới hay bạc người giúp kẻ khó cũng hết đôi ba trăm.

Họ Chà Và được cha Moreau làm cha sở thứ nhứt, ở tại họ mình đầu hết; cha Moreau cũng được bổn đạo Chà Và làm con đầu lòng, khi mới qua giảng đạo. Người ta nói thương thuở ban đầu, là thương keo sơn bền chặt lắm. Sau nầy, mỗi khi nói đến Chà Và, Cầu Ngang, Cái Đôi, thì người tỏ hình và vui, và thương, và nhớ, mà nhắc mấy tên xưa rằng: Rạch Rập, Thâu Râu, Láng Sắc!

Cha Moreau ở Chà Và được 4 năm, kế Đức Cha Colombert đổi người lên Thủ Ngữ, lối đầu năm 1874. Sở Thủ Ngữ hết thảy là ba họ: Thủ Ngữ, Tân Xuân và Gò công. Người coi họ Gò Công được 10 năm, từ năm 1874 tới năm 1884.

Thuở ấy đất Thủ Ngữ cũng còn hoang vu lũ loạn lắm, chưa thành khoảnh như bây giờ. Bổn đạo Thủ Ngữ và Tân Xuân, hết thảy chừng bảy tám trăm. Mấy năm cha Moreau nhậm đó, thì thêm chừng một hai trăm, trồi sụt từ 900 tới 950.

Thủ Ngữ và Tân Xuân là hai họ liền ranh với nhau, mà là hai họ khác nhau, mỗi họ mỗi có nhà thờ. Người tính nhập lại họ làm một, hầu nên một ràn, cho dễ bề chăn giữ đoàn chiên, cùng sum vầy ấm cúng trong việc thờ phượng Đ C T.

Vậy năm 1878, người mua được một miếng đất gần mé rạch Kỳ Hôn, là nơi cân đường ở giữa hai họ, thì người đã đem nhà thờ về chỗ ấy. Từ đó, Thủ Ngữ và Tân Xuân trở nên một họ, kêu chung là họ Thủ Ngữ.

Chỗ nhà thờ mới nầy, phong cảnh vui đẹp hơn chỗ cũ trong Thủ Ngữ bội phần, nhứt là từ khi khai kinh Chợ Gạo, gọi là kinh Duperré, thì đêm ngày tàu bè lớn nhỏ cùng ghe thương hồ ra vô không khi ngớt.

Đoạn người lo đấp một đường từ nhà thờ mới vô tới nhà thờ cũ, là xóm bổn đạo ở đông, cho tắt đường đi nhà thờ, cùng khỏi qua nhiều cầu, khỏi lội nhiều nơi bùn nẩy. Từ ấy đến rày bổn đạo nhờ đường ấy lắm. .

Song cuộc đất vườn, ai ai cũng rõ: biết là bao nhiêu mương, xẻo, rạch, ngòi; cho nên cũng biết là bao nhiêu cầu kì mà kể! Mà thứ cầu đó là một hai cây cau, vài ba cây tre, hay là một cây dừa bắt ngang qua đường nước, rồi không ai lo tới nữa, ai đi được thì đi, ai té thì chịu; có khi lối xóm cũng rút cầu mà dùng việc nhà. Thứ cầu ấy kêu là cầu khỉ; cầu khỉ mà bắt cho người ta đi, mới là ngặt nghèo! Trót mùa mưa, thì bùn lầy trơn trợt; khi nước ròng nước lớn, ngập cầu, trôi cầu, thì rất đỗi éo le, nhứt là khi đã có gương con nít té cầu, mà chết chìm trong mương trong rạch.

Bỡi cớ ấy, nên sinh thiệt hại cho linh hồn giáo hữu nhiều bề. Phận cha sở, một lần đi kẻ liệt, hay là đi viếng họ, là một lần cực khổ, thì chẳng nói chi; mà việc bổn đạo đi đọc kinh xem lễ, nhứt là việc đồng nhi đi học cùng đi nghe dạy Sách Phần, thì rất khó là thể nào! Vì vậy người trễ nải, hoặc ít đến nhà thờ, hoặc không khi nào đến; kẻ tầm thường, thì rán đi xem lễ Chúa nhựt lễ cả, rồi thôi. .

Mấy năm cha Moreau ở Thủ Ngữ, người buồn rầu năn nỉ về đều ấy không biết mấy lần. Người thấy nhiều chỗ lập Hội nầy hội khác, bày việc lành nọ việc phước đức kia, để giúp giáo nhơn tấn tới trong đàng lành, cùng thêm lòng kính mến Chúa, thì người buồn mà than rằng: Trong họ tôi, tôi làm hết sức mà lập hai Hội: một là Hội bổn đạo đi xem lễ ngày Chúa nhựt lễ cả cho đông; hai là Hội đồng nhi đi nghe dạy cho thường..

Mà thiệt, người đã làm hết sức, đến đỗi kêu sổ mỗi ngày Chúa nhựt trong nhà thờ; chẳng những kêu tên đồng nhi nghe dạy Sách Phần, mà có lúc cũng kêu sổ mỗi nhà bổn đạo, cho đặng biết ai đi xem lễ ai không..

Còn một việc cha Moreau hằng lo lắng hết lòng: là cất đền thờ cho xứng đáng cho Đ C T ngự. Nhà thờ mới đem về rạch Kỳ Hôn đã nói trước nầy, là nhà thờ nhỏ, vách ván, ban đầu lợp lá, rồi sau lợp ngói. Song nhà thờ ấy là nhà thờ tạm mà thôi. Người có ý cất nhà thờ lớn đã lâu, đoạn để nhà thờ tạm ấy mà làm trường học.

Song bỡi họ nghèo, vườn đất thì nhiều, mà huê lợi thì không bao nhiêu, cho nên việc cất nhà thờ lớn giãn ra lâu dài dường ấy. Người cần kiệm lắm; ở họ nào, dầu họ ấy mắc nợ bao nhiêu, thì người cũng nhín nhúc mà trả cho hết, rồi lại lo cho có của dư, hầu dễ bề toan liệu trong việc thờ phượng Chúa. Người chẳng chịu xin xỏ của ai.

Vậy người góp nhóp hơn 10 năm, mới có vừa đủ mà gầy việc. Người bèn mua gỗ súc đủ thứ, cùng mướn thợ làm kèo cột, mấy vày nhà thờ sẵn sàng; lại lo xây nền, xong xuôi mọi sự, còn dư đôi ba ngàn đồng, để lo mọi việc cho thành, kế được tin đổi lên Chợ Lớn, chẳng đặng thấy việc mình ước ao sở nguyện bấy lâu.

Cha Moreau ở Thủ Ngữ lâu năm, mà bề ngoài vắng hoe, không tiếng tăm gì, không làm chi cả thể, không ai nói tới. Chẳng qua là vì người yêu ở khiêm nhượng khó khăn, cùng ưa tịch mạc một mình, không cầu ai khen, không sợ ai chê, không trông ai biết tới mình. Người giữ lời ông thánh Phaolồ khuyên bổn đạo xưa tránh cuộc vinh hoa ở đời, mà sống âm thầm khuất tịch cùng Đ C G: “Vita vestra est abscondita cum Christo in Deo” Col. 3,3).

Người cứ việc thương giúp kẻ khó, như khi ở Chà Và. Chẳng ai nghèo cực đói rách chạy đến cùng người, mà về tay không bao giờ. Người ân cần mọi việc bổn phận về đấng chăn chiên lành; đoạn bao nhiêu giờ rảnh thì cứ kinh sử, sách vở, cùng sống kín nhiệm với Đ C T.

Mà sự ở thanh vắng, và sống Kín nhiệm cùng Chúa giúp linh hồn tấn tới trong đàng trọn lành, và lập công nghiệp kể chẳng xiết: In silentio et quiete proficit anima devota (Imit. lib. I, cap. 20). Vì vậy nói được về cha Moreau rằng: Ngày người sống ở đời là ngày đầy dẫy công nghiệp, “El dies pleni invenientur in eis” (Ps. 72, 10).

Từ khi người bước chơn vào đất Nam Kỳ, cho đến ngày người qua đời, là 43 năm, thì chẳng khi nào người ra khỏi đất ấy. Nói được cha Moreau hằng ở nhà, cùng có mặt tại sở mình luôn.

Dầu người đau nhiều phen, nhứt là khi mới về Thủ Ngủ, đau một trận trót ba tháng trường, song người chẳng hề xin đi Hong-Kong, hay là đi nơi nào khác mà nghỉ bao giờ.

Vậy cha Moreau ở họ Thủ Ngữ, như thầy tu ẩn ánh rừng xanh, như chim nọ an thân trong ổ. Ngày qua tháng lại, tính được 21 năm trời; càng ngày càng thêm thương chốn thấp hèn, một lâu một thêm mến nơi sầm uất, lòng mong tưởng ngụ có cho đến mãn đời: “In nidulo meo moriar” ( Job, 29, 18). Hay đâu ý Chúa đã định cho người bỏ nơi tịch mạc, mà về chốn thị thiềng, hầu trau chuốt linh hồn cho trọn bề đức hạnh.

Cuối năm 1895 cha Moreau đổi về Chợ Lớn, lòng ngậm ngùi nhớ tưởng chốn thanh vắng xưa; nhưng vậy người cúi đầu vưng theo ý Chúa, cùng siêng năng sốt sắng, bổn phận trọn niềm..

