ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Bảy, 1 tháng 1, 2022

"Ngôi Lời", "Lời", "God"

 Ghi chú để nhớ:

"NGÔI LỜI", "LỜI", "GOD"

* Hội thánh Công giáo và rất nhiều Hội thánh Tin Lành đều tin nhận Chúa Ba Ngôi (Trinity); nhưng có hệ phái (chẳng hạn "Nhân chứng Giê-hô-va") thi không tin như vậy, thành thử mới nảy ra lối dịch "lạ" lắm đa!

1/ Phúc âm theo John 1:1 "In the beginning was the Word, and the Word was with GOD and the Word was GOD". Bản dịch bên Tin Lành thường gặp là "Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời". Bản dịch bên Công giáo, "Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa".

Hai bản dịch đều giống nhau.

2/ Nhưng, có một bản dịch "lạ" như sau: ""Từ ban đầu đã có Lời, Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Lời cũng là Thần." Rất đáng lưu ý, vừa để giải nghĩa lai rai về ... ngôn ngữ Việt (vì đây là dịch sang tiếng Việt mà!), vừa để gợi ý mà suy niệm.

2a) Chuyển ngữ GOD là "Thiên Chúa / Chúa Trời", từ đâu lại có "Thần" vô đây? Trong bản văn Kinh Thánh (dẫn trên) ghi là "GOD": "with God" / "...was God", hoàn toàn không dùng chữ nào khác, sao bỗng dưng dịch thành "Lời là Thần"?

Ở đây, "the Word" là "GOD"! Chắc nịch như vậy, theo Phúc âm của John (Gioan / Giăng).

"The Word" là "God", đều cũng là Thiên Chúa / Chúa Trời, chỉ khác về ngôi vị thôi! Cách dịch "Lời là ... Thần", chẳng qua nhằm hợp lý hóa cho việc suy diễn rằng không hiện hữu "một Chúa mà có những ngôi vị khác nhau", tức không tin nhận vào Chúa Ba Ngôi (Trinity).

2b) Bây giờ, nói qua... tiếng Việt cho tỏ tường. "Lời" là tiếng thuần Việt (không có trong âm Việt-Hán), thành thử - lúc chúng ta chưa có chữ Quốc ngữ - được viết bằng chữ Nôm 𠳒 . Quí bạn chú ý, chữ 𠳒 rất thú vị, thủng thẳng giải thích dưới đây:

LỜI 𠳒 : kết hợp bởi "khẩu" + "thiên" + "thượng". Mà "thiên" kết hợp với "thượng", lại tạo ra một chữ Nôm như ri: 𡗶 (không có trong Hán tự), nghĩa là "Trời" đó đa! LỜI, như vậy, hàm nghĩa là Trời phán ra, phán bảo.

Mà LỜI, ngoài cách viết 𠳒 như trên, còn có một cách viết nữa trong chữ Nôm của tiếng Việt: LỜI được viết: 𡗶, tức "Lời" cũng hàm lấy ý nghĩa là "Trời" đó đa!

2c) "In the beginning was the Word...". Như diễn giải ở 2b, "đã có Lời", cũng tức là "đã có Trời".

"Trời", khi xét trong tín niệm của Christianity (Ki-tô giáo / Cơ Đốc giáo), là "Chúa Trời / Thiên Chúa".

"LỜI" 𡗶 <=> "TRỜI" <=> GOD.

2d) Vì sao không dịch "the Word" là "Lời", mà dịch thành "Ngôi Lời"?

Danh từ "Word", theo cách hiểu thông thường là "Lời nói", là "Chữ". "Thuở nguyên thủy đã có Lời", ồ, "Lời" bay chấp chới giữa không trung minh mông? Hay là có thứ văn tự (chữ) nào xuất hiện thuở ban đầu? Phải có chủ thể phát ra "lời", "chữ" chớ?

Thành thử để làm cho rõ sắc thái về nghĩa, trong tiếng Việt, mới sử dụng chữ "ngôi" để chỉ ngôi vị, vị thế của chủ thể. Cả hai chữ "Ngôi Lời" đều là tiếng thuần Việt (𠑖 𠳒 trong chữ Nôm, không có trong Hán tự).

GOD là Chúa Trời / Thiên Chúa, về mặt ngôn ngữ, ở đây xác định chủ thể. Mà LỜI <=> TRỜI <=> GOD nên LỜI cũng là chủ thể, thành thử cần sử dụng cách gọi là "NGÔI LỜI", vậy mới rõ về mặt câu cú trong-tiếng-Việt đó đa!

3/ Suy niệm:

Trong sách Sáng thế (Genesis), mỗi khi Chúa phán "....", liền có sự này sự kia.

Tức "LỜI" (phán ra, phán bảo) là một hành động. Hành động của sự sáng tạo.

Trong đời sống nhân gian hiện nay, nếu ngôn từ được dùng để làm sự dối trá, để hủy diệt (không phải sáng tạo) thì đó không còn là LỜI (𡗶 ) xứng đáng cho những ai tin nhận Chúa (hãy luôn tự xét tội lỗi của chính mình) ./.

