ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2022

Sự tích Cha Felix Humberrt (Hiệu)

 SỰ TÍCH CHA FÉLIX HUBERT (HIỆU)

1850—1917

---------------

Cha FÉLIX HUMBERT đã sinh ra ngày 16 Avril 1850, tại làng Lesseux, về tổng Saint-Dié, tĩnh Vosges, trong nước Langsa. Cha mẹ người đạo đức lắm, làm nghề ruộng nương, đã ân cần dạy dỗ con, và tập luyện cho biết đàng giữ đạo, kính Chúa yêu người. Việc nhà thì tầm thường đủ ăn đủ mặc, mà có của châu báu Chúa ban, là hai con trai, hai ông bà xem là kho tàng vô giá phải gìn giữ hầu sau trả lại cho Chúa. Tuy con út là Eugène không dưng mình cho Chúa, nhưng bỡi nghe lời cha mẹ và noi gương lành, thì cũng đã đặng danh thơm tiếng tốt trọn đời, ai nấy đều yêu vì, mà bỏ thăm chọn lên làm ông xã trong làng, và sau đã sinh con, mà dưng cho Chúa, làm thầy cả như bác, lại trong cơn giặc hung dữ ba năm nay, thì đã liều thân mà giúp quê hương, trong hàng binh lính, lịch trận và bị thương tích nặng, Bấy nhiều đều làm cho ta đã rõ gia thất nầy đáng kính vì yêu chuộng là bao nhiêu.

Khi trẻ Félix dọn mình rước lễ, thì cha sở thấy nó có tính tốt, sáng dạ, lại siêng năng cẩn quyển chuyện học hành, nên đã tính cùng cha mẹ mà lo cho nó đi nhà trường. Trong nhà có hai con mà thôi, Chúa đòi con đầu lòng, nhưng vậy cha mẹ không tiếc với Chúa, không làm như nhiều kẻ khác muốn giành với Chúa mà giữ con cái lại thế gian, lo cho đặng bề công danh lợi lộc mà đua tranh với đời. Hai ông bà nầy nhớ con mình là của Chúa hơn là của mình, và chẳng qua là Chúa đã gởi cho mình lo lắng, tập luyện, gìn giữ cho Chúa mà thôi, nên khi nghe tiếng phán đòi, liền vội vàng trả lại cho Chúa, lòng mình mến thương dính bén bao nhiêu, cũng chẳng nại, chẳng tiếc. Vì vậy đã phú cho cha sở lo dạy Félix học tiếng latinh.

Làng Lesseux thì xa nhà thờ, đi hơn trót giờ mới tới, song Félix vui mừng, mỗi ngày đi học, chẳng lo đàng sá xa xuôi, không tưởng tới sự mệt mỏi, một lo cho đặng mau thuộc biết những sự phải học hành.

Cha sở chẳng lật đật mà cho Felix nhập trường, người làm theo thói quen nhiều cha sở khác thường làm, là giữ Félix ở cùng mình lâu ngày, mà dạy latinh cho nhiều, mà tập luyện tính nết, lại nhứt là cho đặng dò xét ý tứ nó có quyết định phú mình theo Chúa trót đời chăng. Khi đã kỹ lưỡng cân lường hư thiệt, mà chắc ý, và tập luyện vừa đủ, mới gởi nó vào trường latinh, nhập lớp ba, không khỉ sự lớp tám như trẻ khác.

Dễ xét khi Félix vào bổn trường địa phận thì đã chuyên cần lo lắng chí thú là thế nào cho đặng tấn đàng thông minh, cho đặng thêm ngõ nhơn đức. Bấy lâu học một mình, chẳng hẳn sức trí tài lực ngằn nào, miễn bài vở thuộc rành, sạch lỗi thì thôi; rày đông anh em trang lứa, mới lo kình trí đấu tài. Mới tới thì bợ ngợ, chẳng quen cách thầy dạy, không thạo phép bài vở; nội tuần đầu hết làm hai cái bài thi, tới bữa rao, thì bài latinh, thứ rốt: Félix Humbert; bài phép toán, thứ nhứt: Felix Humbert. Chẳng mấy ngày mà trò mới nầy tỉnh lại, hiểu được cách thức nề nếp trong chuyện bài vở, thì chẳng thua ai, càng lo đua tranh, càng thêm mở mang trí hóa.

Hiềm vì đang lúc chuyên việc văn chương mà phải ngưng lại, vì có giặc cả nổi lên (1870), nước Langsa phải ứng lên đón ngăn đấu chiến cùng nước Prusse đang xông vào làm hỗn, cũng như giặc lúc nầy. Félix phải về nhà giúp cha mẹ trong việc canh nông, vì lúa chín đầy đồng, mà thiếu công gặt hái, bỡi chưng kẻ trai tráng phải bỏ ruộng nương mà nhập binh cơ giúp nước gỡ nạn. Mà trẻ nầy cũng vui lòng, vì thấy thánh ý Chúa đã khiến ra cho có sự tai nạn cực dữ thể ấy, nên chẳng phàn nàn sao ngưng việc trí mà chuyên việc tay chơn mệt nhọc, một phú thân xác mỏi mê cho đặng giúp đỡ cha mẹ mà đền ơn trả thảo, lòng thì chua xót vì quê vức lâm lụy chịu đầu phục kẻ thù kiêu hảnh gắt gỏng.

Đến khi mọi việc giặc giã yên đoạn, thì lại tiếp lo học hành như trước. Khi vào trường lớn, thì Félix đặng ơn riêng, nghe tiếng Chúa kêu, thôi thúc trong lòng, giục bỏ quê vức cữa nhà cha mẹ bà con thân thuộc, dưng mình làm tôi Chúa bên rốt Phương Đông, mở mang đạo thánh giữa những dân ngoại đạo. Theo lẽ thường thì có lẽ cho thầy Félix chữa mình, hoặc chẳng chịu lìa quê quán, hoặc ít nữa là giản ra một ít lâu; vì chưng mới vừa yên giặc, kế cha người tạ thế, nên khó bề cho người xa cách mẹ mới mang phận góa bụa. Song đức tin và lòng kính mến Chúa làm cho người lướt thắng lòng con hiếu mến mẹ lành, chẳng kể những tiếng xác thịt nói ra mà cản trở ơn Chúa: nên người chí quyết một bề theo Chúa, tế lễ tâm tình nhơn loài, nhớ lời Chúa đe: “Ai thương cha mến mẹ mình hơn tao, thì chẳng đáng theo tao,” mà phú mẹ lại mặc lượng lòng lân mẫn Chúa lo liệu, biết mình chẳng cao tài rộng trí hơn Chúa, và dầu cho mình lo làm cách nào, nếu Chúa không đoái lại, thì cũng chẳng ra chuyện gì đặng..

Mà mẹ đạo đức đại độ cũng chẳng kém con; đã dưng con làm tôi Chúa, thì bằng lòng cho Chúa phân định về phận số con, xa gần chẳng quản, miễn là cho mình đặng trọn lễ tế lòng thương mến, chẳng sá kể mình phải lẻ loi đơn chiếc, trông rày phân biệt còn có ngày sẽ đặng hiệp hòa, rày gieo trong nước mắt, sau gặt giữa vui mừng, rày gieo một, sau gặt trăm ngàn. Vậy mẹ con đua nhau tế lễ cho đặng sáng danh Chúa, thì của lễ đẹp lòng Chúa biết dường nào.

Khi thầy Félix đã tỏ cho cha xem sóc linh hồn đặng hẳn tiếng Chúa kêu mình đi nơi xa xác, và cân lường mọi lẽ thiệt hơn, thì cha linh hồn đã nhìn là ý Chúa phân định; Đức Cha cũng bằng lòng ban phép xuất hành. Vậy đã nhập trường Dòng Sai tại Paris, mà dọn mình và học cho rồi sách đoán cùng chịu chức. Mãn ba năm thì người đã lãnh chức linh mục, nhằm ngày 19 Décembre 1874. Và bề trên đã phân định cho người sang qua địa phận Nam Kỳ mà làm việc trong vườn nho Chúa,

Khi ấy xứ Sài Gòn bị tiếng xấu trong trường Paris, vì phần thì phong thổ chẳng hiền, phần thì mắc chuyện khó đàng khác về phần đời, bỡi gương xấu kẻ có quờn thế, nên các cha trẻ Dòng Sai chẳng mấy ai muốn sang qua đó. Song cha Humbert đã tập mình bỏ ý riêng, quen xem ý bề trên là ý Chúa, thì chẳng những không chê khen, lại hăm hở sang đến cho mau mà tra tay làm việc tông đồ tổn phí sức lực cùng sự sống mình cho sáng danh Chúa, cho linh hồn người ta đặng rỗi..

Người xuống tàu mà đi là ngày 27 Janvier 1875, làm một cùng năm cha khác (Một cha đi bên Tàu; ba cha sang nước Birmanie; và cha Hamon qua địa phận ta, mà cha nầy đi học tiếng tại Cái Mơng, chẳng hay cách mấy tháng đã phải chết trôi, là 5 Novembre 1875.)

Tới nơi là ngày 27 Février sau, thì Đức Cha Colombert đã sai người vô Chợ Quán mà học tiếng.

Bước qua năm sau, người thuộc tiếng vừa đủ dùng, thì Đức Cha sai người lên coi họ Thủ Dầu Một. Song người ở đó chẳng đặng bao lâu, vì qua đầu năm 1877 thì bề trên đem người về ở Nhà Trường Latinh, thế cho cha Favreau phải về Tây mà dạy trường chung Dòng Sai tại Paris. Từ ấy cho tới khi sinh thì, là trót bốn mươi năm, người chẳng hề rời khỏi Nhà Trường.

Đức Cha Colombert thường khi đổi cha nào vô dạy trong Nhà Trường, thì hay nói chơi mà gọi rằng: damnatus ad bestias, mà thiệt việc dạy dỗ nầy, thì ai cũng sợ, không ai tự nhiên muốn, có sự vưng lời buộc được mà thôi. Cha Humbert cứ đàng đã tập mình bấy lâu, chẳng xem sao đến ý riêng mình, đã dưng mình làm tôi Chúa theo ý Chúa, nên kẻ thay mặt Chúa chỉ bảo sự gì, thì người sẵn mà vưng nghe luôn, chẳng chữa mình, chẳng tránh trút, dầu nhằm là đều sái ý cũng vậy, người đã bỏ quê vức chẳng phải là cho đặng tìm sự sung sướng, sự vừa ý mình đâu, một lo cho đặng sáng danh Chúa và làm ích cho linh hồn người ta mà thôi.

Bỡi vậy dầu sự người ước ao chí quyết, là có ý sang qua đây mà giảng đạo cho kẻ ngoại, mà nay phải ở Nhà Trường thì không còn trông lo việc giảng đạo thể ấy nữa, nhưng mà vưng lời Chúa chẳng phải là phương thế nhứt hảo mà làm sáng danh Chúa Sao? cho nên người chẳng phiền lòng; lại cũng nhớ việc lo làm trong Nhà Trường là dạy dỗ tập luyện những kẻ mai sau sẽ lãnh việc tông đồ, cho nên sẽ có bao nhiêu học trò người giảng dạy người ta ngày sau, thì ra là thêm cho người bấy nhiêu miệng lưỡi mà cao rao danh Chúa, mà chính mình người sẽ đặng thêm công ẩn ánh tịch mạc chẳng ai biết tới.