Cha Moreau là người ngay thẳng, chẳng tày vị ai; bề ngoài chơn chất thật thà, không hay đãi đưa bom phóp, lại coi tuồng lợt lạt khô khan. Cho nên hàng viên quan hào phú có việc tới lui cùng người, mà chưa biết tính người, e khi phiền hà nẵn nỉ; mà khi biết người, thì thương kính yêu vì..

Có nhiều thứ trái, bề ngoài nhám nhúa chông gai, hình thù kịch cỡm, mà bên trong rất ngon ngọt tốt lành. Người đời, ghe kẻ cũng chẳng khác nào: hình duông và cách ăn thói ở bề ngoài, ví dường màn kia thô kệch, ẩn che nhiều nhơn đức trọng tốt bề trong.

Hoa thơm cũng thì hoa thơm, mà thứ thì nở trét giữa trời, kẻ qua người lại hưởng mùi thơm nực; thứ lại một nơi thấp hèn, giấu mình dưới cỏ, làm như thơm cho một mình mình hưởng. Người đời, kẻ thì thông minh cho kẻ khác nặng nhờ; kẻ lại thông thái cho mình mà thôi, chẳng tỏ cho ai, chẳng ham ai biết, hay nghe mà chẳng hay nói, làm như người ít biết ít thông.

Khen thay Đấng Tạo hóa, khéo dựng lòng trí con người cách nầy thế nọ; mà cách thế nào cũng đáng khen đáng ngợi vô cùng: “Mirabilis Deus in sanctis suis” (Ps. 67, 36 ).

Cha Moreau ở Chợ Lớn hơn một năm, rồi đổi di Tân Định, là họ lớn hơn các họ về miệt trên nầy; nhơn số chừng 3000 bổn đạo. Người ở Tân Định hơn 4 năm, vui mừng phỉ dạ, vì gặp nhiều dịp lập công cùng liều mình vì đoàn chiên Chúa: ngồi tòa , giảng dạy, đi kẻ liệt, việc nầy việc khác đáp đổi liền tay. Người phấn chấn làm hết các việc, chẳng tránh trút việc nào. Người quen nói rằng: Dầu một linh hồn mà thôi, thì công việc mình, cũng phải làm, đường bằng làm cho cả và họ. Lớn điền lớn đất, thì lớn việc cày bừa gieo vải; mà việc gặt hái cũng thành, cũng vui. Người nói cùng cha kia rằng: Gánh thiệt là nặng, mà lưng tôi cũng lớn khá, vác nặng còn nổi.

Song cha Moreau tới đâu, cũng tỏ đức yêu người rõ ràng hơn nhiều đức khác. Khi ở Tân Định, thì người có một cha An Nam ở giúp. Người giao hễ mỗi ngày, khi lót lòng rồi, thì hai cha thay phiên mà đi một cha một phía trong họ, cho đặng biết trong giáo hữu có ai đau đớn liệt lào, hay là khó khăn đói rách, hầu giúp đỡ. Khi về thì hiệp nhau, mà thuật lại các truyện mình đã nghe thấy. Bữa kia cha phó nói mình gặp một người đau lâu ngày, bỏ sở mần, cho nên thiếu ăn. Cha Moreau hỏi người ấy ở đường nào, số nào, đoạn lén đi thăm, cùng cho bạc, biểu mua ăn và uống thuốc. Nhiều kẻ đã đặng ơn người thương giúp như vậy, sau nói lại thì mới hay.

Chẳng những người giúp đỡ kẻ khó khăn trong giáo hữu, mà lại cũng tư trợ những cha thốn thiếu. Có một lần, nhằm buổi các cha An Nam cấm phòng, thì người hỏi trong các cha, cha nào thiếu thốn hơn. Cha phó chỉ tên ít cha. Khi ra phòng, thì người giúp mấy cha ấy bộn bạc. Lại cho cha kia 100 đồng. Cha ấy sửng, hỏi bạc gì? Thì cha Moreau nói: là bạc bán chuông, cha lấy mà xài. Người ưa chuộng lắm; khi ở Thủ Ngữ, người xuất tiền riêng của mình, mà mua sáu cái chuông. Sau đó bán lẻ, lấy tiền mà làm phước.

Vậy người ở Tân Định công lao khó nhọc càng nhiều, thì lòng càng thương mến hoàn thiện; mà đoàn chiên lại mến chủ chăn. Cho nên tự nhiên khi phải đổi đi, thì đau lòng xót dạ ai kể cho cùng. Mà cha Morneau thiệt là người khiêm nhượng, nhịn nhục, và vưng lời chịu lụy phi thường. Sau nầy người nói về đức vưng lời một câu rất đáng nhớ rằng: Chẳng có sự gì tốt lành cho bằng vưng lời chịu lụy, Dầu ở đâu mặc lòng, hễ là vưng lời, thì đẹp lòng Chúa cùng bằng an luôn: “Vir obediens loquetur victoriam” (Prov. 21, 28).

Qua năm 1902, cha Moreau về coi nhà thương lính, thường kêu là nhà thương đồn đất, vì thuở cựu trào có một cái đồn, vách đất, ở nơi đây. Sở nầy là sở sau hết, người nhận cho đến khi qua đời, được 10 năm chẵn.

Năm năm đầu thì người ở luôn trong nhà thương, như các cha hồi trước. Năm năm sau thì người ở nhà trường Latinh, vì chẳng đặng phép ở luôn trong nhà thương, cũng chẳng có nhà để cho thầy cả ở trong ấy nữa. Mà khi người ở nhà trường, thì mỗi bữa tối mỗi đi ngủ trong nhà thương, ngủ cực khổ tức tưởi trong phòng đồ lễ, mà người cũng cam lòng chịu cực, ngủ nhờ nơi ấy hơn ba năm, cho đặng gần gũi với kẻ liệt khi đêm hôm gấp rúc. Việc đi nhà thương, thì thường thường người đi bộ. Chừng hai năm sau hết, thì người chẳng còn đi ngủ trong nhà thương nữa, một đi làm lễ ngày Chúa nhựt lễ cả mà thôi, vì người già yếu, khó nỗi đi đi về về một ngày hai ba lần. Lại con mắt muốn lờ, lỗ tai muốn lảng; cho nên đêm kia người bị xe cán tại đường Lagrandière, khi đi nhà thương mà ngủ như mọi lần.

Dầu khi người ở luôn trong nhà thương, dầu khi về ở nhà trường, thì mỗi ngày người mỗi đi viếng kẻ liệt trong các phòng bịnh ở, làm như Đ C G xưa đi rảo các thành... mà chữa các giống bịnh hoạn tật nguyền: “Et circuibat Jesus omnes civitates... curans omnem languorem et omnem infirmitatem” (Matt. 9, 35). Người chẳng đặng phép chữa tật bệnh phần xác như Đ C G, song người hết lòng an ủi giúp đở phần xác, cho đặng cứu chữa linh hồn.

Bổn tánh người nhịn nhục hiền lành lắm. Dầu ai nói, ai làm đều gì sỉ nhục cho mấy, người cũng làm thinh mà chịu; chẳng khi nào theo tính nóng nảy, chẳng hề nói lời gì xẳng xớm với ai. Phương chi cách người ăn ở với kẻ liệt, thì nhịn nhục hiền lành là thế nào hơn nữa! Ghe phen người bị nhiều đều sỉ nhục, mà người cứ một lòng nhịn nhục hiền lành, dùng nhu nhược mà thắng cang cường: “Vince in bomo malum” (Rom. 12, 21 ), cho đặng đem chiên lạc trở về cùng Chúa.

Việc coi nhà thương nầy là việc rất khó, ghe phen cũng là việc rất đắng cay, chẳng gặp sự an ủi như trong các nhà thương khác. Nhưng vậy người cam lòng ngậm cay nuốt đắng, mà trong sự an ủi ngày sau, khi nghe lời Đấng phán xét rằng: “Infirms, et visitastis me”(Matt. 25, 36), Tao liệt lào, bay đã viếng thăm, thì bay hãy vào nước Cha Tao đã sắm sẵn cho bay, mà hưởng phước đời đời: “Possidete paratum vobis regnum à constitutione mundi”(Matt. ibid.).

Cha Moreau coi nhà thương, chẳng những làm lành trong nhà thương, mà lại thi ân nơi khác. Người giúp các cha thốn thiếu, hoặc giúp việc cất nhà thờ, hoặc giúp làm nhà cha sở nơi nọ nơi kia.

Mấy năm ở nhà trường, thì người giúp học trò cũng nhiều, cho học trò sắm áo quần, sách vở, cùng những vật cần dùng. Có một trò kia đau nặng, phải ở nhà thương cho quan thầy điều trị, thì mới trong đặng lành. Mà bỡi cha mẹ nghèo, thì cha Moreau đã chịu tiền nhà thương cho trò ấy là 200 đồng. Nay trò ấy thuyên bịnh, và còn ở nhà trường, là nhờ ơn người thương giúp.

Chẳng những là người làm phước chỗ gần, mà lại cũng phân phát ơn lành nơi xa. Khi người qua đời rồi, thì gặp trong phòng người một tấm hình, họa nhà ở và học trò nhà trường Cuénot, là trường thấy giảng của cha Guerlach, là cố chính Địa phận Bình Định, đã lập trên Mọi. Sau lưng tấm hình có đề chư rằng: Au Révérend Père Moreau, bienfaiteur de l'École Cuénot: Dưng hình nầy cho cha Moreau, là đấng làm ơn lành cho nhà trường Cuénot.