--------------------------------------------------------------


Matthew NChuong

Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1552, ngày 20 tháng 4 năm 1939

Trọng tâm phát triển nước Việt dịch chuyển về phương Nam

 "Uống nước nhớ nguồn" (nguồn sạch, không ô nhiễm):

TRỌNG TÂM PHÁT TRIỂN NƯỚC VIỆT DỊCH CHUYỂN VỀ PHƯƠNG NAM

&1&

Vào năm 1642, Hòa Lan đưa 5 tàu chiến dưới sự chỉ huy của Van Liesvelt thẳng tiến đến Đà Nẵng. Cuộc chiến diễn ra cả trên biển lẫn trên bộ, Van Liesvelt cùng nhiều binh sĩ bị tử trận. Năm sau, 1643, Hòa Lan lại đưa tàu chiến tấn công Đàng Trong.

Tàu chiến của Hòa Lan được trang bị trọng pháo tối tân lúc bấy giờ, từng chinh phục Nam Dương (Indonesia), dương dương tự đắc. Nào dè, quân dân Đàng Trong dưới sự chỉ huy của Thế tử Nguyễn Phước Tần đã dùng nhiều chiến thuyền nhỏ áp sát vào đội tàu Hòa Lan khiến cho thuyền trưởng Pieter Baeck quýnh quáng. Đội tàu Hòa Lan vỡ trận, Pieter Baeck tử trận.

Sự kiện tàu chiến phương Tây bị một xứ sở ở châu Á đánh bại, vào thế kỷ 17, được xem là một BẤT NGỜ LỚN trong lịch sử toàn vùng!

&2&

Vì sao Chúa Nguyễn ở Đàng Trong vững mạnh?

Thế kỷ 17, chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên mở thương cảng Hội An, nổi tiếng sầm uất của cả khu vực Đông Nam Á, rộng hơn là Đông Á. Chúa Nguyễn đi theo chính sách "VIỄN GIAO CẬN CÔNG" (kết giao đối với phương xa, phòng thủ đối với cận kề), hội nhập với thế giới.

Giới thương nhân Nhựt Bổn, thương nhân một số nước phương Tây đến làm ăn buôn bán với Đàng Trong.

Việc mở cửa đã giúp cho chúa Nguyễn tiếp cận thành tựu tiên tiến lúc bấy giờ, trong đó có quân sự. Một nhân vật được ghi lại trong sử là Jean De La Croix, người Bồ Đào Nha, giúp Chúa Nguyễn mở lò đúc đại bác.

Quân lực của Đàng Trong mạnh đến mức giúp cho Cao Miên đánh thắng quân Xiêm La (Thái Lan), từ đó được Cao Miên tạo thuận lợi cho việc mở đường di dân vào Nam (vùng Thủy Chân Lạp).

&3&

Nhà sử học Li Tana, trong biên khảo "Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội VN thế kỷ 17 và 18", viết:

"Đàng Trong (phía nam sông Gianh thuộc Quảng Bình cho đến mũi Cà Mau) trở thành dấu ấn thay đổi mang tính lịch sử, kéo TRỌNG TÂM QUỐC GIA VỀ HƯỚNG NAM từ thế kỷ 17.

Đây không đơn thuần là một sự mở rộng lãnh thổ về phương Nam của người Việt. Mà đúng hơn, là một xã hội MỚI đã phát triển với một nền tảng văn hóa khác và những hoàn cảnh kinh tế - chánh trị khác."

*&*

Không chịu tìm hiểu để rút ra kinh nghiệm về trọng tâm phương Nam thì không tài nào hưng thịnh vững vàng được (ngay cả khi phương Nam bị o ép đi nữa thì vẫn phát triển hơn trong toàn cục của nước Việt) ./.

Matthew NChuong




 

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2021

Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1551, ngày 13 tháng 4 năm 1939

Phục tùng Trung Hoa là "đầu mối của chánh pháp"!

 PHỤC TÙNG TRUNG HOA LÀ "ĐẦU MỐI CỦA CHÁNH PHÁP"!

* Cao tăng Thích Đại Sán từ Tàu qua, dĩ nhiên là sư ca ngợi việc dùng chữ Hán nhưng sư còn thuyết giảng hãy phục tùng Trung Hoa!

Nhóm X (gồm một sư và mấy nhà gọi là nghiên cứu) lên tiếng công kích giáo sĩ Đắc Lộ (có công trạng lớn trong bộ chữ Quốc ngữ), trong khi đó lại im thin thít, KHÔNG chỉ trích việc kính ngưỡng sư Thích Đại Sán (đã khuyên thẳng triều đình tại nước Nam, không úp mở, là hãy theo Tàu). Tại sao? Câu hỏi này đang treo lơ lửng.