Lòng đức tin làm cho người tận tình lãnh việc khuất tịch mà lo làm trong chốn thánh trường. Người chỉ lo việc dạy dỗ là chính bổn phận. Dầu phải cực trí cực lòng bao nhiêu, cũng chẳng nại, ghe phen phải hết lòng nhịn nhục những học trò chậm lụt ít trí, phải lặp đi lặp lại những lời cắt nghĩa, cho đến khi lọt được vào trí nó: kẻ đã gánh việc dạy dỗ mới hiểu sự cực nầy, ai chưa thử thì chẳng hẳn chẳng tưởng. Mà cha Humbert chẳng phàn nàn, miễn là làm cho đủ sức, cho trọn việc bổn phận, thì người an lòng.

Người thay đổi mà dạy mấy lớp trường nhỏ, cho đến khi phải thế cho Đức cha Dépierre mà dạy sách đoán, lối năm 1894. Từ ấy thì dạy trường lớn luôn cho đến mãn đời.

Trong nhà trường thì người còn lãnh thêm bổn phận nặng nề khác, là giữ việc, lo tiền bạc xuất phát, lo ăn uống cho học trò, lo mua chác mọi món cần dùng trong nhà, sách vở, giấy mực, dầu đèn, vải sồ, chiếu liếp, vân vân; lo cất nhà, sửa nhà, mướn công, mướn thợ, mướn đứa ăn đứa ở... Người giữ việc cho đến năm 1902 mới trao gánh lại cho cha Quinton, khi ấy ở nhà trường nhỏ Tân Định mới về nhập trường lớn. Cha Humbert khi ấy đã yếu đuối mang bịnh hoạn, không còn đủ sức mà lo gánh qui mô ấy.

Đã có bua việc lo lắng mệt nhọc trong nhà trường, mà người còn bổn phận khác cũng rất trọng phải làm, là dạy dỗ dìu dắc luyện tập những linh hồn dưng mình cho Chúa nơi Nhà Phước ông thánh Phaolồ, thường kêu là Nhà Trắng. Khi gần cuối năm 1877, cha Thiriet thế cho cha Wibaux mà làm Bề trên Nhà Trường, chẳng còn lo được mà xem sóc nhà Noviciat các Chị ông thánh Phaolồ, thì cha Humbert đã lãnh tiếp lo về nhà ấy thế cho người, và đã giữ việc nầy lâu năm lắm, cho đến khi bịnh hoạn yếu đuối làm không nổi nữa. Biết là bao nhiêu con cái thiêng liêng người đã sinh ra cho Chúa thể ấy trong vòng ba mươi năm dư, hầu làm sáng danh Chúa trong việc dạy dỗ và giúp nhà thương! Từ ngày đồng nhi lìa cha mẹ mà bước vô nhà ấy, thì người tiếp rước, lo lắng, xem sóc, dạy dỗ về lẽ đạo, về đàng tập mình sửa tính trong nẻo trọn lành; mà người gìn giữ dìu dắc luôn cho đến khi mặc áo tu hành, cho đến ngày khấn hứa. Đoạn người cũng chẳng bỏ trong lúc kẻ ấy đã nên người nhà phước đi chỗ nọ chỗ kia mà lo việc bổn phận, người cứ giúp đỡ luôn cho đến mãn đời. Ai đếm được bao nhiêu linh hồn người đã giúp trong lúc liệt lào đau ốm cho đến khi ra khỏi thế nầy, cho đặng chết bằng an trong Chúa!

Người cũng còn lãnh việc ngồi tòa làm phước cho các chị ông thánh Phaolồ mà đã khấn hứa rồi, và cũng làm phước, giảng dạy cho các chị dòng Carmêlô, kêu là Nhà Kín nữa. Việc nầy tuy người không làm lâu dài trót đời, song cũng đã làm nhiều năm.

Kể dón qua vậy, cho dễ thấy trót đời người đã làm việc nhiều là thể nào, mà chẳng khi nào người phàn nàn rằng mệt mỏi, một cứ làm luôn luôn, buông chuyện nầy, liền bắt qua chuyện khác, cho tới khi phải té xuống, không còn làm gì được nữa, mới ngừng tay, mà vừa khi đặng sức lực lại một chút, liền khỉ sự lại như thường.

Ta nhắc lại một ngày người làm việc, hồi còn đang sức lực, cho đặng thấy các ngày khác trong đời người, thì cũng làm như vậy.

Sớm mai người thức dậy 4 giờ rưởi, đọc kinh suy gẫm, rồi qua Nhà Trắng làm lễ, cám ơn, rồi về nhà đọc kinh minores horas, lót lòng, dọn bài dạy. 8 giờ rưởi trả bài, dạy học trò cho đến 10 giờ, rồi đi liền qua dạy Sách Phần bên Noviciat Nhà Trắng cho đến 11 giờ. Về Nhà Trường tập hát cho học trò từ 11 giờ rưởi cho đến 12 giờ, ăn bữa trưa. Đoạn truyện vãn cùng các cha, hay là đi coi học trò đang giờ chơi trưa, rồi đọc nhựt trình hay là sửa bài, xem sách. Tưởng cả đời người không có ngủ trưa một lần nào. Kinh VesperasCompletorium thì đọc nội giờ rảnh ấy. Tới 2 giờ thì đọc MatutinumLaudes, đoạn 2 giờ rưởi dạy học trò cho đến 4 giờ. 4 giờ rưởi nhiều khi phải làm phép lành bên Nhà Trắng; có ngày làm phước cho tới tối, có ngày phải làm phước ở nhà, phải giảng cho học trò hồi 5 giờ; không thì sửa bài, dọn bài. 7 giờ ăn cơm tối rồi chuyện vãn, lối 8 giờ về phòng còn làm việc cho tới chừng 9 giờ mới đi ngủ. - Mà cả và đời người cứ theo một thứ tự ấy gần luôn, đổi một hai chút, khi lãnh thêm hay là đổi việc bổn phận nào mới mà thôi.

Trừ ra bấy nhiều sự ấy, thì còn phải lo việc trong nhà, theo phận cha việc, còn phải ra khách khi có kẻ tới thăm, còn phải viết thơ trả lời cho những kẻ bàn hỏi chuyện nọ chuyện kia, còn phải đi thăm kẻ liệt lào, nhứt là khi có ai trong các Chị ông thánh Phaolồ phải liệt nặng gần chết, hoặc bên Nhà Trắng, hoặc bên Nhà Thương Thị Nghè.

Ta xem đó thì thấy ngày giờ người no đầy (dies pleni) là thể nào, đầy việc vàn, đầy khó nhọc, đầy công nghiệp... Mà người hằng vui lòng luôn, và yêu mến sự làm việc bằng yêu sự sống mình vậy, và hơn nữa. Biết là bao nhiêu kẻ quên ý Đức Chúa Trời dựng nên người ta cho đặng làm việc: Homo nascitur ad laborem (Jos, v, 7), cho nên những mơ ước và tìm thế cho đặng nghỉ ngơi! Cũng chẳng thiếu chi người, khi đã làm việc rồi mà đặng ngừng tay lại, thì lấy làm phỉ chí vui mừng. Cha Humbert không nhập vào hạng hai thứ người ấy, vì hằng làm việc chẳng chịu hở tay, dầu xác phải mệt nhọc thể nào, người cũng vui lòng. Bỡi vậy khi người mắc bịnh hoạn yếu đuối, không còn làm việc được như xưa, thì người lấy sự ấy làm nặng nề khó chịu. Cách chẳng mấy ngày trước khi người qua đời, có thầy kia đến thăm, thì người than với thầy ấy rằng: “Cha không dạy, không trả bài được, thì buồn quá, nhàm quá!” Ngày người chịu phép xức dầu thánh, thì hãy còn ngồi tòa làm phước cho mấy con linh hồn đến xưng tội.

Dầu người mắc bua việc chồng chập, mà người chẳng hề bồn chồn bối rối lật đật: Omnia tempus habent ( Ecci, III, 1), chuyện nào có giờ theo chuyện nấy. Mỗi việc người làm đĩnh đạc kỷ lưỡng như thể không có việc gì khác mà làm nữa. Như trong khi dạy học trò, thì người lo cắt nghĩa rõ ràng cho ai nấy hiểu được, dầu kẻ chậm trí hơn hết cũng phải hiểu đã, mới dạy qua đều khác; trong bài vở có lỗi gì, dầu nhỏ mọn, người chẳng bỏ qua, một chỉ cho thấy lỗi và bắt sửa lại, hay là chỉ cho biết phải sửa làm sao cho nhằm.

Người cầm lòng nhịn nhục luôn, chẳng thấy người tỏ dấu nóng nảy khi nào, dầu khi gặp chuyện trái ý tức mình, hoặc thấy học trò lơ lảng chẳng chín chắn trong việc học, chẳng ân cần trong đều giữ luật... hoặc bị khinh dễ nhạo cười, người cũng đằm tính bằng an luôn.

Không thấy khi nào người buồn quạu, cũng không thấy người vui cười thới quá bao giờ: gặp người vui vẻ bình tịnh một mực luôn, Ghe phen người gặp đều phi ơn phi ngãi, nhiều lần phải chống báng, có khi mang chuyện phiền muộn đau lòng, như khi nghe tin mẹ hay là em qua đời, cũng là khi phải bịnh hoạn dài ngày cực lực tê mê nhức nhối, thì cũng không thấy người buồn bã, không nghe phàn nàn rên siếc. Có Chúa cầm lái thuyền người, thì người hằng vững dạ an lòng chẳng chuyển.

Khi phải sửa phạt kẻ bề dưới, thì người cứ lẽ công bình, và cứ đức yêu người tìm phần ích cho kẻ có lỗi đặng ăn năn hối cải, cho nó hiểu sự mình quấy và mất lòng Chúa. Nên người chẳng vội làm cách lật đật, một chờ thì tiện, và liệu cách cho kẻ có lỗi bằng lòng mà nghe lời khuyên bảo, nhứt là người lo cầu nguyện, xin ơn Chúa phần thì cho mình nói cách nào cho khỏi mích lòng, phần thì lo cho kẻ ấy đặng ơn soi sáng mà hiểu những lẽ phải nghe.

Đang khi lo lắng cho những linh hồn người phải xem sóc giúp đỡ, thì người chẳng hề muốn dự vào trong những chuyện không phải thuộc về bổn phận mình. Nên người chẳng ưa nghe những chuyện hành tỏi về kẻ khác, huống chi chính mình người chẳng nói đi nói lại về việc kẻ khác. Người lại càng chê ghét và lánh xa hơn nữa cho khỏi đoán xét và bắt tì ố việc người ta. Người năng nhắc lại luật đức thương yêu dạy phải xét tốt cho kẻ khác luôn, và khi phải là đều trái tỏ tường thì phải tưởng kẻ ấy chẳng có ý xấu, hoặc lầm lỡ yếu đuối, mà nhứt là phải nhớ phận mình mà sợ có lẽ nếu mình phải sa cơ hội như kẻ ấy, âu là mình phải tệ lậu hơn nữa.