Ba ngày trước khi người qua đời, có một cha đến thăm người, thì gặp trai kia chừng 18, 19 tuổi đang nói chuyện với người. Cha ấy bèn hỏi trai nầy ở đâu và đi việc gì? Người nói nó là một đứa mồ côi, người đã cầm đầu cho nó, đã chịu tiền cho nó ăn học tại Taberd được vài năm, rồi nó bỏ học, cứ ít bữa tới xin như vậy luôn, người đã tốn cho nó quá 500 đồng. Mà con cầm đầu của người như vậy, không phải một đứa ấy mà thôi.

Thôi, kể chi lâu dài, việc phước đức người nói sao cho xiết. Xem ra người biết dùng tiền bạc, mà làm phước mà thôi, chẳng biết dùng mà làm việc gì khác, chẳng hề sắm một vật gì cho đáng.

Chúa thấy công nghiệp phước đức người đã thậm dày, thì Chúa gọi người về mà ban thưởng. Cha Moreau quá lục tuần đã lâu, mà coi còn sõi lắm, tưởng còn sống được nhiều năm. Song cách một năm nay, thì người bớt sức nhiều, hay mệt, hay nhắc giờ chết.

Bịnh thình lình lắm. Trưa ngày thứ bảy, 4 Mai, người còn mạnh khỏe như thường, kế lối 4 giờ chiều có một thêy lên phòng người, thì thấy người nằm trên ghế dài, không còn máy động. Thầy ấy hỏi, người không trả lời, cứng miệng cứng lưỡi, bất toại nửa thân mình, phía tả, từ trên đầu cho tới dưới chơn.

Thầy ấy bèn chạy kêu các cha. Các cha tựu tới giúp đỡ, cùng rước quan thầy Angier. Quan thầy khám bệnh, thì nói người bị hémorragie cérébrale nặng lắm,( bịnh đã làm cho máu tụ lên trên đầu nhiều quá, có khi nứt mạch máu ở trong, mà chết). Quan thầy dạy khiêng người qua nhà thương của mình, sau nhà phước Trắng, cùng hết lòng lo phương cứu chữa, mà không kịp.

Sáng Chúa nhựt, 5 Mai, quan thầy thấy không dấu bớt, thì xin lo cho người được chịu các phép. Người chịu các phép đang khi tỉnh táo lắm. Khi xức dầu, thì người chăm chỉ nghe đọc kinh cùng làm dấu thánh giá đặng, vì bên hữu khỏi bất toại.

Sáng thứ hai, 6 Mai, người hấp hối cho đến gần hai giờ trưa, thì linh hồn lìa xác bằng an trong tay Chúa. Và đau và chết, không đầy hai ngày. Đoạn đem xác người về nhà trường Latinh.

Sáng thứ ba, 7 Mai, sớm mai hát lễ trọng thể, chiều hát kinh cầu cho các đẳng (Vêpes des morts); loạn mai táng tại Chí Hòa, một bên lăng Cha cả.

Đức Cha cùng các cha xung quanh Saigon tề tựu đủ mặt. Thầy dòng, nhà phước cũng đông. Trong giáo hữu, nhiều kẻ quen biết người, cũng đến chầu lễ tống táng, nhứt là bổn đạo Tân Định đông lắm. Quan Nguyên Soái cho quan hầu đến thay mặt, chung tình thương tiếc cùng Hội thánh Nam Kỳ. Hàng viên quan, cai, cùng lính trong nhà thương đồn đất cũng đến, mà đưa người một phen sau hết.

Nhựt trình “Dépêche” kể lược qua cuộc cha Moreau tạ thế, thì rằng: Cha Emile Moreau biệt trần, làm cho những kẻ quen biết người đều thảm sầu thương tiếc. Thuở còn sống, người ăn ở rất tốt lành, làm cho nhiều kẻ yêu vì mến đức.

Cha Moreau hưởng thọ 68 năm, làm thầy cả cùng giảng đạo trong Nam Kỳ 43 năm..

Tánh hạnh cùng nhơn đức cha Moreau tóm lại một đức yêu người: cha ở nhỏ nhoi với hết mọi người, chẳng hề kiểu cách với ai, chẳng giận hờn ai, chẳng hề nói động tới ai. Lại người trải dạ thương giúp kẻ khó khăn cùng người mồ côi cô độc kể chẳng xiết; ắt nay Đ C T cũng mến yêu và ban thưởng cân xứng công nghiệp người, như lời Kinh thánh rằng: Người đã rộng tay phân phát cho kẻ khó khăn thì phước đức người còn bia muôn kiếp, người sẽ đặng cao sang vinh hiển đời đời.

“Dispersit, dedit pauperibus:

justitia ejus manet in sæculum sæculi,

cornu ejus exaltabitur in gloria” (Ps. 111, 9).

J. B. TÒNG.

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1912

 

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2022

Truyện tích Cha Jean Rénier

 TRUYỆN TÍCH CHA JEAN RENIER

---------------------

Cha Jean Renier sinh ra tại Challains-la-Potherie (Maine et Loire)

ngày 29 Octobre 1853; qua Nam Kỳ 29 Décembre 1881; qua đời tại nhà thương Angier (Saigon)ngày 24 Avril năm 1922.

Từ hôm cha Renier chết đến nay đã hơn bảy tháng rồi, khi cha mới chết, tôi muốn ra tay chép lạnh cha tức thì, song tôi không dám xướng tài, có ý đợi có đấng nào biết rõ hơn mà kể tích cha, chẳng hay từ đó đến nay thấy một ngày một biệt, nên không lẽ làm thinh mà để vậy, thì ấm ức cái tấm lòng.

Đã hay rằng: hễ chết rồi thì mọi sự hết rồi. Song tục thường nói. Hùm thát để da người ta thát để tiếng, vả lại người lành, kẻ dữ khi chết xuống mồ rồi thì đều để tiếng lại đời, nhắc tới kẻ lành đặng tặng khen và bắt chước theo gương tốt người lành; nhắc tới kẻ dữ đặng ngừa tránh những gương xấu kẻ dữ làm.

Cha Jean Renier thật là người ngay lành, nếu bỏ qua chẳng nhắc tới hạnh của người thì tủi bụng, vì các nhơn đức cùng những công lao khó nhọc của người đã làm và đã chịu khi còn sống, thì nên bia tạc cho ai nấy bắt chước, mà nhắc tới thì chạnh lòng vì công nghiệp của người còn ràng ràng đó, mà người rày đâu?

Tuy vậy mặc dầu tôi rán viết bài nhỏ mọn nầy, đặng trước là tỏ tình cảm mến cha linh hồn, sau là cho kẻ mới tới trong họ Mỹ tho đặng tường những công lao khó nhọc của cha, đã làm cho cả và họ ngày nay được vĩnh viễn.

Cha Jean Renier cao lớn người, râu dài, trán cao, mũi rộng, môi son, mặt mày sáng láng, bộ đi tướng đứng coi khoan thai, cách ăn nói lịch lãm, tánh đằm không hay nóng giận, cung kính kẻ bề trên dịu dàng cùng bạn tác, vui vẻ và hậu đãi người bề dưới. Đã khôn đời lại ngoan đạo, biết mua lòng người ta. Bỡi vậy nào viên quan Langsa, Annam, nào làng xóm, nào người ngoại giáo đều thù tạc vãng lai cùng người, bất luận kẻ sang người hèn, kẻ giầu người nghèo, ai tới viếng người ra về đều an lòng phỉ dạ, hoặc được lời khuyên giáo, hoặc được an ủi, hoặc được giúp đỡ phần hồn phần xác. Thiệt cho là người siêng năng: làm lễ rồi thì dạy sách phần, ngồi tòa, đi vào đầu nầy đầu nọ coi thợ thầy làm, viếng nhà trường nam, trường nữ, nhà thương trong, nhà thương ngoài, thăm kẻ liệt lào bịnh hoạn trong họ, đi cù lao Rồng; ít lâu thì đi viếng mấy họ nhỏ xung quanh thuộc về phần sở của mình; rảnh thì coi sách, nguyện gẫm hay là lần hột, ngày ngày đều như vậy, trừ ra khi đau ốm thì mới chịu nằm mà thôi..

Cha Renier thuộc về dòng sai, qua Nam Kỳ hồi năm 1881, khi đó người 25 tuổi. Đức Cha gởi người đi Mặc Bắc đặng học tiếng Annam, sau bổ người đi coi họ Biên Hòa; lúc đó thì Biên Hòa còn hoang địa rừng rú hiểm nghèo. Cách ít lâu người đổi về làm cha sở Chợ Đũi. Qua năm 1899 thì người về Mỹ tho thế cho cha Linh (Moulins) đổi về làm nghị viện cho Đức Cha và coi họ chánh Saigon.

Khi cha Renier tới Mytho thì nhà thờ hãy còn ở giữa châu thành, tại chỗ kho rượu bây giờ; còn cha thì ở vòng xung quanh theo chái nhà thờ. Nhà phước thì ở cách xa đó chừng 200 thước phía bên kia đường Dariès. Bổn đạo khi xưa thì ở vây theo nhà thờ đông đảo, mà rày bỡi thành phố mở mang, cuộc công nghệ thương mại tấn phát, nên rút nhau lần lần về Vĩnh Tường, bỏ nhà thờ ở quạnh hiu với năm ba nhà có đạo mà thôi.