Thêm nữa, một sư đang sống tại nước VN đời nay thuyết giảng "Lý Thường Kiệt đánh Tống là hỗn". Có phải sư đó suy nghĩ bất thường? Hay là vẫn rất bình thường - bởi vì sư kế thừa truyền thống "hãy phục tùng Trung Hoa" mà cao tăng Thích Đại Sán đã thuyết giảng từ cuối thế kỷ 17?

&1&

Chúa MINH (tức Nguyễn Phước Châu) cai trị Đàng Trong từ 1691 đến 1725. Chúa Minh mời hòa thượng Thích Đại Sán từ bên Trung Hoa sang nhằm chấn chỉnh Phật giáo trong nước và thọ Bồ Tát giới.

Hòa thượng Thích Đại Sán, trong thời gian lưu trú hơn một năm rưỡi (từ cuối tháng 1/1695 cho tới cuối tháng 7/1696), được trọng vọng như bậc "quốc sư".

&2&

Thích Đại Sán trao cho chúa Minh bản điều trần, theo đó dùng "CHÁNH PHÁP" để đất nước ổn định.

Ngay điều đầu tiên của bản điều trần, xin chú ý, là: nhà sư khuyên chúa Minh dâng biểu lên hoàng đế Đại Thanh "xin phong vương để chính vị hiệu; lấy thanh thế tỉnh Quảng Đông làm ngoại viện; tự nhiên bọn tiểu khấu các nước lân bang nể sợ chẳng dám dòm ngó..."

Chúa MINH sau đó ban chỉ dụ: "Nước ta phép tắc dân tình vốn bị khiếm khuyết, nay được lão hòa thượng vì chúng ta mà lấy lễ pháp của Trung Hoa chỉ dạy, nay đem khắc trước phủ để văn võ bá quan và người dân biết".

Thấy gì?

- Quốc sư giảng giải chánh pháp Phật học, là gồm luôn việc "qui phục Trung Hoa làm điều tiên khởi", dựa vào nước Tàu để tồn tại ("lấy thanh thế tỉnh Quảng Đông làm ngoại viện")!

- Trong chánh pháp mà nhà sư Thích Đại Sán thuyết pháp, là gồm luôn dùng lễ pháp bên Tàu đem chỉ dạy cho dân Việt.

&3&

Việc thuyết giảng (nêu trên) được trích từ cuốn "Hải ngoại ký sự" của sư Thích Đại Sán, do NXB Khoa học xã hội ấn hành.

Sư được mời thuyết pháp về Phật học, chớ không phải làm cố vấn chánh trị, nhưng nhà sư đưa ngay việc phục tùng Trung Hoa làm "đầu mối của chánh pháp".

Rất khó hiểu trong phần giới thiệu của NXB Khoa học xã hội - khi cho in lại cuốn "Hải ngoại ký sự" - KHÔNG có những lời bình phẩm chính thức nào đối với nội dung "phục tùng Trung Hoa" trong tư tưởng của sư sãi ./.

---------------------------------------------------------------------

Matthew NChuong 




Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1550, ngày 6 tháng 4 năm 1939

Lũ bội tinh, lếu láo đối với ngôn ngữ mẹ đẻ!

 LŨ BỘI TÌNH, LẾU LÁO ĐỐI VỚI NGÔN NGỮ MẸ ĐẺ!

Xin lỗi vì tôi không nén giận được mà phải nói thẳng như vậy. Bọn họ trục xuất cách gọi "CHỮ" (thuần Việt) để thay bằng cách gọi "từ"; và để biện bạch cho việc này, bọn họ nhét vào đầu học sinh cách "định nghĩa" do bọn họ tự chế ra: a, b, c, d... là "chữ", ghép các "chữ" này lại với nhau thì thành "từ" (!).

Một "định nghĩa" lếu láo hết sức, bội phản với cách gọi của tiền nhân người Việt! Mặt khác, họ cũng chẳng hiểu thế nào là "từ"!

1/ Tôi mời quí bạn trở lại chữ Nôm là văn tự mà tiền nhân sáng tạo thêm, dùng để ghi những chữ thuần Việt (không có trong Hán tự).

"CHỮ", đây đã là cách gọi thuần Việt, được viết: 𡦂 (trong văn tự Nôm, không có trong Hán tự), đồng nghĩa với "tự" ( trong Hán tự).

Đọc tiếp. "Mẹ", tiếng thuần Việt, được viết là (chữ này không có trong Hán tự) đồng nghĩa với "mẫu" ( trong Hán tự); "con" được viết là 𡥵 (chữ này không có trong Hán tự) đồng nghĩa với "tử" ( trong Hán tự).

"Mẹ" là 1 CHỮ (chữ Nôm ), "con" là 1 CHỮ (chữ Nôm 𡥵), "mẹ con" gồm 2 chữ. Từ xưa người Việt luôn gọi như vậy.

2/ Đến khi có bộ chữ Quốc ngữ, là bộ chữ ghi âm, xuất hiện: a, b, c, e, m, o, n .v.v...; vậy những "ký hiệu" này gọi làm sao?