Người quen suy nhớ những lẽ thể ấy mà giữ mình khiêm nhượng luôn, chẳng tưởng mình hơn ai, chỉ ghét sự phô trương bề ngoài; chẳng ham cho ai tôn kính khen ngợi mình, mà khi có gặp làm vậy thì chẳng xem sao tới; chẳng muốn cho ai biết ai tưởng tới mình; chẳng sợ ai chê bai khinh dễ: một chỉ lo bổn phận cho vừa ý Chúa tùy sức, để cho Chúa phán xử khen chê mặc lượng lòng lành và công bình Chúa, cũng như thánh Phaolồ xưa: Mihi pro minimo est ut a vobis judicer, aut ab humano die: sed neque meipsum judico. Nihil enim mihi conscius sum, sed non in hoc justificatus sum; qui auten judicat me Dominus est (I Cor., IV, 3-4).

Cũng bỡi người lo giữ mọi lẽ theo sự công bình, nên người không ưa mắc nợ, có mua chác vật gì thì người lo trả tiền cho rồi. Cũng vậy người lo cho đừng có ai mắc nợ người. Có một lần người cho một người kia mượn tiền mà gầy nghề nghiệp làm ăn. Ban đầu thì người ấy còn tới lui một ít lần, mà hẹn sẽ trả tiền khi có thể lo trả được. Đến sau khi người ấy đã khá, có lẽ lo trả được, thì chẳng còn tới lui, cũng chẳng gởi tin tức gì nữa. Cha Humbert thấy vậy thì lo sợ, không phải tiếc tiền bạc, song sợ người ấy không lo trả nợ mà bị tội trước mặt Chúa , Nên người hỏi thăm, và nhắn đi nhắn lại nhiều tin cho người ấy hay, nếu khó bề lo trả, thì tỏ cho người biết, đặng người hủy nợ ấy đi. Mà tên ấy vô tình, cứ làm thinh mãi. Cách lâu ngày lâu tháng, chẳng thấy tin tức, thì người lại lo nhắn thêm tin khác mà biểu nó ở bằng an, đừng lo trả nợ nữa, vì người cho đứt nó số tiền ấy. Như vậy thì người mới được an lòng. Cách người suy xét cân lường về chuyện nợ nần thể ấy thì khác xa sự thiên hạ thường xét và làm là thế nào! Biết là bao nhiêu người mắc nợ nần, mà dửng dưng vô sự, chẳng lo chi tới, đã không lo nhín nhúc cho có đủ tiền mà gỡ lương tâm mình và cho khỏi chuyện bó buộc, mà lại bằng an cứ lo ăn lo xài, như thể mình chẳng thiếu đủ ai chút gì sốt; mà lại khi xưng tội cũng chẳng xét tới đều ấy, cũng không nói một tiếng mà cáo mình! Kẻ thế ấy thì lường gạt lương tâm mình và đành lòng an dạ để phấn rỗi mình phải cheo leo biết là ngằn nào!

Nợ thật là mối hiểm nguy cho kẻ làm vậy, mà bạc tiền lại càng nguy hiểm cho nhiều kẻ khác, vì lòng dễ dính bén: bốc chai, vấy chai, Qui tetigerit picem, inquinabitur ab ea (ECCII., XIII, 1), như gương Giudà, giữ tiền cúng đức mà sinh bụng tham. Cha Humbert chẳng mắc đều chi thể ấy. Người giữ tiền bạc Nhà trường, mà lòng chẳng những là thanh liêm công chánh, lại chẳng thèm sá kể đến của phù vân. Của Chúa, của người ta làm phước bố thí, người phải giữ gìn, lo dùng tiết kiệm, theo việc phải dùng, chẳng dám xa xỉ tổn hao vô ích, mà lòng người chẳng mến của, chẳng lo thâu góp tích trử, một noi theo Quan thầy yêu ở khó khăn, chẳng muốn sắm ăn sắm mặc, có vừa no dạ kín thân thì lấy làm đủ, Habeutes alimenta et quibus legamur, his contenti sumus (I TIM., VI, 8).

Khi có dư ít nhiều, thì người lo bố thí giúp kẻ thiếu thốn. Mà trong đều nầy thì chẳng kể ra đặng các sự rộng rãi người đã làm mà giúp anh em, con cái, cùng kẻ quen biết, vì người giữ kỷ lời Chúa dạy, Nesciat sinistra tua quid facial dextera tua (MATTH., VI 3), chẳng cho tay tả hay việc tay hữu làm. Có đôi đều không giấu đặng, như người đã dưng cho Nhà trường bộ áo lễ vàng, thầy năm thầy sáu dùng khi hát lễ cả, có hơn 100$, và cây đờn lớn dùng tại Nhà trường, chừng 800$. Nhiều khi người chẳng đợi kẻ túng ngặt mở miệng xin giúp, vừa hay túng, người đã trao ra, như khi người nghe họ Hạnh Thông Tây tính cất nhà thờ lại, liền rút giấy 20$ bố thí liền, chẳng chờ xin. Ta thấy mỗi năm trong số Hội ông thánh Vêrô, in tên người làm hội hữu đời đời mà giúp Nhà trường. Khi phải lo chuyện kính Chúa yêu người, thì người chẳng hề biết so đo bòn sẻn.

Người cũng chẳng biết tiếc mà sắm sách vở, những thứ làm ích về việc học hành và chuyện nhơn đức, như những thứ Sách đoán cho đặng giúp người dọn bài dạy các thầy trường lớn, những thứ sách giải nghĩa Thánh Kinh, sách bài giảng, sách các thánh sư, sách sử Hội Thánh, sách dẫn lối đàng trọn lành, dạy các nẻo về Sự sống thiêng liêng, về sự nguyện gẫm, sách hạnh các thánh. Không kể được là bao nhiêu sách người đã mua, đã dùng, đã học, đã xem. Trong mấy năm sau hết thì người ước rằng phải chi có tiền dư ba bốn trăm đồng, thì người liều mà đóng tủ sách cho lớn đủ mà trử sách vở người cho có lớp lang thứ tự để đời, kẻo để nhiều chỗ phải lạc mất thì uổng lắm; vì người có ý để nguyên vậy đủ hết mà trối lại trong Nhà trường, chẳng muốn phân phát ra, để dùng chung, ắt là làm ích cho nhiều người hơn.

Người nhờ sách vở mà làm cho những sự người học và dạy dỗ càng ngày càng thêm toàn hảo minh mẫn; cũng dùng đó mà nuôi linh hồn mình, cho đặng học cùng các thánh mà tấn tới trong sự kết hiệp cùng Chúa, theo lời các thánh dạy, theo gương các thánh làm, - mà giúp mình trong việc nguyện gẫm. Nhiều khi người nói rằng: “Tôi u mê lắm, không có sách, thì tôi không biết làm thế nào mà nguyện gẫm.” Người dùng đó cho biết dìu dắc các linh hồn người đã lãnh cho trúng đàng phải đi, cho biết nẻo khử trừ tính xấu, luyện tập nhơn đức, - dùng đó mà dọn các bài giảng dạy về việc thiêng liêng trong các nhà tu, cho nên lời người dạy dỗ rất hữu ích, khác nào mật ong đã nút trong các thứ bông mà làm ra.

Có khi người gặp sách tốt, hữu ích, thì lại xuất tiền mua, mà phân phát ra cho con linh hồn cùng kẻ quen biết đặng nhờ, mà chẳng lo hao tổn.

Vì người hằng ước ao cho những kẻ người phải lo lắng cũng làm như người, là tìm phương thế mà tấn tới luôn trong đàng kính mến Chúa, trong sự thắng trận tính xác thịt mà luyện tập về các nhơn đức. Cho nên khi người gặp đặng thế nào mà giúp mình, thì vội vàng thông ra cho kẻ khác cũng đặng nhờ như mình.

Chẳng những người lo tìm phương hiệu nghiệm trong sách vở mà thôi, lại khi có thế nào khác bề ngoài mà làm ích cho mình, hay là cho kẻ khác, thì người lo cho đặng dùng. Như thể vào họ nọ họ kia đã lập ra trong Hội thánh. Khi Đức Giáo Tông Piô thứ X đã ra sắc chỉ về sự rước lễ hằng ngày, thì đã lập ra một hội Thánh Thể cho các thầy cả vào, mà lo khuyên lơn thúc hối bổn đạo về sự năng rước lễ, ai vào hội ấy thì đặng nhiều phép riêng làm ích cho bổn đạo, thì người đã lo vào hội ấy, và lo làm hết sức cho ai nấy trong những kẻ cậy người về việc thiêng liêng, đặng thêm sốt sắng theo ý Chúa, mà cẩn quyển về sự rước Chúa, và đặng nhờ những ân tứ Hội thánh ban.

Song dầu người ái mộ về sự vào hội thể ấy, mà người không vội và vô ý; có khi biết hội nọ có ích trọng, người muốn biên tên mình vào, mà bỡi có đôi đều trong điều luật hội người không thể giữ trọn đặng, vì mắc chuyện làm theo bổn phận cản trở, nên phải bỏ qua, hay là phải xin chuẩn, thì dầu người ước ao cho lắm, cũng không xin vào. Người nghĩ rằng: nếu mình rõ biết có đều mình không thể làm đặng, thì không nên lãnh luật và hứa buộc mình làm chi, mà vừa buộc mình rồi phải bỏ qua, phải lỗi luật, hay xin chuẩn, thà đừng buộc mình thì hơn.

Như thể có một hội thầy cả người ước ao vào lắm, kêu là lội Pretres - Adorateurs; mà ngặt trong luật hội ấy buộc mỗi hội hữu, mỗi tuần một lần; phải ở chầu trước Mình Thánh Chúa trót một giờ luôn, chẳng đứt khúc; phải chi được chấp đôi ba khoản cho ra trọn một giờ, thì dễ, song phải có luôn trót một giờ không đứt khoản, thì trót tuần người kiếm không ra một khi nào mà mình rảnh đặng một giờ thẳng thét, để mà chầu Chúa như vậy. Cho nên trong mấy năm, dầu người mơ ước tận tình, mà không dám chịu tên vào hội ấy. Chẳng hẳn hồi người yếu đuối bịnh hoạn trong mấy năm sau hết, mà bớt công việc làm, thì người đã liệu đặng mà vào hội ấy như lòng sở một chăng.

Khi dòng Carmêlô lập phép Dòng thứ Ba tại Sài Gòn cho những kẻ ở giữa thế gian, dầu nam dầu nữ, đặng vào, thì người cũng muốn vào cho đặng thông công nhờ phần ích, và có kẻ đã nài nỉ thúc bồi lắm, song người không chịu, vì thấy trong luật có đều không thể tiện cho người giữ đặng, như sự chay lòng trong những ngày người mắc bua việc bổn phận phải làm, nếu lãnh luật thì sẽ phải xin chuẩn, nên người thà chẳng lãnh, để ở ngoài mà dưng lòng ước ao cho Chúa mà thôi. Mà Chúa nhơn từ công bình, ắt đã nhậm tình ước ao nầy như việc toàn công mà trọng thưởng người.