Cha Renier về nghĩ vì họ lớn ở nhằm chỗ thị tứ, các cha qua lại thường, mà nhà cha thì hẹp hòi rước khách bất tiện, nên mới cất một cái nhà ở cho khoản khoát (nhà ấy bây giờ cho quan trạng sư mướn), còn nhà thờ, kiểu thiệt tốt, song cất cũng đã lâu, cây ván tuồng trong hư hết nhiều, khó bề tu bổ lại, nếu để vậy thì sợ hiểm nghèo, nên qua năm 1903 cha định phải triệt đặng đem vô Vĩnh Tường cất lại ở giữa bổn đạo. Khi dở nhà thờ lớn rồi thì bổn đạo tựu nhau lại đọc kinh xem lễ tại nhà thờ Vĩnh Tường có cha Antôn Đường.

Qua năm sau (1904) ngày đầu tháng Đ C Bà thì một trận bão dữ tợn làm cho nhà phước mồ côi phải sập và hư hại nhiều. May phước! phải chi nhà thờ lớn chưa dở thì e phải bị tai hại rất to, vì đứng chỗ trúng nhằm luồng gió đi. Bão qua rồi thì nhà mồ côi sáp nhập về nhà thương Vĩnh Tường, bỏ cha sở ở lại một mình.

May lóng đó nhà chung mua được một miếng đất và một cái nhà, cha già Đường dọn về nhà nầy, để nhà mình lại cho cha sở, khi đó hai cha làm lễ trong nhà thờ Vĩnh Tường, nhỏ và chật hẹp cho cả và họ. Cha Renier mới lo cất nhà thờ. Cất vừa rồi thì cha lật đật dọn về ở nơi lầu chuông, giao nhà của mình lại cho thầy dòng, và cha lo dọn dẹp nhà thờ cũ lại đặng làm nhà trường nam.

Song tội nghiệp, nơi lầu chuông đã hẹp hòi lại bị nắng chiều nực nội lắm, lại rủi nhằm lóng đó cha đau con mắt, nên cha phải dọn về ở tạm nơi phòng áo, ở được một ít lâu cha thấy bất tiện, vì khi có khách thứa thì không biết rước vào đâu, nhà cha mới cất một cái nhà lá gần một bên nhà thờ, yên chỗ rồi thì cha lo sửa nhà thờ cũ ra nhà lầu cho có chỗ cho học trò ngủ, khi lo cho học trò nam xong rồi, thì cha tính cất nhà cha lại, vì ở nhà lá thì bất tiện nhiều đều, khi dông mưa thì ướt hết đồ đạc, lại một nỗi sợ hỏa hoạn phát lên thình lình, làm không kịp mà phải thiệt hại, cho nên cha cất nhà cha cũng gần đó cao ráo rộng rãi, cất nhà cha rồi thì cũng chưa nghỉ ngơi được, vì học trò nữ còn ở đậu trong nhà thương, chưa có trường riêng.

Bỡi cha khéo tính, nên cha mua đất ngang nhà thương, vừa chỗ mà lập nhà trường lắm, nội trong mấy tháng thì cuộc đất nầy khi trước là chuồng bò, hào hố, sình nẩy, rày trở nên một cảnh rất xinh đẹp, trong một vuông rào vách tường có nhà lầu, nhà trệt, đèn khí, hồ nước, bông hoa cây cối đâu đó có thứ tự lớp lang, thấy lạ con mắt cho kẻ nào lâu đi tới Mỹ Tho. Ngày nay học trò nam nữ ở Mỹ tho có chỗ ăn học tử tế, khoản khoát, thì nhờ có cha Jean Renier ra tay gầy dựng, nên các trò hãy nhớ tới người, mỗi lần các trò đọc kinh xem lễ, hay là nói khó cùng Chúa, thì xin đừng quên đấng đã làm ơn cho mình.

Cất nhà trường nữ xong rồi, thì cha cũng còn lo nữa, là nhà thờ đất thánh (kêu là nhà thờ bà thánh Annà) đã hư hết sợ sập bất tử, nên cha tính cất lại và đem sụt vô trong, vì chỗ đó gần ngoài sông cái sợ đất lở, nhà thờ cất kiểu thường song coi đẹp con măt.

Bổn đạo thấy cha lòng lành nhơn từ thì thương mến hết sức, năng tới lui thăm viếng, năng nói khó cùng người bàn tính chuyện nọ chuyện kia, thì sự tin tưởng càng ngày càng thêm, mà nhứt là khi thấy cha lo lắng cho bổn đạo và đồng nhi nam nữ lớn nhỏ phần hồn phần xác, thuận thảo cùng mấy trào cha phó đến mà giúp cha, thì bổn đạo đem lòng tin kính và mến thương cha cho đến khi chết, bỡi vậy khi hay tin cha chết thì trong họ lớn nhỏ đều châu lụy nhỏ sa, lại ấm ức vì không được thấy mặt cha mình một phen sau hết, khi được tin nầy thì kẻ đi xe lửa, người đi xe hơi, chuyến xe nào cũng có bổn đạo lên đặng có ý xin xác cha về còn kẻ ở nhà thì lo sắp đặt đặng rước xác cha, song thảm thay!!! Rủi nhằm lúc Đức Cha đi khỏi nên xin xác về không được, và cũng chôn gấp quá nên bổn đạo lên nữa không kịp, thì sự đau đớn chua xót trong họ ai kể cho cùng.

Cha Renier là người trung quân ái quốc, nên trong lúc giặc giã thì cha thúc giục lòng bổn đạo, lo cầu xin cho nước Langsa đặng thắng trận, và ra sức giúp mấy cuộc quốc trái cho thành.

Một khi kia cha đi thăm họ Kiến Vàng ở gần biển, ghe cữa lên rước cha đi nhầm lúc gió nam, chạy buồm chừng năm sáu giờ thì tới, nên ăn bữa trưa rồi, cha xuống ghe không đem đồ ăn theo, vì bạn nói về tới nhà kịp ăn buổi tối. Rủi dọc đàng bị hại trận dông và mưa lớn, phải xả bườm vô rạch đậu núp. Êm trời ra đi khi đó là chín giờ tối mà ghe con linh đinh giữa vời, hai bên bờ thì rừng bụi vắng vẻ không có nhà ai hết, cha đói mà dưới ghe không có một vật chi ăn được, có một gói cá mòi thính của người bạn ghe mua đem về nhà mà thôi, túng làm cha phải ăn hai con cá mòi mặn đó, uống nước lã mà chịu cho đến khi về tới nơi tới chốn thì đã khuya lắm, ướt hết loi ngoi lót ngót.

Tôi có ý thuật chuyện nhỏ mọn nầy, đặng cho ai nấy đem lòng thương mến cha linh hồn mình. Các viên quan thế gian bất luận lớn nhỏ khi ra khỏi nhà, hoặc việc tư, hoặc việc nước, thì đủ no mọi món, tới đâu có kẻ hầu người rước, mà cha linh hồn đi lo việc chung, phải chịu đói khát tất bạc đỗi nầy!

Bấy lâu cha mảng lo cho trong họ thủ túc không quản chi tới thân mình, lúc nầy đâu đó an bài rồi mà cha sống ở đời với con cái không đặng bao lâu kế Chúa đòi về mà thưởng công.

Trong ý cha tưởng mình chưa chết gấp vậy đâu? nên tính đi Đalat đổi gió ít tháng mà bổ sức lại hầu ở cùng con chiên mình đôi năm nữa, ai dè ý nhiệm Chúa khác ý loài người, khi cha sửa soạn đi thì bị một cơn rét nặng, bỡi vậy cha tính không đi để lên nhà thương Angier uống thuốc. Tính xong rồi qua sáng ngày thứ tư cha ra đi, khi đó có một ít người ngó thấy cha trong nhà bước ra mà đi, và ngó ngoái lại cách buồn bực, âu là khi ấy trong lòng cha tưởng thầm rằng: “Không biết mình đi mà có trở lại nữa chăng?” Cha đi chưa được năm ngày kế nghe tin cha lìa khỏi thế, thật rất nên là chua xót! Ý Chúa nhiệm mầu, trí thấp hèn ta suy sao thấu, Chúa định cha phải dời chơn khỏi họ đặng dọn mình chết lành, vì nếu khi đó mà cha chết tại Mỹ Tho, ắt là khó bề nhắm mắt lại, vì con cái người kẻ vô người ra liu chiu lít chít thì thêm cực cho phần trí cha biết là bao nhiêu!! Khi sống cha hay ở an tịnh, nên giờ chết,cha cũng muốn lặng lẽ một mình.

Nguyện xin ngày sau các con chiên của cha đặng hiệp vầy cùng cha lành trên nơi cõi thọ....

H. M.

.Báo nam Kỳ Địa Phận năm 1922

Thứ Hai, 12 tháng 12, 2022

Địa sở Họ Bà Rịa

 KỂ LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ

ĐỊA PHẬN NAM KỲ

--------------------

ĐỊA SỞ HỌ BÀ RỊA

---------------------

PHẦN THỨ NHỨT

Nói về Địa sở Bà Rịa (Đất Đỏ) trong cơn cấm kín bắt đạo.

----------------------

ĐOẠN THỨ NHỨT

 Nói về Địa sở Bà Rịa (Đất Đỏ), hồi trước cơn bắt đạo (1861).

-----------------------

ĐIỀU THỨ NHỨT

 Nói chung về các họ trong Địa sở hồi trước cơn bắt đạo (1861)

-----------------------

Muốn cho biết rõ về địa sở Bà Rịa hồi trước năm 1861, thì phải nói ra trước cuộc thế việc đạo và địa cảnh mấy họ trong địa sở.