Mượn lại ví dụ nêu trên, "con" vốn được gọi là 1 CHỮ (trong tiếng Việt), thành thử từng ký hiệu c-o-n, được định danh là "chữ CÁI".

Từ thuờ ban đầu phổ biến chữ Quốc ngữ cho toàn dân, mọi người đều được học bộ Chữ CÁI (a, b, c...); ghép các Chữ CÁI lại với nhau để tạo thành CHỮ.

3/ Tiền nhân người Việt chúng ta không ai đi nói "m" là chữ hết, mà là "MẪU tự" (tức "chữ CÁI"). "Mẹ" mới là CHỮ (tạo nghĩa), "Con" mới là CHỮ (cũng tạo nghĩa) - gọi như vậy mới thực đúng là cách dùng tiếng Việt, là bản sắc tiếng Việt bao đời của chúng ta!

Đời nay, bọn lếu láo tự sửa lại: "m" không phải chữ CÁI mà gọi thành "chữ" luôn.

Để chi? Để bọn chúng có cớ nhét cách gọi "từ" thay vào ("mẹ" là từ chớ không phải CHỮ).

Ngay cách gọi "từ", cũng bị diễn dịch vo theo ý bọn họ (cắt bỏ, cắt bớt nghĩa gốc của "từ" trong Hán tự)

Đây là một "thủ pháp" nhằm làm cho người Việt quên đi cách dùng sẵn có trong chính tiếng Việt của mình, làm nhòe bản sắc ngôn ngữ tiếng Việt! Một lũ bội tình không hơn không kém. Mời đọc: https://www.facebook.com/nguyenchuong158/posts/1332850110482299

-----------------------------------------------------------

Matthew NChuong

Thứ Tư, 29 tháng 12, 2021

Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1549, ngày 30 tháng 3 năm 1939

Trở lại dùng... tiếng Việt mà lúng túng vậy sao?

 TRỞ LẠI DÙNG ... TIẾNG VIỆT MÀ LÚNG TÚNG VẬY SAO?

* Vì đâu nên nỗi? Nhận diện một "thủ pháp" nhằm làm cho người Việt quên béng cách dùng trong chính tiếng Việt của mình!

1) Một người quen gõ bài trên laptop, sau đó dùng "Word Count" để đếm rồi ghi: "320 từ". Tôi hỏi, "sao không ghi 320 CHỮ, mà lại ghi là từ?", và nhận được lời đáp "Dùng "từ", bởi vì "từ" là...". Tôi cắt ngang, "Trong trường hợp này, đổi sang gọi là "chữ", 320 chữ, được không? Có gì sai không?". Người đó ậm ừ, rồi buộc phải gật đầu!

2) Trong tiếng Việt, chúng ta đều từng quen với "CHỮ" và "CHỮ CÁI". Khi ghi câu: "cần trở lại dùng tiếng Việt", câu này có 6 CHỮ: "cần", "trở", "lại", "dùng", "tiếng", "Việt".

Còn "CHỮ CÁI"? Đó là những ký hiệu ghi âm trong Bảng Chữ cái - như a, b, c, d, đ, e... đây là 6 CHỮ CÁI.

Người Việt nào cũng dễ dàng phân biệt đâu là CHỮ, đâu là CHỮ CÁI, không khó gì hết trơn, dễ ợt! Chỉ có người "nước lạ" hoặc người Việt bị "lạ hóa" thì mới không biết phân biệt mà thôi.

3/ Còn "từ" là mần răng? Mời đọc bài sau, có giải thích đâu ra đó: https://www.facebook.com/nguyenchuong158/posts/1332698970497413.

4/ Thuở đời nay đang có cách gọi "CHỮ", dễ hiểu và tự nhiên hết sức, bỗng nảy nòi đổi cách gọi là "từ" với hàng loạt giải thích là vầy là vầy... Có người hiểu sự phân định này kia, và - đây mới là điều tôi muốn nhấn mạnh - có nhiều, rất nhiều người thấy lung tung, sái não, để rồi giải pháp thường gặp là chấp nhận, khỏi suy nghĩ, biểu ghi là "từ" thì cứ ghi là "từ"!

5/ Ví dụ trên đây để quí bạn hiểu về một "thủ đoạn", một cách thức nhằm LOẠI BỎ cách dùng vốn có trong tiếng Việt!

Bằng cách nào? Bằng cách thay "Hán-Việt" (theo kiểu dùng "Hán-Mao" thì phải?) cố ý sao cho phức tạp, giải thích dài dòng này kia, khiến cho rất nhiều người mệt não để rồi CHẤP NHẬN phứt cho xong.

Một khi bạn chẳng muốn suy nghĩ nữa mà chấp nhận, "ai sao tui vậy, người ơi" - đó là lúc thủ pháp bức tử, trục xuất cách dùng tiếng Việt bao đời đã "thắng lợi" hể hả!

Bi hài thay, không ít người Việt lúng túng không trở lại được với...cách dùng tiếng Việt, thậm chí còn cự nự.

Họ, người Việt, quên mất trên đời này có "CHỮ", chỉ còn biết có "từ" mà thôi ./.