Có một hội khác, tên là Union Apostolique, cho các thầy cả lo việc họ đặng thông công cùng nhau, chẳng buộc đều gì ngoài việc phải làm theo bổn phận, chỉ phải lo việc đứng bực mình cho trọn lành mà thôi, và lo giúp đỡ chung cùng với nhau trong việc thiêng liêng, có thể cho ai nấy nhờ mà nên thánh, là hội các Đức Giáo Tông đã ưng nhận, và chính mình Đức Giáo Tông Piô thứ X đã vào hội ấy, khi còn làm Giám mục. Khi người biết hẳn đặng ý tứ và luật lệ hội ấy, thì liền lo cho đặng vào, lại lo làm hết sức cho bề trên ưng lập hội ấy trong Địa Phận, hầu cho đứng chăn chiên Chúa, đang mắc nhiều việe giặng gịt bề ngoài, dễ mà chia lòng chia trí bê trễ phần thiêng liêng, đặng thông công trong hội ấy mà chín chắn lo phận riêng mình, kẻo mắc lo giúp kẻ khác mà mình phải thiệt, Ne forte, cum aliis praedicaverim, ipse reprobus eficiar (1 Cor., IX, 27). Nhờ ơn Chúa thì việc người lo đặng thạnh sự, và các cha vào hội ấy đã đồng lòng bàu người lên làm bề trên mà lo việc trong hội. Khi người qua đời thì hội ấy đã đặng bốn mươi chín hội hữu.

Xem trong hạnh thánh thì thấy nhiều khi các thánh phàn nàn vì không đặng Chúa đến viếng thăm, là khi các thánh đặng mạnh khỏe lâu ngày, chẳng mắc bịnh hoạn, chẳng có dịp chịu khó vì Chúa. Phần cha Humbert, thì đã đặng ơn Chúa đến thăm như vậy nhiều lần. Một lần thứ nhứt là giữa năm 1881, người phải ung độc trong hàm, không ai dè là bịnh nặng, tưởng dán thuốc dán ít bửa, nó muồi rồi hết, chẳng hay càng ngày càng thêm đau đớn nhức nhối, phải đi nhà thương chịu quan thầy mổ, ra những máu độc đen bầm cả chậu; phải chi chẳng mổ kịp ắt là bỏ mạng. Khi người khá lại mà trở về nhà trường, thì học trò nhìn không đặng, vì râu đã cạo hết.

Cách mười mấy năm bình yên sức khỏe, qua lối gần cuối năm 1893, người đau lại một trận nữa cũng nặng lắm. Phen nầy người thấy chết tới, nên lo dọn mình tạ thế: sổ bộ tiền gạo nhà trường người cậy kẻ lo tính toán sắp đặt đành rành, kẻo khi người khoản rồi mà sinh chuyện gì rối rắm. Song chưa tới ngày giờ Chúa định, nên thỉnh thoảng bịnh nhẹ lần hồi, cách một đôi tháng thì đà đặng lại vừa đủ sức mà làm việc bổn phận thường ngày. Từ ấy thì người bớt sức, nên sau đã phải đi nghỉ dưỡng bịnh bên Hongkong một ít tháng.

Xem ra Chúa muốn dùng bịnh hoạn mà làm cho đầy tớ mình nên thanh sạch càng ngày càng hơn, cho nên càng lớn tuổi, càng gần mồ, thì những cơn bịnh càng kế tiếp nhau nhặt hơn. Mấy năm sau hết người đã đau đi đau lại nhiều lần, mỗi chuyến phải nằm nhà thương nhiều ngày, có khi nhiều tháng.

Thường bịnh phát ra thì làm cho người nóng rét mê man mà té xuống, có khi ban đêm người té dụi xuống đất nằm lâu giờ, mà chẳng ai hay biết. Hết cử rét thì ống chơn sưng lên mà đau nhức riết, phải bỏ mà chịu nhiều tuần, nhiều tháng. Trong những cơn thể ấy, thì thấy rõ người đã thông thuộc đàng hãm mình chịu khó thuận theo ý Chúa là thể nào. Bịnh hành người phải nhức nhối khốn cực quá lắm, phải nằm thíp thíp một bề, dầu khi ăn uống, ngủ nghê, dầu khi có chuyện cần, cũng không dời chỗ đặng, mà người cũng bằng lòng vui mặt, chẳng thở than rên siếc, không trách móc năn nỉ, một nhớ Chúa treo trên thánh giá không trở trăn co duỗi đặng, và mừng mình có phước giống Chúa chút đỉnh. Sự cực lực nặng nề hơn hết là không đặng làm lễ, có khi cũng không đặng rước lễ nữa. Khi người lành mạnh, lo giúp kẻ liệt, thì người hằng lo cho kẻ ấy đặng của nuôi linh hồn thêm sức mạnh và sự an ủi bề trong, cho kẻ ấy chịu nổi các sự đau đớn trong cơn bịnh hoạn. Có khi mỗi ngày người phải đem Mình Thánh Chúa thể ấy, tháng nầy sang tháng kia, mà chẳng những không phàn nàn, lại lấy làm vui mừng mà giúp kẻ liệt cho đặng sự an ủi cực trọng nầy. Cho nên khi người đau đớn mà chẳng đặng rước Chúa, thì dễ hiểu lòng người náo nức ước ao là thể nào. Nhưng vậy người hằng cầm lòng theo ý Chúa, mà nhịn đói thiêng liêng nầy, cho đặng thông công cùng sự Đức Chúa Giê-giu đã chịu Đức Chúa Cha bỏ người trong vườn Giếtsêmani và trên cây thánh giá. Người chẳng tỏ dấu buồn trách, chẳng nói tiếng gì cay đắng.

Khi người đặng khỏe lại khá khá, mà quan thầy chịu cho người làm lễ, thì biết lòng người hớn hở vui khoái là thể nào.

Lối năm 1914, khi người bị một trận đau thể ấy, mà mạnh lại rồi, thì thầy thuốc chỉ cho người một phép bó ống chơn, cho máu châu lưu cho đều, chẳng nghẹt lại mà làm bịnh, thì người cứ giữ phép ấy, cũng lo hằng ngày dùng thuốc nọ thuốc kia, và canh giữ trong mọi sự, dầu chút đỉnh, cho đến trong món ăn, thì đã đặng tạm yên gần trót hai năm, mà bịnh không trở lại. Song nó càng nín lâu, thì chừng trở lại nó càng làm khốn; vì năm ngoái đây, người đã bị lại, mà thêm sưng cho đến trên bắp vế, lại xung quanh mắt cá phải đau đớn cho đến đỗi để bàn chơn cho bằng thẳng đều đặng mà đạp đất thì chịu không nổi. Người phải nằm trên giường một bề lâu ngày hơn mọi chuyến khác, và nhức nhối hơn mấy phen trước.

Ông thánh Phanxicô Salesiô xưa tính rằng: phải chi được thì người muốn chịu cơn bệnh sau rốt cho dai hết sức, cho đặng ai nấy giúp người thì mòn mỏi đã thèm, đến khi người tắt hơi, thì không còn ai buồn tiếc mà cực lòng, mọi người sẽ vui, ít nữa là nhẹ lòng, vì khỏi giúp người nữa. Không biết cha Humbert có bắt chước ông thánh ấy mà ước ao như vậy chăng. Mà người chịu cơn bịnh sau hết dài ngày lắm, và khi xem ra khá lại, thôi nằm nhà thương, trở về ở phòng riêng trên lầu, thì cũng còn cần phải có kẻ giúp đỡ lo lắng cho người liên. Song những kẻ giúp người dầu lâu dài khó nhọc, thì cũng hằng vui lòng tận tình thương lo giúp đỡ, chẳng tiếc công, chẳng sờn lòng, chẳng phàn nàn năn nỉ, vì thấy gương người bằng lòng chịu sự đau đớn khốn cực trước mặt mình luôn, ra như cha con đua nhau mà lập công làm sáng danh Chúa

Bỡi quan thầy chẳng cho người xuống thang lầu mà vào nhà thờ, thì Đức cha cho dọn bàn thờ trong một phòng trên lầu, cho người đặng làm lễ misa hằng ngày. Sự ấy an ủi người lắm, song người chưa lấy làm đủ, hằng ước ao cho đặng bước vào nhà thờ mà cầu nguyện trước Mình Thánh Chúa. Trong giờ làm lễ riêng trong phòng, thì người nói có những sự bề ngoài giúp người, những ảnh tượng, đèn đuốc, bàn thờ, đồ lẽ, kinh đọc trong sách lễ, có sức làm cho người cầm lòng trí mà sốt sắng được. Còn sự viếng Mình Thánh Chúa, phải ở trên lầu mà ngó nhà thờ, thấy cây cối và mặt tiền nhà thờ mà thôi, thì khó bề giục lòng sốt sắng; dầu là khi cả nhà đang hát kinh chầu phép lành, người ở đó mà ra sức hiệp cùng kẻ cầu Chúa trong nhà thờ, thì trí lòng cũng bản lảng, chẳng bằng khi đặng phước quì gối trong nhà thờ mà ngó nhìn nhà tạm, hay là Mình Thánh Chúa để ra nơi hào quang trên bàn thờ. Song dù người ước ao, mà cũng không đặng, vì quan thầy sợ người lên xuống thang lầu, thì bịnh vội trở lại, nên cứ một bề ngăn cấm sự ấy. Cha đã quen đàng bỏ ý riêng mà vưng lời chịu lụy, thì cứ bề tế lễ theo ý Chúa, mà chịu sự lòng đói khát thể ấy cho trọn bề theo chơn Chúa.

Trong lúc sau hết nầy, thì người cũng còn lãnh việc dạy dỗ được một hai chút mà giúp trong nhà trường đang hồi túng rối, các cha tây phải đi lính, thiếu giờ mà dạy dỗ. Người vui mừng mà làm việc người đã làm trót đời người. Và xem ra khá lại được, đến đỗi quan thầy ưng chịu cho người lên xuống một hai lần mỗi ngày. Chẳng hay đó là ngọn đèn nháng lên, khi dầu đã tiêu hao không còn gì mà cháy đặng nữa.

Bịnh cũ người không đáo lại làm hung, mà trong tuần thánh năm nay, thì người phải ho, nghẹt họng nói không muốn ra tiếng, và đau trong họng. Dẫu vậy người cũng cứ làm việc hằng ngày không bỏ. Ngày lễ Truyền Phép người cũng còn đi xuống, vào nhà thờ kiếm thế cho đặng ở lại mà chầu chực Chúa.