Đất Đỏ

Đất Đỏ là họ lớn là như họ chánh trong địa sở; họ nầy nhơn số bổn đạo hồi đó gần 1100 ở rải rác trong ba làng là làng Phước Tuy, Phước Thọ, và Thạnh Mỹ. Nhà thờ hồi thới bình thì cất tại làng Thạnh Mỹ, bây giờ cũng còn lại làng ấy.

Thôm

Bên phía bắc họ Đất Đỏ thì có họ Thôm hồi ấy nhơn số bổn đạo tới 500, ở trong hai làng là làng Long Nhung và Long Hiệp.

Dinh Bà Rịa.

Họ Dinh (Bà Rịa) ở bên phía tây họ Đất Đỏ cách xa nhau mười ngàn thước, nhơn số bổn đạo đặng 400 ở tại làng Phước Lễ, có nha môn huyện có phủ cai trị là quan nhị phẩm, họ nầy trở nên họ chánh địa sở, tục kêu là họ Dinh vì họ nầy ở dưới chơn núi Dinh.

Họ Thành.

Thành thì ở nửa đàng đi Dinh xuống Đất Đỏ ở gần bên hướng nam, gọi là họ Thành vì kêu theo tên chợ gần đó, nhơn số bổn đạo đặng 200 thuộc về làng Long Điền.

Gò Sằm

Họ Gò Sằm ở nhằm bên hướng đông họ Đất Đỏ, là họ nhỏ hơn hết trong địa sở vì nhơn số bổn đạo có 100 lại từ đó đến bây giờ không thêm đặng mà càng bớt.

Ở giữa rừng Nam Kỳ và Bình Thuận và xứ mọi. Gò Sằm là thuộc về làng Thạnh Mỹ.

Theo như sổ sách có đây thì địa sở còn có hai họ nữa, một họ ở làng Long Kiên và một họ ở làng Long Xuyên; gốc tích hai họ nầy dẫn ra sao hồi cơn bắt đạo, đó có lập cái ngục mà cầm con nhà có đạo, hai họ nầy nhỏ nên đã bỏ hồi cơn bắt đạo, tưởng bổn đạo đã trốn đi tản tác qua mấy họ lớn.

ĐIỀU THỨ HAI

Nói về gốc tích kể truyện mấy họ trước cơn bắt đạo 1861.

Gốc tích khi ban sơ lập ra mấy họ ấy, hồi năm 1879 có hỏi ra thì những người bổn đạo tuổi tác không nhớ không nghe nói gốc lập khi nào, tưởng là hồi trước hết khi mới giảng đạo bên xứ Nam Kỳ.

Dấu tích nhà thờ đời xưa hồi đó thì còn thấy tại họ Đất Đỏ, thì biểu là thuở đời đức vua Gia Long, vì xét theo mấy tấm đá còn lại đó là đá táng cột nhà thờ thật rất lớn lao, nên biết đặng thuở ấy họ Đất Đỏ là họ lớn đông nhơn số bổn đạo.

Nhớ thuở ấy họ Đất Đỏ là họ có thầy cả ở đó luôn; là sở chánh cha ở mà đi mấy họ khác trong địa sở.

Cũng tưởng họ Đất Đỏ và họ Thôm hồi đó mỗi họ có nhà trường học, người ta nói có dì phước bạn thánh giá dạy.

Người ta không biết bao nhiêu về các cha đã giúp việc họ địa sở Đất Đỏ, trong những cha ở đó thì biết có cha Giacôbê, có chỗ thì gọi là cha Điền (ta tưởng mà không dám chắc cha Giacôbê cha Điền là một cha vì cây dương nhà thờ Đất Đỏ chỗ thì nói cha Giacôbê trồng, chỗ thì nói cha Điền, không rõ có phải một cha không.), là một cha dòng ông thánh Phanxicô, giúp việc địa sở ấy đời đức vua Gia Long. Trong nhà thờ cũ thì có chôn một cha bổn quốc đó, mà nhà thờ ấy sau cũ hư hay là nhỏ không đủ cho bổn đạo đọc kinh xem lễ, thì người đã lập nhà thờ mới rộng rãi tốt xinh đẹp, theo kiểu annam, trong cơn Minh Mạng bắt đạo, thì đã ra lệnh triệt hạ nhà thờ, nhà nước annam đã lấy đem về trên đồn Dinh mà làm lẫm lúa, bây giờ hãy còn đó để làm trại lính, người ta nói nhà ấy cao lớn rộng rãi tốt hơn nhà thờ Đất Đỏ bây giờ.

Cha Điền đã trồng gần nhà thờ một cây dương, nó đã cố cựu thâm niên nên nó lớn cao hơn hết các cây trong xứ, cây dương ấy thấy đặng xa lắm, nhơn cớ ấy người ta kêu nhà thờ Đất Đỏ là nhà thờ cây dương, hồi bão ngày mồng một tháng Mai năm 1904, thì cây dương ấy trốc gốc ngã.

Trong ba đời vua là Minh Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức, thì mấy sở họ trong địa sở phải chịu bắt bớ dữ dằn: triệt hạ nhà thờ Đất Đỏ nhà nước cướp lấy hết, nên bổn đạo phải chừng lén mà giữ đạo, rất khó bề giữ các cha, hoặc các cha Dòng sai hoặc các cha Bổn quốc, cho đặng giúp việc trong họ.

Cơn Thiệu Trị bắt đạo thì ông Lái Gẫm (Á thánh Vêrô Gẫm) bị bắt. người là gốc ở họ Gò Công (gần Thủ Đức) mà sau cưới vợ người ở Thành cho nên nhập về họ Thành. Người chở Đức cha Đôminicô (Mgr. Lefebvre) về Saigon thì bị đồn thủ bắt, phải ở tù sau làm án xử tử tại tĩnh Gia Định (Saigon).

Đức cha Gioang (Mgr. Miche) có trốn ở tại họ Đất Đỏ ít lâu, người ở đỗ tại nhà ông trùm Sĩ, nhà có hàng rào chắc chắn nên vững thế mà ẩn mình, người ta có đào một cái hầm dưới đất dọn chỗ để hòng khi động dụng thì đem Đức cha xuống đó mà trốn, nhưng làm thế thần như thế mà kẻ nghịch cũng hay đặng, nên phải điệu Đức cha ra ngoài Phước Hải thuê thuyền mà chở người đi đem ra cho khỏi nước, mà Đức cha khéo liệu nên đã khỏi cơn ấy; còn về ông trùm Sĩ thì bị bắt cầm tù tại Biên Hoà người đã chết tại đó.

Trong những cha bổn quốc đã giúp việc trong những họ trong địa sở hồi cơn bắt đạo mấy năm sau, thì còn nhớ những là cha Kiều, cha Lợi, cha Tùng, cha Hạp, cha Hiển, cha Trí; cơn bắt đạo có hơn ba mươi năm dư.

Địa sở Đất Đỏ tuy khi ấy là trong cơn cấm kín bắt bớ đạo thánh mặc lòng, chớ việc đạo thì thạnh lắm, các họ đều chịu bắt bớ lao khổ như nhau, mà có lòng với nhau lắm, dìu dắc nhau lo lắng cho nhau phần hồn phần xác. Thật thì bổn đạo lúc ấy chịu bắt bớ khốn khó lắm, mà còn sánh lại những đều gian nan bắt bớ sau nầy thì là thới quá.

---------------------

ĐOẠN THỨ HAI

Nói về Địa sở Bà Rịa trong cơn bắt đạo từ năm 1861 cho đến 1868

---------------------

ĐIỀU THỨ NHỨT

Nói về khởi sự bắt đạo, lấy sổ những người bổn đạo.

------------------------

Hồi binh Langsa và Iphanho qua lấy Saigon thì Phủ Phước Tuy (Bà Rịa) thuộc về tĩnh Biên Hòa, lúc đó thì không sao chưa có bắt đạo, cách hai năm sau người Langsa qua Nam Kỳ rồi thì mới khỉ sự bắt đạo. Các quan lo lấy lại hai tĩnh người Langsa đã bắt đặng, là tĩnh Gia Định, và Định Tường (Mỹ Tho), nên đã thâu binh nhóm hội tại tĩnh Biên Hòa, mà ngăn ngừa chống trả. Tĩnh Biên Hòa thì là nhơn số bổn đạo đông, ở rải rác theo mấy chỗ lớn, khi ấy các quan truyền bắt các bổn đạo hết mà cầm tù, nhằm trong tháng Aout năm 1861, quan ra lệnh truyền cho các làng mà có bổn đạo ở thì phải làm sổ bổn đạo nam phụ lão ấu hết cho kỷ cang.

Đoạn khi ấy thì mấy tổng lo mà làm bốn cái khám lớn để cầm các bổn đạo đã biên vào sổ và những bổn đạo còn sót chưa biên, vì có nhiều người trốn ẩn mình không biên đặng.

-----------------

ĐIỀU THỨ HAI

Nói về các bổn đạo ở tù, địa thế bốn cái tù.

-----------------

Khi lấy số rồi, thì mỗi làng nắm lấy số ấy mà đi bắt bổn đạo đem nộp cho cai tổng làng mình, đến tổng thì bắt đóng trăng lại cùng thích tự mỗi người hai bên má bổn chữ: Tả đạo Biên Hòa. Có ý hễ mấy người bổn đạo ấy có thoát đi đâu, thì biết mà bắt, như có kẻ đã trốn khỏi còn sống sau nầy, thì dấu thích tự ấy còn vậy hai bên má cho đến chết.