------------------------------------------------------------------

Matthew NChuong

Thứ Ba, 28 tháng 12, 2021

Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1548, ngày 23 tháng 3 năm 1939

Chữ = Tự (字) = Word / "Chữ" không phải là "Từ" (詞)

 CHỮ = TỰ () = WORD / "CHỮ" KHÔNG PHẢI LÀ "TỪ" ()

1/ "CHỮ", rất thuần Việt, sao không dùng mà cứ gọi là "từ"? Chẳng hạn, "bài diễn văn này có 500 CHỮ (words)", không dùng như rứa mà cứ gọi là "500 từ"; rồi "những từ này", ủa, sao không viết là "những CHỮ này"?... Nhiều lắm, vô số kể, nhiều người trong chúng ta giờ đây cũng bị nhiễm viết/gọi là "từ" thay vì "chữ"!

Quí bạn có bao giờ thắc mắc, lấy làm lạ, rằng: tiếng thuần Việt gọi là "CHỮ", hay quá sức, mà vì sao bị trục xuất dần dần từ sau năm 1975, đến nay gần như biến mất tiêu, bị bức tử?

2/ Mà dù có dùng âm Việt-Hán đi nữa thì cũng phải dùng cho đúng. "Từ" đâu hoàn toàn đồng nghĩa với "CHỮ" mà ham!

"CHỮ", nếu dùng âm Việt-Hán, là "tự" () - chẳng hạn, "Hán tự" (漢字) nghĩa là "chữ Hán", đâu ai ấm ớ đi gọi là ... "Hán từ"!

Còn "từ" (), nghĩa là gì? "Từ" nghĩa là lời nói, như "ngôn từ" (言詞); "từ" nghĩa là một đoạn văn, một bài viết, như "ca từ" (歌詞) là lời bài ca, như "diễn từ" (演詞) là cả một bài diễn văn...

Tức là, khi bạn viết như ri "bài diễn văn này có 500 từ", là ... SAI!; bởi vì cả một bài diễn văn đó gộp thành "TỪ", và trong bài diễn từ này có "500 TỰ" (nếu vẫn ưng dùng âm Việt-Hán), hay "500 CHỮ".

3/ Sao lại xảy ra tình trạng lẫn lộn, "râu ông đem cắm cằm bà" như rứa?

"Từ" còn mang tính chất của một đơn vị ngôn ngữ, chẳng hạn "danh từ" (名詞), "động từ" (動詞)...

Ví dụ: "đình" () là danh từ, ở đây danh từ chỉ có 1 chữ (tự). Thấy gì? Danh từ "đình" có 1 chữ, thành thử khối người ba chớp ba nháng giải thích - đó, "từ" tức là "chữ".

Xem tiếp. "Gia đình" (家庭) là danh từ, ở đây danh từ gồm có 2 chữ (tự), ở đây "từ" nhiều hơn "chữ" rồi đa!

Tóm lại:

a) CHỮ là "tự" ()

b) "Từ" () là tập hợp của nhiều "tự", tức tập hợp nhiều CHỮ (ít nhứt là 1, và trở lên).

CHỮ, như vậy, không đồng nhứt với "từ".

c) Tốt nhứt, hay nhứt, là hãy cùng nhau trở lại với cách dùng thuần Việt, gọi là "CHỮ"!

Chẳng hạn, "đoạn văn kia có 300 CHỮ", "tôi xin viết ra đây mấy CHỮ...", "cụm CHỮ sau đây..." (đừng viết "cụm từ", bởi vì xin nhắc lại, "từ" là đã bao hàm số nhiều rồi, là cả cụm rồi) ./.

 Matthew NChuong

Chủ Nhật, 26 tháng 12, 2021

Những năm tháng cuối đời của vua Khải Định

 NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI CỦA VUA KHẢI ĐỊNH

III) LỄ AN TÁNG VUA KHẢI ĐỊNH TẠI HUẾ

Sau lễ mừng 40 tuổi được hơn một năm, vua Khải Định thăng hà vào ngày 6.11.1925 vì bệnh lao phổi, một trong tứ chứng nan y thời đó. Trước khi mất, ngoài bản di chiếu, nhà vua còn kịp gửi gắm hoàng thái tử Vĩnh Thụy mới 12 tuổi cho Khâm sứ Huế Pasquier, nhờ ông này chăm sóc giùm.

Trưa ngày 6.11, các ngự y dùng 5 loại cỏ thơm nấu nước để lau thi hài nhà vua, sau đó mặc quần áo mới vào. Người ta cho vào miệng ông 9 viên ngọc và 9 hạt gạo, sau đó dùng một tấm vải vàng phủ lên mặt, cột lại phía sau gáy. Lễ khâm liệm diễn ra lúc 5 giờ chiều và 11 giờ tối hôm ấy, thi hài được bỏ vào tử cung (quan tài của vua chúa ngày xưa) đặt giữa điện Cần Chánh, đầu hướng về phía Nam.