Quan thầy thấy bịnh tấn thì lo hết sức mà chặn lại, song không nổi. Họng cha trước đã đau đớn lắm, rồi kế tê bại, không còn biết đau nữa. Chúa nhựt và thứ hai lễ Phục Sinh cha cũng còn rán làm lễ đặng, mà thứ ba phải ngưng lại. Người khó nói cho ra tiếng lắm, và trong cổ khò khè theo hơi thở, trong mình cực lực lắm. Nhưng vậy người cũng cứ ngồi tòa làm phước cho mấy con linh hồn đến xưng tội, không dè mình đã gần đến giờ ra khỏi thế nầy. Cho đến ngày thứ tư, cha Artif đến thăm mà thấy người phải lao lực quá, e người phải hấp hối, mới nói cho cha bề trên Hay và Đức Cha liệu làm các phép bí tích sau hết cho người. Đang khi chịu các phép thì người tỉnh táo lắm, mà đọc theo các kinh Hội thánh và thưa đủ hết. Người chịu viaticô cũng một lượt chiều ấy.

Qua ngày thứ năm người còn rước lễ đặng, nuốt Mình Thánh Chúa dễ; cả ngày người cũng tỉnh cùng nhìn biết hết mấy kẻ đến thăm. Đến ngày thứ sáu, người cũng còn rước lễ đặng một lần nữa, mà lần nầy khó mà nuốt Mình Thánh Chúa vào. Rước lễ rồi, người vụt chổi dậy một mình mà ngồi cho đặng cám ơn Chúa. Song không còn sức trong mình, nên cách một phút phải nằm xuống mà cám ơn cho rồi. Những ai đến thăm thì người ngó nhìn và tỏ mặt bằng an mỉm cười, mà không còn nói gì đặng nữa; tay người cùng chẳng ra dấu gì nổi nữa.

Dầu phải đau đớn nhức nhối cực lực, mà người cũng cứ theo ý kẻ giúp người trong hết mọi sự; khi cho uống thuốc men hay là chút nước thịt, thì cũng rán uống, không chối cãi; khi phải thay đồ đạc, cổi ra, mặc lại, động địa đau đớn, khi phải dời chỗ, để nằm trên ghế dài, đem sang qua trên giường, thì người cũng để làm tự ý, chẳng chút cản trở. Còn một giây nữa mà lập công thêm, mà làm cho linh hồn thêm sạch sẽ tinh tấn, thì người cứ việc từ bỏ ý mình mà làm cho xác thịt chết cho tuyệt phen nầy.

Mới an tịnh, bịnh phát làm xung, người phải hấp hối, cách chừng nửa giờ hồn lìa xác phàm trần thế, mà về cùng Chúa nghỉ ngơi hoan lạc đời đời. Hồi ấy là 10 giờ rưởi sớm mai thứ sáu, 13 Avril 1917, thiếu ba ngày thì trọn 67 tuổi.

Sớm mai thứ bảy, Nhà trường hát lễ cầu cho linh hồn người đặng mau khỏi nơi luyện hình mà về chầu Chúa, có hai Đức Cha chầu lễ. Chiều lại 4 giờ ba khắc, các cha xung quanh Sài Gòn tựu lại, hát Vesperas, đoạn Đức cha Quinton làm phép xác và đưa đến đất thánh các Cha Dòng Sai, tại Chí Hòa, kế lăng Đức cha Vêrô, có đông người đưa theo, nhiều người nhà phước, nhứt là các chị ông thánh Phaolồ.

Ở cha yêu dấu, bao lâu cha còn ở thế, thì hằng lo lắng đêm ngày làm việc Chúa trọn bề trung nghĩa chín chắn một mực, chẳng hề nới tay, không sợ mệt mỏi, không kể đau đớn, những ra sức cho đặng thêm sáng danh Chúa, cho các linh hồn cha đã lãnh mà dìu dắc đặng thêm biết Chúa càng ngày càng hơn, đặng tỏ rõ đàng đi nước bước trong sự sống thiêng liêng, mỗi ngày ưu cần tiến thảo trừ căn những tính hư nết trái, trồng trỉa vun quén cội nhơn đức, hầu lên cây lành sinh trái tốt. Những lời cha dạy dỗ, thì cha giữ trước mà làm gương cho con cái. Nay cha chẳng còn nói năng ra vào giữa chúng con, mà lời cha đã ghi tạc trong lòng trí làm mẹo mực, đâu dám bỏ quên, một cứ thìn lòng nhắc nhớ nắm giữ, ngõ cho việc cha đã gây dựng nên toàn hảo.

Nguyện xin Chúa nhơn từ trả công và thưởng cha muôn ngàn quá hơn những việc cha đã làm; xin Chúa chóng đem cha vào sự sáng Chúa, mà hưởng vui vẻ Chúa dịu dàng quá hơn trí nhơn loài suy thấu. Cha đến nơi vĩnh an, mựa nở quên chúng con còn đang lao lực nguy hiểm giữa chốn chiến trường, dưng lời nguyện giúp cầu bàu cho chúng con vững gối, cứ theo đàng cha đã chỉ, mà làm sáng danh Chúa, cho đặng ngày kia cha con vui vầy cùng nhau trên cõi thường sinh muôn kiếp.

Tới đây, trước khi hạ bút, tôi gởi lời cùng con cái cha Fêlicê, xin miễn chấp, trước là vì dầu tôi đã cả lòng lãnh việc dẫn tích cha lành, nhưng đã chậm trễ, làm cho có kẻ phải náo nức chờ đợi lâu ngày quá; sau là vì dầu tra tay biên chép, mà không nói cho đủ đều, nhiều chuyện bỏ qua, có đều hoặc chẳng chính đính. Vốn khi người vừa tắt hơi, tôi muốn tra tay lo tức thì, song càng suy càng nhớ, thì càng lo e đã cả lòng cậy mình mà lãnh việc quá sức mình, nên hóa lưỡng lự mà ra trễ. Song nghĩ lại, cứ đợi chờ thì ra chuyện thất ngôn, mà lại thất nghĩa, nên cũng phải đánh liều. Bỡi không sức làm hạnh cha được, nên chỉ lo nhắc tích về những đều đại cái vừa đủ tạc hình cha nơi giấy mực, cho kẻ đã biết cha thì vừa đủ nhìn được đó là người ta đang thương tiếc. Vì vậy trong đoàn con cái cùng người quen lớn, có kẻ thấy chuyện nầy, có người thấy đều kia đã bỏ qua chẳng doãn lại. Xin phô kẻ ấy nhiêu dung, vì trong chút sự tích mọn nầy chẳng thể nào nói đủ đều đặng, lại tôi cũng chẳng dám hỏi han cho hết mà chép hạnh người; sự ấy xin nhượng lại cho ai đó tài sức thế thần. Phần tôi, đã ghi chép bấy nhiêu đều mà đền ơn trà thảo theo sức mọn tôi, xin kẻ xem nhớ đến cha mà giúp lời cầu nguyện, thì cũng chớ nỡ quên tôi trước mặt Chúa.

Mátthêu Đức.

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1917

 

Thứ Ba, 15 tháng 11, 2022

Sự tích Cha Gabirie Nguyễn Khắc Thành

SỰ TÍCH

Cha Gabirie Nguyễn Khắc Thành

------------------

CHA GABIRIE NGUYỄN KHẮC THÀNH, là linh mục bổn quốc Địa Phận Sài Gòn, quê ở tại Tân Triều, tĩnh Biên Hòa, cha mẹ đạo dòng. Thuở nên 16 tuổi, người đã vì Chúa vì đạo, lìa cha mẹ sang học tại Pinăng. Lòng người những quyết lãnh gánh linh mục làm cho sáng danh Chúa và giúp bổn sở quê nhà về đàng phần rỗi, vì lúc ấy chẳng có mấy thầy linh mục, bỡi vua quan tìm bắt đạo thành Chúa nhặt nhiệm quá đỗi.

Cha Gabirie học đặng bảy năm, đoạn trở về giúp Địa Phận. Đức Cha sai người đi dạy khi chỗ nầy, khi chỗ khác, lặn lội mở mang bờ cõi Chúa Khirixitô. Người đi cho tới Lai Vung, Lấp Vò, Bò Ót, Long Xuyên; người xuống Sa Đéc, Cái Bè; người ra tới Thị Rịa, Đất Đỏ, lên Long Thành, Mỹ Hội. Có lần kia Đức Cha sai người lội bộ từ Thị Nghè lên cho tới Đầu Nước, đàng xá cách sông, cách rạch, rừng bụi, hùm beo, rất hiểm nghèo, lại rất khổ là đang buổi cấm kín. Song người vui lòng đi, chẳng chút trì hưỡn dùng dằng thở than, một nhắm mắt vưng lời Đức Cha như vưng lời Chúa.

Cách ít năm sau người đã thọ quờn Linh mục, nhằm ngày lễ ông thánh Giude Bàu chữa các giáo hữu, tháng Avril năm 1859, người vừa nên 28 tuổi.

Cha Gabirie lãnh quờn linh mục, là sự lòng người đã trông ước và dọn mình bấy lâu, thì người càng nông công sốt sắng mà làm các việc cho phỉ tình người sở nguyện. Người hằng ngày bẻ bánh thiêng liêng phân chia cho đoàn chiên Chúa, những ngồi tòa làm phước, dạy dỗ, ủi an kẻ trễ nải, dẫn đàng người xiêu lạc. Người đã qui các người nhà phước chạy tứ tán đang lúc loạn ly, mà đem về Thủ Thiêm, cất nhà cữa, lo lúa gạo, tập nề nếp, dựng cơ đồ, cho phải đạo kẻ dưng mình cho Chúa. Lại bao người chạy giặc người gôm đương dìu dắc, lo mọi sự trong ngoài. Người lo súc lo gỗ dựng nên nhà thờ Thủ Thiêm, rày còn lại ít cây cột trong nhà thờ mới bây giờ nhắc tông tích công lao người đó.

Họ Thủ Thiêm huờn thành, Đức Cha dạy người đi Tha La, Bàu Tre, lo lập mấy nơi xung quanh ấy, đoạn lại về Bến Gỗ mở mang những chốn lâm sơn.

Mà thảm thay! phần xác người không đặng mạnh; người làm thầy cả chưa đặng mười năm, thì đã mang lấy bịnh thổ huyết nặng nề, mà mang cho đến chết. Ghe lần người phải liệt nhược bỏ cơm bỏ cháo, mà khi vừa tỉnh lại thì người liền tra tay làm các việc bổn phận, không chế không giảm một việc nhỏ mọn nào.

Người không chịu ở nhưng, vì người hiểu sự ở nhưng là cội rễ mọi sự dữ, nên dầu khi người chẳng còn sức mà quản hay đoàn chiên Chúa, bề trên định người phải nghỉ, thì người cũng lừa dịp mà làm phước, ngồi tòa giải tội, coi sách latinh, sách cầu, lần hột, đọc kinh, đi đàng Thánh Giá; rảnh các việc ấy rồi người làm việc xác: trồng cây, nhổ cỏ, tưới xoài, tưới mít; trưa nắng người vào, lại vá áo, vót nan, chẻ lạt, chẳng khi nào người cho mình ở không nhưng một phút.

Bằng về lòng khiêm nhượng người, ai nói cho đặng việc bề trong, việc bề ngoài! Người tỏ lòng cung kính hết mọi người, dầu kẻ nhỏ tuổi hơn người, thì người cũng nhượng trong mọi lời nói, đến đỗi bề trên bề dưới đều mến thương người cả thảy.