Thích tự đau đớn như vậy rồi thì làm gông đóng lại mà dẫn đem vô trong bốn cái ngục cầm đó.

Ngục chánh thì tại Phủ cách xa dinh quan phủ chừng hai trăm thước tây, tại làng Phước Lễ; ngục ấy thì để cầm đờn ông, số mấy người ở tù ấy gần ba trăm người.

Còn ngục khác thì lập ở tại làng Long Kiên cách xa tù kia bốn năm ngàn thước, ở đó cầm đờn bà và con nít số tới 135 người.

Còn ngục thứ ba thì ở lại làng Long Điền (Thành) bên hữu đàng đi Bà Rịa xuống Đất Đỏ, ở xa đàng đi nhà thờ Thành bây giờ một ít. Ở đó cầm đờn bà và con nít nhơn số là 140.

Sau hết ngục thứ tư thì cầm đờn bà và con nít còn dư lại, nhơn số đặng 125 người, ngục nầy ở tại làng Phước Thọ gần ở giữa họ Đất Đỏ.

Lấy sổ hết trong bốn ngục ấy, bắt cầm bổn đạo cả nhơn số là 700 người thuộc về năm họ trong địa sở. Còn những người trốn khỏi, nó không lấy sổ đặng thì ẩn mình trốn theo ở với mấy nhà kẻ ngoại quen có nhơn, có kẻ thì trốn đặng lên tới Saigon.

---------------------

ĐIỀU THỨ BA

Nói về sự gian truân tân khổ kẻ có đạo khi phải giam cầm trong tù.

---------------------

Mỗi ngục thì có lính canh nhặt nhiệm, có đội có cai, ban đầu trong bổn đạo mấy người có đem tiền theo thì còn lo lót chút đỉnh; thì nó nới tay cho, mấy người khác thì nó hành là thới quá; đến đỗi những đều cần thì nó cũng không cho, nó làm khổ khắc lắm; những người có tiền, lâu ngày không còn thì nó cũng làm khổ sở như mọi người khác, những vật thực đem vô thì nó tra xét, lính nó lấy hết phân nửa rồi mới đưa vô.

Hồi ấy thì là trúng nhằm mùa mưa, là tháng (Septembre 1861), tù thì nó bắt nằm dưới đất ướt át trong mùa mưa như vậy, nên có nhiều người mang bịnh mà bỏ mình; nó không cho đi đâu nới ra một chút, đi sự cần cũng không cho, phải mướn mấy đứa nhỏ đi đổ xức xở. Vậy trong tù thế ấy thì là hôi thúi quá, nên sinh bịnh, ước chớ chi chết thì là hơn sống mà cực thới quá.

Mà nhứt là khám Bà Rịa, là khám tù đờn ông thì quân lính nó hành hà quá lẽ, ba khám khác là khám đờn bà thì quân lính hay nới tay chút đỉnh. Cha Trí hồi ấy khéo lo liệu giả dạng đi bán nước mắm mà viếng thăm, làm phước, ban phép bí tích cho bổn đạo trong ba khám ấy. Người gánh hai đầu hai tĩnh nước mắm, như vậy quân lính không nghi nan, nên mới thăm làm phước cho bổn đạo đặng.

Hồi nhà nước Langsa lấy tĩnh Biên Hòa, khi ấy quan dạy phải chất gai chè nè bố vi bốn cái khám cho tù đạo đừng trốn đặng, và có ý sâu độc là lấy đó làm bổi mà thiêu sống tù đạo khi nguy hiểm.

-----------------------

ĐIỀU THỨ BỐN

Nói về đốt bốn cái ngục 444 người có đạo phải chết thiêu (ngày mồng 7 tháng Janvier năm 1862)

------------------------

Những người có đạo bị tù rạc gian truân tân khổ ở đó là hơn ba tháng trời, khi có kẻ đã trốn đặng khỏi thì báo tin cho nhà nước Langsa hay, nghe vậy thì nổi giận sự độc dữ kẻ nghịch làm oan ức, giết người vô tội, nên đã dốc lòng xuống lấy tĩnh Bà Rịa.

Ngày mồng 7 tháng Janvier năm 1862 có ba chiếc tàu chiếc xuống tới sông chỗ có hai ngả (cỏ may), một ngả vô Bà Rịa, một ngả vô Chợ Bến, có ý đánh cứu người có đạo bị lao tù đó, nên đã muốn đến gần nơi mấy người theo chỉ là nơi cầm bổn đạo, cái ngả vô Bà Rịa thì đã rấp ngăn lại vô không đặng nên tàu vô ngã Chợ Bến, mà bỡi nước ròng sát cất binh lên không đặng, có một toán binh lên đi dọ tới cầu Thủ Lựu là bốn giờ chiều, đó còn chừng hai ngàn thước nữa thì tới ngục tù đờn ông, mà bỡi quan cai toán binh ấy thấy có đoàn lũ annam đông lắm xông tới chống cự thì đã thối lui. Lại cũng là tối rồi phải đợi đến mai mới cất binh đem lên đủ đồ cần.

Các quan annam thấy vọi chống cự không xuôi, thì thừa dịp gián ra vậy, dạy chất lửa đốt bốn cái khám, tối đêm ấy thì thấy lửa phát cháy lên theo phía mấy cái khám: thì liền hiểu là đốt khám, biết mấy người bổn đạo đó đã bị chết thiêu rồi.

Quả thật sáng ngày thì chẳng còn thấy chi, thấy đống tro cùng những xác cháy mà thôi, nơi khám cầm tù đờn ông.

Có cha Croc đến sau làm Đức cha ngoài Bắc, đã theo tàu làm thông ngôn, và có cha Trí đi theo, cha đã ẩn ánh khỏi cho đến khi ấy, hai cha lo chôn cất hài cốt mấy đấng chịu chết vì đạo ấy cách xứng đáng, gần bên cái khám thì đã đào ba cái huyệt, cha Croc làm phép xác rồi thì hạ để mấy hài cốt những đấng ấy xuống đó, là ngày mồng 8 tháng Janvier 1862.

Nhưng vậy chớ cũng có ít người bổn đạo trong đám đốt thiêu ấy chạy qua lửa mà ra khỏi cũng là sự lạ, nhờ mấy người ấy thuật lại quân dữ làm thế nào mà đốt ngục, cũng nói tiểu vẽ ra những sự độc ác quân lính giữ ngục, chúng nó mỗi đứa có giáo mà canh giữ hễ ai chạy ra thì nó đâm mà xô vô trong lửa, nên ít người mà chạy khỏi đặng, phải chết thiêu gần hết, trong ba trăm người chạy khỏi đặng chừng lối mười hay là mười hai người, đời cha Y (P. Errard) năm 1879, còn thấy những kẻ ấy còn sống, còn dấu khắc tự bốn chữ hai bên má.

Ba cái ngục khác thì là cầm tù đờn bà và con nít nhơn số đặng 400 người, cũng đều bị đốt một lượt như khám đờn ông; mà bỡi vì mấy tên đội và quân lính giữ mấy ngục ấy có nhơn, phá cửa ngục hay là mở cữa, nên bỡi đó nhiều người đã kịp mà chạy ra khỏi, nhưng vậy chớ cũng có nhiều người đàn bà có con vì bịn rịn con mà chạy không khỏi, con mẹ đều phải lửa cháy thiêu kể đặng chừng năm mươi người. Ngục tại Long Kiên thì đờn bà chết nhiều hơn, vì có một tên đội giữ ngục nó tham của bắt nhơn, nó muốn cướp lấy vòng vàng của mấy đờn bà, nó không cho chạy ra, cho đặng nó lột đồ, nên chạy ra không kịp phải chết, kể nhơn số những đờn bà trong ba khám mà phải chết thiêu đó thì là 106 người, nếu kể hết và 50 con trẻ nói trước và 288 người đờn ông con trai nơi khám Bà Rịa thì nguyên số là 444 mạng con người.

Thuở ấy thì có một đều nầy đáng nhớ, là bổn đạo đều than trách về sự độc ác quan quân dữ tợn bất nhơn, nhưng mà khen ngợi những người ngoại đạo xứ Đất Đỏ khéo lo, những kẻ ấy không theo phe kẻ bắt đạo, có lòng thương xót giúp đỡ những người bổn đạo bị bắt bớ giấu đút che đậy, có lúc đem về nhà mình mà giấu người có đạo cho khỏi tay quan quân bắt, nuôi dưỡng cho ăn, giúp tiền bạc đều cần dùng nên dễ hiểu sao mà cha Trí ở lại trong họ đặng trong lúc cấm kín bắt bớ vậy mà quan quân chẳng hay chẳng biết.

-------------------------

ĐIỀU THỨ NĂM

Nói về một ít tháng bình an.

-------------------------

Quan quân khi ấy rút đi khỏi Bà Rịa đem nhau trú tựu tại rừng trên Thôm làm đồn lũy mà ở đó, thì may Langsa đã hay mà phá hủy tuyệt, nên đã đặng yên nhằm cuối tháng Mars năm 1862. Khi ấy bổn đạo kẻ đi xứ nầy người đi chỗ kia tản lạc, thì rủ nhau đề huề thê tử gia thất về làng chỗ mình ở xưa mà lập nghiệp lại, bỏ mà đi kể là hơn sáu tháng có dư.