Sau khi bộ Lễ công bố sự qua đời của nhà vua, triều thần chuẩn bị các nghi thức cho lễ an táng. Một ban lễ tang đuợc thành lập gồm 6 thành viên có nhiệm vụ thực hiện các nghi thức theo đúng qui lệ triều đình. Khâm thiên giám được yêu cầu tra cứu những ngày lành tháng tốt thích hợp với tuổi tác người quá cố để định những nghi thức quan trọng trong lễ tang (Tập san trường Viễn Đông bác cổ [Bulletin de l’Ecole française d’Extrême – Orient – (BEFEO)] số 26/1926).

Lễ thành phục đuợc định vào giờ Thân (3 đến 5 giờ chiều) ngày 17.11.1925 tức 11 ngày sau khi vua Khải Định qua đời. Một viên thái giám mời 2 bà Thái hậu nhận tang phục và hướng dẫn các bà ra hành lễ, ở đó vị phụ chánh thân thần, các hoàng thân, các văn võ đại thần đương chức cũng như đã về hưu đã đứng thành 2 hàng theo thứ bậc.

Một viên quan bộ Lễ mặc tang phục bước vào xin phép đặt lên ngai vàng vua một dãi lụa bạch thắt các gút to tượng trưng linh hồn người chết. Những người hiện diện quỳ lạy theo lời hô xướng của viên quan điều hành buổi lễ. Khi lễ thành phục chấm dứt, mọi người lui ra. Một viên thị vệ kính cẩn mời 2 bà Thái hậu và các bà phi của nhà vua đến lạy trước bàn thờ người quá cố. Sau đó đến các bà phi của những vua khác, các công chúa, các bà vợ chánh của những đại thần.

Theo di chiếu của vua Khải Định, thời gian chịu tang của người trong hoàng tộc và triều thần được rút ngắn lại. Các bà Thái hậu chịu tang 6 tháng, Hoàng thái tử Vĩnh Thụy 15 tháng thay vì 27 tháng. Tang phục cũng thay đổi: áo trắng, sợi to, xổ gấu, hoặc áo đen khăn trắng. Cấm chỉ dùng quần áo màu hồng, màu tím trong 100 ngày và trong thời gian chờ chôn cất, không được tổ chức cưới hỏi, hát xướng.

Theo đề nghị của Khâm thiên giám, lễ an táng sẽ diễn ra vào ngày 29.1.1926 tức gần 3 tháng kể từ ngày nhà vua nhắm mắt. Trong thời gian này, tử cung quàn tại điện Cần Chánh, các buổi lễ cúng tổ chức hàng ngày với sự đảm trách của ban lễ tang, các viên chức bộ Lễ và các thị vệ trong cung.

Ngày 8.1.1926 khi nghi thức lễ tang tiếp tục theo cổ lệ thì lễ tức vị của Hoàng thái tử Vĩnh Thụy với niên hiệu Bảo Đại cũng diễn ra tại triều đình. Các quan mặc phẩm phục đại triều theo đúng nghi thức, có sự chứng kiến của Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne. Sau đó Tân quân được rước đi chào và lạy tạ các bà Thái hậu.

21 ngày sau lễ tức vị của vua Bảo Đại, ngày 29.1.1926, lễ an táng vua Khải Định mới bắt đầu. Sáng hôm đó cửa cung điện đóng kín, chỉ có Toàn quyền Đông Dương, khâm sứ Huế và một số viên chức cao cấp Pháp đến chào hoàng tộc và tháp tùng đoàn người đưa tang. Theo chương trình, quan tài của nhà vua được di chuyển từ cung điện đến nơi chôn cất thuộc làng Chân Chữ, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên trong 2 ngày. Hương án được các làng xã đặt dài trên đường và các bô lão quỳ lạy khi đám tang đi qua.

Chiếc nhà vàng nặng 6 tấn trên đặt quan tài được 160 người mạnh khỏe khiêng đi nhịp nhàng không làm sánh đổ một giọt nào trong những ly rượu đầy đặt trên áo quan. Lúc này, không có dàn nhạc, những người đàn bà khóc mướn ở lại kinh thành, đám tang lặng lẽ đi trong yên lặng, một thứ im lặng ngậm ngùi của những hoài niệm về một quá khứ vàng son.

Đêm đó, đoàn người ngừng lại nghỉ tại đàn Nam Giao. Đây là nơi mà vua Khải Định từng đến mỗi 3 năm để hành lễ tế giao, một nghi thức truyền thống có tại nước ta từ thế kỷ thứ XII. Hẵn là linh hồn người quá cố cảm thấy được ấm áp khi dừng lại nơi này trên đường về nơi an nghỉ cuối cùng. Đèn đuốc được đốt lên sáng rực cả một vùng hoang vắng, nhang khói bốc mùi thơm ngát, đem đến cho những người tham dự cái cảm giác về những điều huyền bí, linh thiêng. Mọi người sau một ngày mệt nhọc, ngồi lại ăn uống nghỉ ngơi, chuyện trò.