Sau hết cha Gabirie về nghỉ tại Lương Hòa, ở vuối cha Vêrô Gia là học trò người đã cho đi ăn học và đặng làm thầy cả đang coi sóc họ nầy. Cha con ở vuối nhau thật là phụ từ tử hiếu, cha hiền con thảo. Cha thương con dường có một; con mến cha thiệt chẳng phải hai. Cha Gia tận tình báo đáp ơn cao nghĩa dày, nhứt nhựt vi sư, huống chi ơn nuôi dưỡng, lại tập rèn dạy dỗ bấy năm trời, cho đi nhà trường đặng chịu chức thầy cả, thì phải trọng nghĩa là chừng nào! Cha Gia rất vui lòng lo lắng cho người mọi bề.

Chẳng hay Cha Gabirie ở đặng ba năm, thấy mình một ngày một thêm yếu liệt, biết ngày giờ Chúa định đã tới, bèn than thở xin về Sài Gòn, đặng nằm chốn đất Thủ Thiêm, là như đất Đức Chúa Trời đã hứa cho người thuở ban sơ mới làm thầy cả.

Vậy người về ngụ tại Xóm Chiếu ước đặng một tháng hai mươi ngày; lúc nầy người liệt nặng hơn không còn gượng tế lễ Chúa được nữa, người mới trối phú và sắp đặt mọi sự sẵn sàng (…), thì người chỉ nơi đất thánh Thủ Thiêm. Yên bài mọi việc đoạn, qua tới ngày 12 Février người ngặt mình cho đến chiều ngày 13 người từ giả thế gian mà về nước thiên đàng hưởng lễ ngũ tuần thầy cả người đời đời cùng Chúa.

Phanxicô

Bổn quán hết lòng cám ơn ông Phanxicô, vì đã doãn lại tích nầy.

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1909

Thứ Hai, 14 tháng 11, 2022

Sự tích Cha Giacôbê Trần Công Bình

 SỰ TÍCH CHA GIACÔBÊ TRẦN CÔNG BÌNH

------------------

Đang lúc cấm kín; tại họ Ba Giồng có hai ông bà nhà đạo đức; ông tên là Philipphê Trần văn Cẩn, bà tục quen kêu là bà Cầu, kêu theo tên con đầu lòng; hai ông bà sinh đặng mười người con: sáu trai, bốn gái, mạnh mẽ sởn sơ, trong nhà lúc y lúc thực, việc đạo hạnh cần mẫn chín chắn; Giacôbê là con thứ tám, người sinh ra năm 1838; Mậu Tuất niên ngày 20 tháng ba annam, Minh Mạng thập cửu niên; người sinh ra tại làng Tân Lý Đông hạt Mỹtho; khi đó cha Minh (Á thánh Minh) lâu lâu thì vãng qua họ Ba Giồng lo việc thiêng liêng cho bổn đạo; người đã rửa tội cho Giacôbê, khi đến tuổi khôn thì học vỡ lòng với một anh biện đồng nhi; cha Minh cho phép kêu anh biện nầy là thầy Yến; hễ thầy Yến dạy sự gì rồi, đến khi á thánh đến vãng họ thì người hạch hỏi lại học trò cho biết thuộc cùng chăng.

Giacôbê từ bé cho đến lớn tánh nết thật thà, hiền lành đằm thắm dễ ăn dễ dạy; khi trò Giacôbê đặng 12 tuổi á thánh Minh dạy trò nầy cùng cho chịu lễ vở lòng và ban phép xức trán luôn; á thánh Minh thấy con trẻ nầy có tánh hạnh tốt, nên cha bắt ở làm học trò giúp lễ cho ngài đặng một ít lâu; cha hay nói với trò Giacôbê rằng: cha đã cho nhiều đứa đi nhà trường Latinh mà nó không bền đỗ, bây giờ cha muốn cho con đi nữa đặng sau làm thầy cả nối quờn cho cha. Song cha thánh nầy mắc lo việc cho bổn đạo, nên không đặng rảnh rang khi nào. Vậy người đã gởi trò Giacôbê cho cha Pernot dạy giùm tiếng Latinh, song lúc ấy cũng khó nỗi việc học hành, vì cha Pernot ban ngày thì phải ẩn ánh trốn lánh ngoài vườn tược, kẻo quan cựu gặp đặng thì bắt; bổn đạo hằng ngày lén đem cơm cho ngài ăn ở ngoài vườn, tối lại thì cha mới dám vào nhà bổn đạo mà nghỉ.

Khi đó địa phận Saigon và Cao mên là chung làm một, Đức cha Ngải (Mgr. Lefèbvre) coi sóc. Trò Giacôbê và trò Lộc (Tổng đốc Trần bá Lộc, Cái Bè) cả hai có ở học trò hầu giúp Đức cha được một ít lâu. Song trò Lộc có tánh cang cường lắm, nên Đức cha không muốn dùng, trả lại cho cha mẹ.

Ở tại Cù lao Gieng có ông Lý Phụng, mạnh đạo hay chứa các cha thầy trong nhà, nên cha Pernot đem trò Giacôbê và bốn năm trò khác nữa núp trong nhà ông Lý Phụng, đặng cha lén lút tới lui trong nhà đó mà dạy mấy trò học tiếng Latinh.

Kế Đức cha gởi trò qua Phi-năng, ngài sai thầy sáu Triêm (sau kêu là cha Triêm) làm đầu mà dẫn năm đứa nhỏ đi tới Phinăng, có trò Giacôbê trong số 5 trò nầy, cũng có trò Lới (kêu là thầy Lới) con của ông trùm Lưu ở Chợ quán, Đức cha mướn một người lái ghe bầu ngoại, đưa học trò đi; thầy Triêm làm đầu lãnh thơ từ của Đức cha bỏ trong một cái ghé đường ràng rịt kín đáo, ôm xuống ghe bầu, trò Giacôbê cùng anh em đến xuống mà lui ghe.

Ra tới sông Nhà Bè có đồn canh, nên phải lừa ban đêm mà đi qua chỗ đó, đồn bên nầy sông, ghe lén đi bên kia sông, mà phải chèo nhẹ thả theo nước đặng lén đi qua, kẻo lính đồn hay bắt đặng soát ghe thì cũng vấy ổ, qua khỏi đồn rồi mới vui mừng cùng nhau. Khi ghe bầu vừa mới ra tới cữa biển Cần Giờ, liền kéo buồm chạy ra khơi biệt mù, thấy trời với nước mà thôi, khỏi hơn một ngày đàng thì thấy hòn Côn Nôn dạng dạng nằm nước; các trò chỉ chọc với nhau mà côi, chớ không có vô gần đặng, phần thì bị dại sóng mấy trò ngậc ngờ hết, ghe chạy buồm đặng hai ngày hai đêm, bỗng liền phát dông lớn, trời thì mù mù, mưa sa phẩy phẩy luôn, dông gió càng ngày càng lớn cho tới xế chiều bữa đó. Ghe bầu chịu không thấu phải chìm, vì sóng bổ vô ghe nhiều lắm.

Song nhờ ơn Chúa cùng Đức Mẹ che chở, bốn tên bạn thay đổi nhau đứng cầm gàu mà tát nước luôn, nên ghe không chìm cho thiệt, còn nổi lờ đờ. May đâu thấy dạng xa xa một cục gì trôi đen đen trên mặt sóng, ai nấy trông cậy hoặc là ghe, tàu chi đó, nên lấy khăn cột lại làm cờ, phất qua phất lại, có ý xin cứu giúp.

Thời may hình dạng trôi xa xa đó là chiếc tàu buồm của người Hồng Mao đi buôn, chủ tàu bổ ống nhòm thấy biết có ghe phải lụy, nên kéo buồm nam lại vớt giùm làm phước; vớt được lái bạn, ông thầy và 5 chú học trò, lên tàu đặng khỏi chết, còn chiếc ghe bầu khỏi một lát sóng đánh nhào lăn chỏng gọng, lui về âm ti.

Năm thầy trò lên đặng thì ai nấy còn có một quần một áo bận trong mình mà thôi, song ướt loi ngoi, nước mặn bổ vào rít chịt áo quần, ông thầy sáu sách kinh trôi đâu mất hồi nào không hay, lạnh đà chí để, phần bị đói nữa, bánh ổ cha mẹ làm bổ theo cũng cúng cho bà thủy.

Nhờ ông chủ tàu, cùng các bạn tàu cũng có nhơn, lấy các thứ áo quần cũ mà ban phát cho nội ghe, mấy thầy trò đặng mặc ấm, cùng cho ai nấy ăn một chút cho lại nghình.

Mà sự may: là khi đó thầy sáu Triêm còn sáng ý, dầu ghe phải lụy, song cứ ôm giữ cái ghé đường thơ luôn không rời, nên khi mở ghé ra cho chủ tàu xem, thì thấy những bức thơ của Đức Cha Ngải viết mà gởi gắm học trò qua Phinăng, chủ tàu coi thơ ấy liền hiểu mọi nỗi, đem lòng trợ các trò cho tới nơi.

Nhằm đường tàu đi qua Hồng Kông, cho nên ông lái chở thẳng mấy trò qua Hồng Kông, giao cho cha lo việc tại đó là cha Patriat, cha nầy hiểu rõ mọi nỗi căn do rồi, cầm Giacôbê cùng mấy trò ở lại đó hơn một tháng, còn thầy sáu Triêm thì cha việc lo gởi đi theo tàu khói qua Phinăng trước, vì người có chuyện phải đi lo việc thế cho Đức cha, song tiền tàu quá giang mắt lắm, nên cha việc Patriat tính với một ông bộ hành Hồng Mao toan đi qua Phinăng, xin cho thầy sáu theo làm bồi cho ổng, đặng nhờ tiền tàu rẻ hơn. Vậy mà từ Hồng Kông qua Phinăng, phần thầy sáu hết 30$ tiền quá gian. Khi đó cha giữ việc may cho thầy sáu một cái áo thường (laique) mà bận xuống tàu, không ai biết đặng ông thầy sáu chút nào.

Lúc đó, ở nhà Đức cha trông đợi lâu tháng, không thấy tin tức trả lời lại, thì Ngài tưởng đã chìm ghe chết hết rồi, nên Đức cha làm lễ cầu cho linh hồn mấy thầy trò, cùng cho tin cha mẹ hay để cầu lễ, xin lễ cho mấy con. Khỏi ít lâu sau, thì cha việc Hồng Kông mới lo gởi đặng trò Giacôbê và mấy anh em đi quá giang tàu buồm qua Phinăng tiền tàu rẻ hơn.

Lại nói đang lúc trò Giacôbê ăn học tại Phinăng độ chừng hơn một năm. Ở nhà cha ruột người ở tại họ Ba giồng, bị ông phủ Cậu, quen gọi là ông phủ cọp vì ổng có bịnh cùi, mà ông nầy tánh dữ tợn như cọp vậy, ghét con nhà có đạo, chém giết cùng hành hà nhiều thế.

Bữa kia ông phủ đến vây nhà bắt ông già của trò Giacôbê mà nói rằng: mi là Datô; mi theo tây, cho con đi học bên tây đặng về làm ngụy cùng trào đình phải chăng? Ông già trả lời rằng: con tôi mới 12 tuổi biết cái chi đâu mà làm giặc!