Khi ấy cha Hiển ở tại Bà Rịa với cha Trí, cha Hiển thì trở xuống Đất Đổ mà gây dựng họ lại, cha Trí thì ở lại tại Bà Rịa cùng những bổn đạo họ Thành và mấy họ khác mà trở về họ mình không đặng.

Ở tại họ Đất Đỏ khi ấy không còn nhà thờ, có bà vợ ông hộ Của, ông đã chết thiêu trong ngục, bả dưng cái nhà của bả để làm nhà thờ, cho bổn đạo đọc kinh xem lễ mấy tháng bình yên đó.

Khi ấy bổn đạo nhơn số thì bớt nhiều lắm, vì hồi chạy lên trú tại Bà Rịa đó thì bị bịnh thiên thời, lớn nhỏ gì chết hết nhiều, bỡi đó bổn đạo tản tác đi chỗ nầy xứ kia; còn những đàn bà con nít ở trong ngục mà chạy ra đặng thì phải lửa cháy phải bịnh hoạn; nhiều người mồ côi chết cha chết mẹ bơ vơ không nơi nương dựa phải lên Saigon; tốp thì vào nhà thương điều trị thuốc thang, tốp thì vào nhà mồ côi bà phước; rồi đó ít người trở về xứ đặng, nên nhơn số bổn đạo sở Bà Rịa bớt hết nhiều, còn lại có 1500 người, rồi kế bắt đạo lại nữa, dầu cơn bất đạo không bao lâu mà thật là dữ tợn lắm.

---------------------

ĐIỂU THỨ SÁU

Nói về bổn đạo phải chịu chém giết lần khác nữa.

--------------------

Một đoàn quan quân không chịu thua, nó trở lại mà trả thù lần trước đó và bắt bớ bổn đạo.

Cuối năm 1862, nổi giặc một lần nữa, bổn đạo phải bỏ cữa nhà mà chạy trốn.

Ban đầu giặc tới họ Gò Sằm trước vì họ nầy ở xa Bà Rịa hơn hết, nó bắt đặng hai mươi người bổn đạo đờn ông đờn bà thình lình đang có gặt lúa; bắt rồi nó dẫn ra tại cầu suối Xích Răm, hay là Sông Rai, nó trói buộc hai người vô một mà xô xuống sông, nên phô kẻ ấy chết chìm hết, sót lại một đứa nhỏ nên mười hai tuổi, khi ấy sổ trói ra nên nó trốn đặng. (cách ít ngày bổn đạo lén đi tìm kiếm xác mấy người chết chìm ấy thì đã gặp đặng 15 cái xác và đã mai táng trong một huyệt chung, bây giờ hãy còn tại Gò Sằm, bổn đạo còn giữ tử tế). Nhờ thằng nhỏ ấy xuống họ Đất Đỏ báo tin cho bổn đạo, khi ấy đương lo làm ăn không dè cơn bắt bớ như vậy, bấy giờ mới thông tin cho nhau hay phải lo mà chạy trốn, phải mà chạy lên Bà Rịa thì khỏi chết, mà bỡi kể chắc chạy vào rừng thì khỏi nên rủ nhau chạy vào rừng, bỡi đó giặc nó theo tìm bắt như đi săn loài vật, nên phải tay quân nghịch nó bắt đặng mà giết gần hết.

Còn họ Thôm thì cũng phải chết nhiều, quân dữ nó giết bổn đạo họ Thôm mà cách dữ tợn quá, hễ nó bắt đặng bổn đạo thì nó quăng sống xuống giếng, mà phải biết giếng xứ ấy thì sâu lắm, chừng tám chín thước tây.

Có một người đờn bà chừng 21 tuổi bị bỏ xuống giếng như vậy mà khỏi chết, cũng như là phép lạ, nó ở dưới giếng như vậy ngồi trên xác mấy người chết đà thúi rồi, không ăn uống đã hơn một tuần lễ, có một người đi ngang qua gần đó, nghe tiếng than khóc thì bước lại gần và đã cứu mà đem lên khỏi giếng, người đờn bà nầy đà mỏn sức gần chết, khỏi một ít ngày đờn bà nầy bị bắt lại và phải bị bỏ xuống giếng một lần nữa, lần thứ hai nầy ở dưới giếng chịu cực khổ như vậy hết bốn ngày, rồi sau cũng nhờ người ta đem lên đặng; đàn bà nầy còn sống hồi cha Y (P. Errard) viết tích bắt đạo nầy, thì đờn bà ấy có ra mà khai chuyện mình. Cơn bất đạo lần thứ hai nầy thì không tới một tháng, bổn đạo phải chịu chết vì đạo gần hai trăm người.

Hồi đó sau lấy sổ bổn đạo lại thì nhơn số bổn đạo còn không tới 1200, mà nhơn số bổn đạo hồi trước cơn bắt đạo thì là 2300 người.

------------------------

ĐOẠN THỨ BA

Nói về Địa sở Bà Rịa hồi mới khỏi cơn bắt đạo.

------------------------

Kể từ năm 1863, Bà Rịa (họ Dinh) trở nên là họ chánh địa sở, vì hồi bắt đạo thì bổn đạo các họ xung quanh trốn tựu về Bà Rịa mà ở đông, đến sau hết cơn bắt đạo, thì bổn đạo nhát sợ hồ nghi không dám trở về xứ sở mình, nên đã lập cơ nghiệp ở đó cho gần người Langsa, cho khỏi tay kẻ nghịch bắt bớ nữa.

Trong năm 1863 có cha Huởn (P. Fontaine) đến nhậm sở Bà Rịa thế cho cha Trí, người làm việc chung với cha Hiển, sau ít lâu cha Hiển đổi thì có cha Công thế lại.

Qua năm 1863 hay là 1864 thì Đức cha Đôminicô (Mgr. Lefebvre) có làm phép Xức Trán tại nhà thờ nhỏ hồi đó ở tại chỗ có chợ bây giờ.

Qua năm 1864 cha Huởn đổi đi sở Biên Hòa còn có một mình cho Công coi cả địa sờ, người làm việc không nổi nên Đức cha Gioang (Mgr. Miche) đặt cha Y (P. Errard) coi họ Bà Rịa nhằm tháng Octobre 1865, hồi đó bổn đạo còn ở tại Bà Rịa gần hết, nên dễ làm việc, mà bỡi có nhà thương lính có người bịnh tới 40 người, có bà phước dòng ông thánh Phaolồ giúp bịnh nên thêm việc.

Khi cha Y đến thì người lo cấm phòng cho bổn đạo; qua năm sau người lấy sổ những bổn đạo đã phải chết vì đạo trong mấy ngục, những người phải chịu chém giết bỏ xuống sông chết chìm mấy năm trước như đã có kể tích trước, hài cốt những người bị thiêu sống trong ngục, thì đã chôn trong ba cái huyệt riêng nhau. Cha khi ấy lấy hài cốt mấy đấng ấy lên mà chôn vào một huyệt làm mả lại bằng gạch ở giữa nơi trước là cái ngục để cầm đờn ông đó.

Đến sau nhằm năm 1876 cha đã làm một cái nhà thờ tạm nhỏ tại chỗ ấy, ở giữa nhà thờ thì có cái mồ những đấng tử vì đạo ấy, cẩn đá cẩm thạch, có thích mấy câu chữ Latinh như sau nầy:

I.                   Phía trên đầu: Beati qui persecutionem patiuntur propterjustitiam.

II.                Phía dưới chơn: Thôm-Đất Đỏ -Thành-Phước Dinh Hội.

III.             Phía bên hữu : Hic in spe resurrectionis.

Jacent christiani circiter CCC,

Qui pro fide incacerati,

Per III menses passi,

Tandem igne perierunt,

Et in loco passionis sepulti sunt.

Die VIII Januarii MDCCCLXII

IIII. Phía bên tả : Ba trăm bổn đạo xác nằm đây.

Những trong sống lại hưởng phước đầy,

Vì Chúa tù lao dư ba tháng,

Cam lòng chịu cháy chết chỗ nầy;

Lập mồ táng chung vào một huyệt,

Giáo hữu coi đó nhớ hằng ngày

Có làm cái bàn thờ sau cái mồ mỗi tháng có làm lễ một lần.

Tại họ Dinh thì xưa có chôn hai cha, một cha thì lâu lắm là cha trước hết đã ở đó, những người bổn đạo cố cựu cũng không biết tên mà nói cho cha Y; phải là một cha dòng, vì hồi lấy cốt thì có gặp trong hòm một đồ đánh tội còn nguyên, có cái chén thánh, có cái hộp nhỏ đem Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt (custode). Kế mả đó thì có cái mả cha Thiền, khi người phải di đày vì đạo Chúa, người qua tới Bà Rịa thì người chết tại đó là năm 1856. Cha đã lấy cốt hai cái mả cả hai cha đó mà chôn lại một huyệt, làm một mà dưới chơn bàn thờ, nghĩa là trên thì là cái bàn thờ, dưới là cái mồ  tử đạo ở giữa là cái mả hai cha ấy.

Đất xung quanh nhà thờ đó xưa là cái vòng rào ngục tù đờn ông thì bây giờ lấy làm đất thánh họ Bà Rịa.

Hết phần thứ nhứt

KỂ LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ

ĐỊA PHẬN NAM KỲ

--------------------------

ĐỊA SỞ HỌ BÀ RỊA

--------------------------

PHẦN THỨ HAI

Nói về địa sở Bà Rịa từ hồi thới bình việc đạo trong Nam Kỳ

---------------------------

ĐOẠN THỨ NHỨT

Nói về những họ Bà Rịa, Thành, Phước Tĩnh, Thánh Thất (Châu Pha)

1866 - 1917.