Sáng 30.1.1926 đám tang tiếp tục lên đường và đêm đó, tử cung được quàn tại hầm mộ nơi an táng. Các lễ cúng được tổ chức ngày hôm trước. Vua Bảo Đại cùng các bà Thái hậu và các bà phi ẩn mình sau một tấm màn vàng giữa hầm mộ, bên phải là các phụ nữ Pháp cùng vợ các quan lại Việt Nam, bên trái là các quan khách Pháp. Sau một phút mặc niệm, viên toàn quyền Đông Dương Varenne đã đọc một bài điếu văn ngắn ca ngợi người quá cố, một người bạn của nước Pháp “ trong sự tôn kính quá khứ đã hiểu rõ hiện tại và biết chuẩn bị tương lai.” (BEFEO – N26/1926 – sđd – tr. 504)

Sau đó, một viên quan bộ Lễ quỳ xuống xin phép nhà vua quá cố cho hạ huyệt. Chiếc áo quan được cởi bỏ lớp vải phủ và quan tài được hạ nhẹ nhàng xuống lòng huyệt. Người ta cho đốt những đồ vật làm bằng giấy bồi và quần áo của người quá cố, chấm dứt một trong những lễ tang tương đối đơn giản của một vị vua triều Nguyễn.

Sau lễ tang, vua Bảo Đại, lúc đó mới 13 tuổi, tiếp tục sang Pháp học, quyền nhiếp chính tại triều đình nằm trong tay bà Thái hậu Từ Cung ( Hoàng Thị Cúc) và Phụ chánh thân thần Tôn Thất Hân./.

HẾT

Lê Nguyễn

14.9.2021



Hoàng thái tử Vĩnh Thụy chịu tang vua cha


Lễ động quan ở điện Càn Thành


Đám tang khởi hành


Vua Bảo Đại trong lễ tức vị ngày 8.1.1926



Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1545, ngày 2 tháng 3 năm 1939

Những năm tháng cuối đời của vua Khải Định

 NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI CỦA VUA KHẢI ĐỊNH

II) LỄ TỨ TUẦN ĐẠI KHÁNH NĂM 1924

Vua Khải Định sinh năm 1885, tính đến năm 1924 là đủ 40 tuổi ta. Song trước đó một năm, triều đình đã chuẩn bị dần lễ mừng tứ tuần đại khánh (mừng 40 tuổi) của ông.

Ngày 17.5.1923, các thành viên Phủ Tôn nhơn cùng văn võ đại thần dâng lên nhà vua một sớ tấu nhắc lại những đại lễ tứ tuần khánh tiết được tổ chức trọng thể vào các đời vua Minh Mạng (năm 1830), Thiệu Trị (năm 1846), Tự Đức (năm 1868), và ân cần “lưu ý” nhà vua rằng ông đang ở tuổi 39, chỉ còn một năm nữa để tổ chức lễ mừng 40 tuổi.

Tất nhiên là tờ tấu trên được nhà vua hoan hỉ chấp nhận. Ông ban hành một chỉ dụ nêu lên sự cần thiết phải thực hiện việc này, do từ hơn 50 năm qua, chưa từng có một lễ tứ tuần đại khánh nào được tổ chức (vì lẽ dễ hiểu là sau vua Tự Đức, không có vua nào ở ngôi đến 40 tuổi cả). Tuy nhiên, nhà vua cũng lưu ý là ngân quỹ năm 1924 không dồi dào như trước (do Pháp khống chế mọi khoản chi của triều đình ), mặt khác nhiều lăng miếu đang xuống cấp, đang cần tiền tu sửa, nên phải tiết kiệm kinh phí trong buổi lễ (Tập san Đô thành Hiếu cổ - BAVH – No2/1925 – tr. 47-49).

Ngày 1.6.1923, Cơ mật viện chuyển qua tòa Khâm sứ Huế một bản sao tờ sớ tấu về lễ tứ tuần đại khánh của vua Khải Định để xin ý kiến. Trong thư phúc đáp, Khâm sứ Pasquier tỏ ý tán thành việc tổ chức lễ, nhưng cũng nhắc khéo với Cơ mật viện những lời lẽ của vua Khải Định muốn cho buổi lễ diễn ra trong sự giản dị và trang trọng, phù hợp với nghi thức của tổ tiên xưa.

Mặc dầu lễ tứ tuần đại khánh sẽ diễn ra vào năm 1924, nhưng chương trình chi tiết buổi lễ đã được triều thần soạn thảo từ tháng 10.1923, căn cứ vào những gì đã diễn ra trong lễ tứ tuần của vua Tự Đức tổ chức vào năm 1868.