Dầu vậy mặc lòng ông phủ Cậu dạy quân lính bắt người anh của Giacôbê đem ra ngoài đồng chém đi, bắt mấy chị và em gái tẩn cấp cho vợ các quan là tì tất; còn mấy anh em kia mạnh giò lủi trốn mất, quan phủ bắt được ông già và em trai út của Giacôbê, trói lại bỏ xuống ghe bầu chèo đi tới chợ Tả Yến, khúc kinh kêu là Kiếng Vàng, nơi chỗ gọi là Cống Sâu; ông phủ dạy trói ông già và người em quăng xuống sông, song còn nổi lên đặng trên mặt nước mà kêu đi kêu lại câu nầy rằng: Giêgiu Maria Giude, vân vân.

Ông phủ dữ tợn nầy dạy lính trở guốc cây chèo mà bổ người cho chìm xuống mà chết cho rồi, quân lính thi hành y như lịnh dạy. Đến sau ông phủ nầy bị nhà nước Langsa bắt đặng xử tội treo lên trên cây da mà bắn chết tại thành Mỹtho.

Khỏi ít lâu, thơ gởi đến Phinăng cho trò Giacôbê hay, mấy chị và em gái người bị tẩn cấp đi làm tôi mọi, anh người bị chết chém, cha người và em trai út của người bị trấn nước chết. Ai nói cho xiết lòng trí Giacôbê lúc đó tán loạn bỡi tin ưu sầu là dường nào!! Phần vì đàng xá viển vọng xa xuôi, mặt biển, chưn trời, phần thì mới trãi qua nhiều nôi gian nan khốn khó vì Chúa như đã nói trên. Phần thì mới đến ăn học đất nước nầy, lạ cảnh lạ người, bơ vơ ngàn dặm. Vậy Giacôbê vì phụ mẫu tình thâm, anh chị là cốt nhục đồng bào, nên đau lòng xót dạ lưỡi nào kể xiết! Song cũng để bụng phú dâng cho Chúa, bề ngoài ăn ở cũng như thường, hằng lo bề nấu sử xôi kinh, cho kịp thì tiết với anh em chúng bạn Thất niên hòa, bảy năm đèn sách, thuộc đủ sách đoán, cùng giồi mài đức hạnh khôn ngoan. Bề trên nhà trường gởi Giacôbê theo tàu buôn của người Langsa về Saigon, cho Đức cha địa phận ban phép cắt tóc.

Lại nói Giacôbê đang khi học tại Phinăng chừng được ba năm, có thơ gởi qua cho cha nhà trường hay: á thánh Minh chịu tử vì đạo rồi, cha Bề trên vui mầng lắm, vì trong hội thầy cả Dòng sai có linh mục bổn quốc đặng đỗ máu ra làm chứng đạo thật; nên người dạy đánh chuông đánh trống một cách khởi hoàn, lại cho học trò nghỉ ba bữa đi dạo chung lên trên núi chơi cách vui vẻ lắm, cùng làm lễ tạ ơn Chúa.

Khi thầy Giacôbê về tới Saigon rồi, lối năm 1862, gặp trào Đức cha Mịch (Mgr. Miche), Ngài nói cùng thầy Giacôbê rằng: Ta muốn ban chức cắt tóc cho con, Song Giacôbê trả lời cách khiêm nhường rằng: Tuân lạy Đức cha, con còn niên ấu quá, xin Đức cha giãn ra cho con chức cắt tóc, để cho con mặc áo thường (laique), đi dạy chầu nhưng giúp việc giảng đạo đôi năm đặng con thử mình con thể nào giữa thế gian, rồi ngày sau con sẽ sẵn lòng vưng lời Đức cha, Đức cha nghe lời Giacôbê gởi thưa cách khôn ngoan, thì ngài liền nhậm lời, cùng sai thầy Giacôbê xuống Mỹtho làm thông ngôn cho quan Chánh Tham biện, ngồi tại tòa bố bên chợ cũ, phía đàng đi xuống Thủ Ngữ, thầy thông ăn lương một tháng mười đồng bạc. Lúc nầy con cháu của ông phủ Cậu, cũng còn tản lạc trong làng tổng về hạt Mỹtho, như thầy Giacôbê muốn oán thù con cháu của phủ Cậu, vì cớ sát hại gia thất của người thì dễ lắm; vì đời đó người ta quen nói rằng, quyền Tham biện, miệng thông ngôn, hễ thông ngôn nói sao thì ông Chánh nghe vậy; song thầy Giacôbê không tỏ chút chi oán hận khi nào, giữ sự bằng an với người ấy luôn, nên chúng nó có ý sợ thầy thông, cùng khen ngợi lòng nhơn lành hiền hậu của người lắm.

Khi thầy Giacôbê đứng thông ngôn tòa bố được một năm rưởi, thì Đức cha đòi người về, cùng sai lên ở họ Thala  giúp cha Y (P. Errard), khi đó cha cũng mới qua chưa thuộc tiếng annam bao nhiêu, có thầy Giacôbê giúp dạy chầu nhưng, bao đồng, xức trán cùng dạy cha sở học tiếng annam.

Buổi đó họ Thala còn rừng bụi cọp hùm nhiều lắm, chẳng phải trống trải thị tứ như bây giờ vậy đâu.

Thầy Giacôbê tánh ý đằm thắm dạn dĩ, ghe lần có bắn đặng đôi ba con cọp lớn, ra phá nhà bổn đạo, các quan tây có đến coi cọp của thầy bắn đặng, và khen thầy dạn dĩ quá.

Qua năm 1865 ngày 10 Juin thì Đức cha Mịch ban chức cắt tóc cho thầy Giacôbê tại nhà trường latinh Saigon, chỗ phòng cha giữ việc ở bây giờ, vì hồi đó trong nhà trường chưa có nhà thờ riêng. Năm 1866 ngày 17 Juin thầy chịu bốn chức dưới một lượt. Năm 1867 ngày 25 Juillet người chịu chức thứ năm, rồi Đức cha sai người đi dạy chầu nhưng chỗ 18 thôn vườn trầu tại Hóc Môn, nơi nầy lúc ấy đội quản đang dậy giặc nhộn nhàng lắm, thầy năm ở đó chẳng khác nào thịt béo đam treo trước miệng hùm, phần gian nan, sự lo sợ ghe ngày. Thầy năm thường về Saigon mà bàn tính việc kia việc nọ cùng Đức cha, thầy ngồi trên thớt tượng của ông đốc phủ Ca mà đi về Saigon thường khi.

Qua năm 1868 ngày 25 Octobre thầy chịu chức thứ sáu, rồi Đức cha lại sai thầy xuống dạy chầu nhưng tại họ Ba Giồng, chỗ nầy cũng chộn rộn đội quản dậy ngụy tứ tung; như xảy đến có một đêm kia, có một người chầu nhưng, ông nầy cũng là hương chức trong làng, tới nghe dạy với thầy Giacôbê hồi đầu hôm, qua canh ba thì có giặc nổi lên đốt phá chợ Thục Nhiêu, Mỹ Quí; ông đốc phủ Lộc ở Cái Bè xuống tầm bắt, họ khai cho tên chầu nhưng nầy, ông đốc phủ Lộc giận lắm, muốn ăn gan nó, song tên nầy nài hà nói vô tội, xin thầy sáu làm chứng, đêm ấy nó có nghe dạy với thầy hồi đầu hôm; mà nơi chợ Thục Nhiêu cách xa họ Ba Giồng hơn 20 ngàn thước tây.

Thầy sáu phải đến giữa mặt quan làm chứng quả đêm hôm đó nó có nghe dạy thật, nên người ấy khỏi tội, làm ông đốc phủ Lộc giận thầy sáu hung.

Quan năm 1871 ngày 5 Juin thầy Giacôbê chịu chức thầy cả, cả thảy mấy chức cũng tay Đức cha Mịch phong cho người, tại nhà trường Latinh Saigon nơi chỗ phòng cha giữ việc, như đã nói trên rồi; còn nhà thờ Cathédrale là một cái chùa của các chú, chật hẹp lắm, ở tại chợ cũ bến thành, gần vườn Bờ rô, quan Langsa lấy cho Đức cha làm nhà thờ.

Khi thầy Giacôbê lên chức thầy cả rồi, thì Đức cha sai cha mới nầy đến ở họ Cái Mơng giúp cha Bề trên Quí (P. Gernot).

Khi ấy có cha Trí và cha mới nầy mà thôi, cả hai cha phó lãnh coi mấy họ nhỏ xung quanh thuộc về sở Cái Mơng hết thảy là 23 họ.

Cha Giacôbê có lập một họ là Bình Nguyên và rửa tội chầu nhưng đông lắm, Đức cha ban thưởng cho cha một bộ áo lễ vàng rày cũng còn, người cho nhà thờ Giồng Keo để làm dấu tích. Trong mấy họ cha Giacôbê lập cùng coi sóc thì người phải hao tốn của riêng chẳng biết là bao nhiêu, hoặc lo việc nhà thờ, hoặc tu bổ trường học, hoặc giúp đỡ chầu nhưng, đạo mới.

Cha Giacôbê ở giúp cha Bề trên Quí trọn bốn năm, hai cha annam hễ một tháng thì ở nhà giúp cha Bề trên lo việc họ Cái Mơng, rồi một tháng thì hai cha luân phiên chia nhau mà đi làm lễ, cùng lo việc thiêng liêng cho các họ mới kể trên đó. Cứ vậy luôn luôn, đàng đi ghe cộ hồi đó là cam go lắm, vì lúc còn loạn lạc, việc cai trị trong nhà nước chưa yên, nên giặc giã tứ tung, ăn cướp, ăn trộm dọc đàng lăng xăng. Như xảy ra có một lần kia: cha Giacôbê đến ở làm lễ tại họ Ba vác, nhằm đêm ấy có tên Trần thế Điều dấy loạn tại Ba Vác; nó chém hết hai mạng mà tế cờ; rồi kéo binh gia đi rần rộ, trống phách khắc ba, giục sáu, nhộn nhàng, cha Giacôbê đếm đó chạy trốn ngoài rừng bụi cho thoát khỏi, ở nhà tin rội lên cho cha Bề trên hay việc hỗn hào như thế, cha Bề trên tưởng chắc giặc đã chém cha phó rồi, nên ngài lo sợ hết lòng; qua ngày sau cha thấy ghe cha phó đi làm lễ Ba Vác về vừa tới bến, người vụt la lên một tiếng lớn chỉ sự vui mầng cho bạn hữu mình khỏi lưởi gươm của kẻ nghịch thù chém giết.

Cha Bề trên Quí thấy cha Giacôbê thật thà, hiền lành, chơn chất nên ngài đem lòng thương mến cha Giacôbê lắm.