---------------------------

ĐIỀU THỨ NHỨT

Nói về khởi sự lập họ Bà Rịa lại làm họ chánh trong địa sở

----------------------------

Ta nói lại đây cho có thứ lớp, vì trong phần thứ nhứt ta bỏ qua, mặc nói về cơn bắt đạo và những người chịu tử vì đạo.

Năm 1866 đem cái nhà cha sở ở về chỗ bây giờ, hồi trước nó ở tại chợ Bà Rịa.

Có thầy thông ngôn nhà nước tên là Petrus Tạo có dưng cho nhà thờ một miếng đất ruộng gần nhà thờ cũ, thì cha Y đã dời nhà cha sở về đó rồi lập cái nhà thờ nhỏ đó dưng cho Đức Mẹ, làm nhà thờ cho bổn đạo nhóm đọc kinh xem lễ ngày hàng trong tuần lễ, còn ngày Chúa nhựt thì đọc kinh xem lễ tại nhà thờ nơi chợ.

Qua năm 1867 Đức cha Gioang (Mgr. Miche) ban phép Xức trán tại Bà Rịa, rồi cho cha Lành (P. de Kerlan) là cha ở bên tây mới qua ở tùng cha Y; cha nầy lo riêng về nhà thương lính, mà học tiếng annam.

Qua tháng Avril năm 1868 Đức cha Gioang dạy cha Y xuống Đất Đỏ coi riêng họ ấy và họ Thôm để cho cha Lành coi họ Bà Rịa một mình, thay ở coi họ trong địa sở cho đến năm 1870, thì người mới đổi đi sở Biên Hòa. Lúc đó cha Lành cũng đổi, cha Thiện (P. Oscar de Noioberne) thế ở tại Bà Rịa cho đến năm 1874.

Sau cha Y lại đổi lộn về đó mà coi cả địa sở Bà Rịa thì có cha Chiêu (P. Chedal) ở phụ giúp, cha nầy phụ giúp đặng một năm, thì có cha Nhu thế, năm 1874 hay là 1875, sau cha Cao (P. Legrand) đổi đi chỗ khác thì cha Nhu ở coi họ Đất Đỏ và mấy họ khác xung quanh.

Năm 1874 có Đức cha Puginier ở Hà Nội (Tonkin occidental) đi qua ghé địa phận ta, người đã ban phép Xức trán cho bổn đạo trong địa sở Bà Rịa. Kế, năm sau cha Y phải đi qua Hồng Kông ít tháng thì có cha Liễu (P. Lallement) bên tây mới qua xuống thế là năm 1876.

Khi cha Y đi Hồng Kông về thì người đi làm cái mồ mấy đấng bị thiêu vì đạo trong cơn bắt đạo, và làm cái nhà thờ nhỏ như ta đã nói trong phần thứ nhứt.

Tháng Septembre năm 1876 có rao toàn xá Jubile thì có cha Minh (P. Montmayeur) giảng cấm phòng và cha Sâm lớn, có mấy cha ngồi tòa làm phước là cha Định (P. Delpech) cha Lành (P. de Kerlan) của Phi (P. Raimbaud) cha Báu (E. Leprince) và cha Dư. Cha Y học lại người nói khi ấy nhơn dịp toàn xá thật cũng là như cái roi đánh thức bổn đạo dậy, nhiều người nhờ dịp ấy mà trở lại lo việc phần rỗi mình.

----------------------

ĐIỂU THỨ HAI

Nói về sự lập nhà thờ (1877-1879)

----------------------

Năm 1877 có cha Thiết (P. Boutier) xuống thế cho cha Nhu, người ở địa sở cho đến năm 1879.

Năm 1877 thì đã toan định làm nhà thờ mới: nhơn dịp có mớ đá đã lấy trên núi Bà Rịa, Nhà nước tính làm nhà thương mà không dùng đá ấy, Nhà nước dưng cho Đức cha Mỹ (Mgr. Colombert), thì Đức cha lãnh, cha Y lo qui góp đá gạch súc gỗ những đồ cần.

Còn cha Thiết thì lo vẽ hoạ đồ. Cha nầy còn thanh niên mới qua thì khởi sự làm nhà thờ Bà Rịa trổ tài nghề biết cuộc làm nhà cữa, sau nầy đã giúp địa phận nhiều.

Đã đặt viên đá thứ nhứt nhà thờ mới nầy là nhằm ngày 21 Novombre, 1ễ Đ C Bà phú mình vào đền thánh.

Bổn đạo tỏ ra lòng sốt sắng lo việc nhà thờ không tiếc công không tiếc của.

Khỏi sáu tháng là nhà thờ đã lợp rồi nhằm tháng Octobre năm 1878, và khỉ sự đọc kinh làm lễ đặng trong nhà thờ mới. Phong tô mặt tiền và vách tường bề ngoài thì là nhằm tháng Mars 1879; hoàn thành rồi là nhằm tháng Mai. Vậy ngày 14 Mai năm 1879 thì Đức cha Mỹ và Đức cha địa phận Huế, là Đức cha Ponviane, xuống làm phép nhà thờ mới, là lễ trọng cả thể trong họ Bà Rịa: có các viên quan tới chầu lễ cũng có các cha dòng, là cha Linh (P. Moulins) cha Ngôn (P. Louvet) cha Liễu (P. Lallement) cha Mão (P. Mossard) cha Nhi, cha Tuyết, cha Dược, cha Y (P. Errard) cha Thiết (P. Boutier).

Làm phép nhà thờ mới rồi cũng ban phép Xức trán cho bổn đạo. Nhà thờ mới dưng cho hai thánh tông đồ là ông thánh Philipphê và ông thánh Giacôbê.

--------------------------

ĐIỂU THỨ BA

Nói về mấy năm sau hết cha Y ở Bà Rịa. Các cha tiếp theo cho

tới cha Hiền lập họ Thánh Thất

---------------------------

Làm phép nhà thờ mới rồi, khi ấy cha Thiết ở Đất Đỏ đặng một năm, rồi kế đổi đi chỗ khác, cha Sanh (P. Colson) thế ở tại Đất Đỏ, cha Nhiệm (P. Creusat) cũng đổi, còn lại có một mình cha Y coi họ Bà Rịa họ Thành và Vũng Tàu (Cap St-Jacques), khi ấy mới có ít nhà bổn đạo ở đó mà thôi.

Năm 1879 Đức thánh Pha pha Lêô XIII lên quờn thì có toàn xá Jubile, khi ấy có cha Minh (P. Montmayeur) cha Phi (P. Raimbaut) đi giảng, có cha Hòa (P. Greset) cha Thiết (P. Boutier) làm phước, thừa dịp ấy có dựng đàng thánh giá của bên nhà cha Y gởi cho họ.

Họ Bà Rịa có hai trường học, trường nam trường nữ; trường nam có thầy giáo dạy, trường nữ có dì phước Thủ Thiêm dạy, có hồi năm 1877, có lập họ Môi Khôi năm 1878 có chừng 100 người vào họ ấy.

Năm 1887 cha Y đổi về Chợ Quán, lần nầy đi dứt không trở lại Bà Rịa nữa; cha về ở Chợ Quán thì cũng lo làm nhà thờ. Cha Thọ (P. Cagnon) đổi lại ở Bà Rịa.

Đời cha Thọ ở tại Bà Rịa đặng ba năm, người có mua đặng ba cái chuông cho họ và lập lại cái nhà thờ đất thánh đã gần hư, qua năm 1890 người lâm bịnh phải về bên tây không qua lại nữa.

Đầu tháng Mars năm 1890 cha Nghi (P. Martin) đổi lại Bà Rịa thế cho cha Thọ.

Đời cha Nghi, người lo làm cho rồi nhà thờ đất thánh và làm nhà cha sở ở còn bây giờ đó, người có làm một cái nhà lá tại Phước Tĩnh, tính lập họ góp mấy nhà có đạo lại.

Qua năm 1893 cha Nghi phải bịnh nên về tây, ở lại bển hết 18 tháng, hồi ấy thì có cha Lương (P. Lambert) thế đó; bổn đạo còn nhớ cha nầy lắm.

Cha Nghi đi bên tây trở về nhằm năm 1894 tháng Décembre xuống lãnh sở Bà Rịa lại, năm 1896 nhằm tháng Mai có bà phước hội ông thánh Phaolồ xuống Bà Rịa lập nhà thương và dạy trường nữ, rồi qua năm 1910 thì bà phước lãnh dạy luôn hai trường nam nữ, kế bãi nhà thương cho tới bây giờ.

Qua năm 1896 tháng Décembre cha Nghi đổi về Saigon coi nhà mồ côi (Ste Enfa nee) thì có cha Hiền (P. Favier) xuống thế.

Cha Hiền thấy nhiều người trong bổn đạo không có công chuyện làm, phải đi làm thuê làm mướn nơi nầy nơi kia xa, rồi ra trễ nải lần lần, nên cha đã kiếm việc cho bổn đạo làm. Người có mua sở vườn trồng tiêu ở cách xa Bà Rịa một đỗi, theo đàng đi Long Kiên; song bỡi bổn đạo không muốn ở đó vì đó không có ruộng mà làm, lại với bổn đạo làm mướn thì đòi tiền mắt quá; nên khỏi ba năm thì cha liền bán sở tiêu ấy lại cho bà phước hội ông thánh Phaolồ đặng lập nhà mồ côi.

(…)

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1917 - 1918