Khỏi bốn năm rồi, lối năm 1865 thì Đức cha dạy cha Giacôbê ra coi họ riêng, song cha Bề trên không muốn lìa bạn lành yêu dấu, nên người xin Đức cha cho cha Giacôbê đến coi họ Phú Quới và các họ xung quanh hết thảy là 8 họ, trong số 8 họ nầy, ít họ thuộc về Cái Mơng, ít họ thuộc về sở Mỹtho, ít họ thuộc về sở Cái Nhum, nên xem ra cha Giacôbê khi đó phải làm tôi ba chủ. Khi thì về bàn tính việc họ với cha Bề trên Quí, khi thì phải qua bàn tính với cha Linh (P. Moulins) ở Mỹtho, khi thì lại đến toan liệu với cha Thu (P. Tournier) tại Cái Nhum, song cả ba cha sở nầy thảy đều cám ơn, mến đức cha Giacôbê lắm.

Cha Giacôbê giúp coi 8 họ nầy độ chừng 10 năm; qua năm 1886 thì Đức cha đổi người đến coi họ Rạch Dầu cùng các họ nhỏ cả thảy là 6 họ, cũng còn trong sở Cái Mơng thuộc về cha Bề trên Quí; cho đến ngày cha Giacôbê già cả yếu đuối, Đức cha ban phép hưu trí nghỉ ngơi là 28 Septembre 1914.

Trong mấy mươi năm người làm việc Chúa cách kỷ cang, khấn giữ trọn niềm việc bổn phận cách sốt sắng kỷ lưỡng.

Khi người được phép hưu trí rồi, thì về núp mình ở với tôi là cháu nơi họ nhỏ mọn Tường Lộc, về sở Vĩnh Long, đặng 8 năm nay.

Tôi thấy đặng người lên chức thầy cả là năm 1871, đặng phép hưu trí là năm 1914, người lặn lội trong ruộng Hội thánh đặng 43 năm, gánh lo đoàn chiên Chúa, thuộc địa sở Cái Mơng rất nặng công trình, trải qua nhiều nỗi gian nan ngậm cay nuốt đắng cực khổ hết chừng.

Một tích truyện sau nầy, chỉ lòng cha Giacôbê hiền hậu, hay nhịn nhục, cùng dủ nhơn đức yêu thương là thể nào, khi người còn coi họ Rạch Dầu lối năm 1903, người khởi công sáng tạo đền thánh nơi họ nầy, khi đó người sẵn trong tủ 700$00 để cất nhà thờ, song tới kỳ phải đi làm lễ họ Tú Sang, người sợ để bạc ở nhà e có kẻ gian phá tủ mà lấy đi chăng, nên người đem theo mình có ý giữ gìn cho kỷ hơn, chẳng ngờ có đứa giúp việc cho người, liếc thấy người đem theo bạc nhiều, liền sanh lòng gian trá, lừa khi người hơ hỏng, nó liền mở hoa li lấy sạch bạc tiền, người cũng biết rõ là nó chắc không sai, song cứ dỗ dành khuyên bảo nó trả kẻo phạm tới của nhà chung mà mang tội nặng, song thằng gian trá nầy cứ chối mãi, nói mình không có lấy, người cũng ôm lòng chịu vậy, chớ không thấy tỏ mặt giận, hay là quở tiếng chi cho lung cho nó biết sợ; người trả lời một cách hiền lương với nó rằng: thôi mầy không trả thì già lần hồi già lo thường lại cho nhà chung, mà mầy mang tội khó lắm đa.

Kế có một cha kia bà con với người, nghe tin người bị ăn trộm thì đến viếng thăm, cha nầy thạo lý luật lắm, thuở nay cũng hay phân xử ý mẹo mực thì là rất tài, ai ai cũng đều phục khen là người hữu trí;  khi cha nầy nghe cha Giacôbê đọc đủ mọi duyên cớ, thì cũng đoán rằng: thằng đó lấy 700$00 chắc chắn, nên cha nầy xin cha Giacôbê biên cho người ít chữ cầm làm vi bằng; mà nói cha nghi cho thằng đó lấy, đặng người theo đó mà vấn tra thì chắc ra mối, cha Giacôbê sợ e cho thằng gian trá nầy bị vòng lao lý mà tội nghiệp, nên cha không chịu viết, làm cho cha kia tức mình lui ghe về mà rằng: ông già hiền lành như phật đúc, giúp ổng cái gì không được tức mình quá!

Khi cha Bề trên Quí biết trong mình ngài yếu liệt nhiều mà trí ngài còn tỉnh, ngài đòi cho đặng cha Giacôbê  đang coi họ Rạch Dầu về cho đặng ngài trối hứa mọi đều cặn kẻ, cùng nhiều lời thiết yếu từ giã bạn hữu đồng liêu, cho phỉ tình huynh đệ mến thương nhau. Cha Bề trên cố ngôn một câu sau hết cùng cha Giacôbê rất đáng nhớ thương thế nầy rằng: đã 43 năm nay tôi và cha hằng ở gần nhau mà lo việc Chúa nơi sở Cái Mơng nầy, rày tôi đã hết sức rồi; xin cha ở lại cứ lo việc bổn phận, trông cậy ngày sau hai ta cũng đặng ở gần nhau một chỗ là nước thiên đàng!!!

Lúc đó cha Bề trên và nói và rưng rưng nước mắt ngó nhìn cha Giacôbê, cha Giacôbê cũng nắm bàn tay ngài, trong lòng ngậm ngùi ái tuất, cả hai nhìn nhau đều nín lặng làm thinh, để cho hai hàng châu lụy làm chứng!

Đến lúc cha Giacôbê về ở với tôi nơi họ Tường Lộc, tuy là già yếu, chớ lòng thì còn sốt mến việc linh hồn bổn đạo, ưa ngồi tòa cho bổn đạo, ham ban phép rửa tội cho những trẻ ấu nhi; song Đức cha sợ e quên sót, nên không cho người làm phép rửa tội; hằng ngày làm lễ Misa luôn, không bỏ bữa nào, trừ ra một hai khi cha đi ghe đến đâu mà cha phải mệt, thì nghỉ làm lễ một bữa mà thôi, qua ngày sau cũng cứ việc như thường, đến đỗi trong tuần sau hết của ngài trước khi chết, tôi thấy có hơi mệt nhiều, hai bàn chơn thì sưng lên nhiều, ăn món chi vô thì hay mửa ra, tôi biểu thôi nghỉ làm lễ đi vì yếu mệt, thì người trả lời rằng: bữa nào khỏe thì làm được không có sao. Tôi cũng lo, nên khi người làm lễ, có tôi ở sau xem lễ có ý coi trúng sái, thì thấy trúng, nên tôi không dám ép người thôi làm lễ, cho nên người hễ khi khỏe thì làm lễ, khi mệt thì nghỉ, cứ vậy cho đến giờ chết.

Trong 8 năm nay hễ ngày Chúa nhựt nào tôi mắc đi khỏi làm lễ trong mấy họ nhỏ, thì có người ở nhà làm lễ Chúa nhựt cho bổn đạo họ Tường Lộc xem luôn; cũng còn ngồi tòa ít ít vậy được, tôi đi khỏi rủi có kẻ liệt đem ghe tới rước thì người đi được luôn, nên họ Tường lộc, cùng các họ nhỏ của tôi ai nấy đều mến thương cha già lắm, từ nầy về sau cha con ly biệt, ngày Chúa nhựt ngó lên bàn thờ không thấy cha lòng chúng tử ngùi ngùi châu lụy!

Có phước cho họ Trà Ôn, hằng năm đến lễ Sinh nhựt, cha già lãnh đi làm lễ Trà Ôn, đủ 3 lễ luôn, từ nầy về sau có đặng dư giả như vậy nữa đâu!!!

Về sự đọc sách kinh (Breviarium) thì cha Giacôbê không bỏ bữa nào, dầu lúc đau gần chết cũng xin đi hốt thuốc mà uống, cho đặng khỏe mà đọc kinh, kẻo mệt mà phải bỏ một hai bữa thì cha than rằng: buồn trong lòng lắm.

Hằng ngày tôi thấy người cầm xâu chuỗi lần hột luôn, tôi hỏi làm gì lần hột hoài, thì người trả lời rằng: Tôi cầu nguyện cùng Chúa, Đức Mẹ, và ông thánh Minh, hầu cho ngày giờ Chúa định, xin cho đặng chết mau mau kẻo đau lâu mà làm cực cho kẻ giúp đỡ mình  tội nghiệp! mà hẳn thật Chúa nhậm lời cha xin. Người chết một cách tỉnh táo lắm, sáng ngày 24 Mars 1922 cha già có ý mệt chút nên không làm lễ bữa đó, ở trong phòng biểu đứa giúp đi làm cho ông một tách café, người giúp làm rồi đem lại cho cha uống, rồi người biểu nó dẫn lại ngồi trên cái ghế trước ảnh Notre Dame de Lourdes của ngài chưng trong phòng, tay cầm xâu chuỗi lần hột, con mắt ngó Đức Mẹ, miệng nói lớn tiếng rằng: Lạy Chúa, lạy Đức Mẹ xin giúp con! Kẻ giúp thấy khác cách, liền chạy lên nhà thờ kêu tôi xuống xức dầu thánh cùng ban phép đại xá lần sau hết, các việc xong rồi, cách chừng nữa giờ thì linh hồn lìa ra khỏi xác bằng an, lối sáu giờ rưởi ban mai ngày thứ sáu, nhằm ngày 24 Mars 1922.

Tôi giữ lời người đã xin khi còn khỏe mạnh, nên đã lo đem xác người về họ Cái Mây, thuộc về địa sở Cái Bè và an táng gần mồ mả ông bà; có cha sở Cái Bè là cha Keller làm phép xác và đưa xác ra huyệt, có cha Thích và cha Nhứt ở Mỹtho lên đưa xác, và nội họ Cái Mây tề tựu đủ mặt.

Cha Giacôbê cũng đã đặng phước làm lễ Chánh tế Ngũ tuần ngày 16 Juillet 1921, mọi sự an bài, rày người nghỉ ngơi bằng an trong tay Chúa.

Vậy, ớ cha rất nhơn từ, và rất đáng mến yêu, xác cha rày khuất lấp nơi phần mộ, song lòng trí những em cháu của cha và các bổn đạo trong mấy họ của cha đã an ủi dạy dỗ bấy lâu nay, cùng các họ thuộc sở Tường Lộc là nơi cha nương ngụ khi già cả, với họ Cái Mây nữa là nơi cha gởi gắm xương tàn cốt rụi; chúng con hết thảy hằng thương nhớ cùng cầu nguyện cho cha chẳng khi đừng; chóng xin dưng mấy trang thật thà vắn tắt nầy, là lễ bạc lòng thành dưng để trên phần mộ của cha, Tỏ lòng chúng con thương tiếc, cùng cảm mến ơn cha hết lòng hết sức, xưa cha còn ở với chúng con, thì hằng tỏ lòng dịu dàng hiền lành mến yêu chúng con, nay cha về cùng Mạch yêu mến vô cùng, thì xin cha nhũ lòng thương cùng cầu nguyện cho chúng con, đặng noi theo gương lành cùng lời cha dạy dỗ, hầu cho chúng con đặng hóa nên tốt lành, trọn hảo, như lòng cha sở nguyện, hầu ngày sau cha con đặng sum vầy cùng nhau đời đời chẳng cùng. Amen

Chung

Paul Ngãi

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1922