Tháng 6 AL năm 1924, Bộ Lại và Bộ Binh dâng lên nhà vua danh sách các Tổng đốc, Tuần vũ, Đề đốc, Bố chánh, Án sát, Lãnh binh, Quản đạo tại tất cả các tỉnh. Nhà vua áp dấu son lên tên những người được đại diện các tỉnh về dự lễ, thông thường mỗi tỉnh ông chọn một người. Mặt khác, Bộ Lễ chỉ thị cho tỉnh Thừa Thiên mời các quan văn võ đã nghỉ hưu hay đang nghỉ phép có phẩm trật từ hàng ngũ phẩm trở lên, cùng những bô lão từ 70 tuổi trở lên, dự buổi lễ sẽ diễn ra trong vòng 10 ngày cuối tháng 8 AL năm 1924. Ở các tỉnh, những thành phần trên sẽ đi theo các quan tỉnh đến vọng cung chúc thọ vua. Phủ tôn nhơn lập danh sách các hoàng thân, tôn tước, công tử, công tôn và tôn thất tham dự buổi lễ.

Trước đó, bộ Lễ cũng đã thông tri cho quan lại thuộc các tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, yêu cầu chọn những người có khả năng ca hát và tổ chức các trò chơi truyền thống, báo về bộ để tấu trình nhà vua biết. Hai tháng sau, bộ Lễ tập trung các viên chức của bộ, các nhạc công, ca công, tập luyện để biểu diễn trong buổi lễ tổ chức tại điện Thái Hòa và buổi đại yến tại điện Cần Chánh.

Năm ngày trước chính lễ, Bộ Lễ hướng dẫn những người này đến Duyệt Thị đường (nhà hát trong cung điện) để tổng dượt trước sự chứng kiến của nhà vua. Tháng 8 AL, Bộ Lễ ra thông báo cho các tòa án bản xứ biết là không được tuyên án trong 15 ngày, gồm 10 ngày trước buổi lễ, ngày lễ chính và 4 ngày sau buổi lễ.

Các công sở và nhà dân treo cờ và thắp đèn suốt 5 ngày kể từ hai ngày trước buổi lễ. Bộ này cũng yêu cầu Khâm thiên giám chọn hai ngày tốt trong tháng 8 để các hoàng thân, tôn tước thay mặt nhà vua làm lễ Kỳ cáo (công bố lễ sẽ diễn ra) ở Nam giao, Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu. Riêng vua Khải Định sẽ đích thân hành lễ tại Thế miếu (nơi thờ các vua triều Nguyễn). Sau đó, vào một ngày không định trước, nhà vua sẽ thân hành đến chào các bà thái hậu.

Lễ vật do quan lại ở Huế và các tỉnh dâng lên vua được bộ Lễ tập trung, kiểm soát trước khi chuyển đến địa điểm hành lễ. Trước cửa Ngọ môn, người ta dựng lên một “chánh lâu” (khán đài chánh) là nơi để lễ vật của hoàng thái hậu, phủ tôn nhơn, văn võ đại thần, các cung phi, công chúa, Phụ lộc phu nhơn (bà ngoại vua Khải Định), vợ và con các hoàng thân, thích lý (bà con bên mẹ vua) và phu nhơn các văn võ đại thần. Ngoài chánh lâu, còn có:

- Sáu đắc lâu (khán đài phụ) chứa lễ vật của Tả trực, Hữu trực, Tả kỳ, Hữu kỳ, Bắc kỳ và Thừa Thiên.

- Hai trường bằng (khán đài rộng) là nơi tập hợp các thành viên của phủ Tôn nhơn, các quan lại trong triều.

- Một khán đài trước Phu Văn Lâu được dựng lên cho công chúng đứng xem lễ

- Một thủy lâu và thủy bằng (khán đài nổi trên sông) trước Nghinh hương đình (bến thuyền của vua).

Mười ngày trước lễ, lúc 6 giờ sáng, người ta bắn 9 phát súng thần công, cờ treo khắp nơi, và đèn đuốc thắp sáng. Một ngày trước lễ, nhà vua cùng các hoàng thân, văn võ đại thần đi xem các khán đài.

Cuối cùng thì buổi lễ cũng đã diễn ra long trọng tại điện Thái Hòa. Nhân dịp này, vua Khải Định ban các ân chiếu phong thưởng những người có công và mở tiệc khoản đãi Toàn quyền Đông Dương (Merlin), Khâm sứ Huế (Pierre Pasquier) cùng các viên chức Pháp khác. Tối đến, vua Khải Định cùng các hoàng thân và văn võ đại thần ra Ngọ môn xem các trò chơi và đốt pháo bông.

Tham dự bữa tiệc ở điện Cần chánh có các hoàng thân, văn võ đại thần cùng tôn tước có phẩm trật từ tam phẩm trở lên. Các cung phi đời trước, cung phi tại triều, vợ và con gái các hoàng thân, vợ các đại thần dự yến phía sau điện Cần chánh, trong các bộ thành phục (áo dài có tay rộng). Buổi chiều, tiệc lại được dọn ra ở Duyệt thị đường dành cho các tôn tước từ tứ phẩm trở xuống, các công tôn, công tử, tôn thất, thích lý và quan lại đang làm việc tại Huế có phẩm trật từ tứ phẩm đến thất phẩm, cùng các quan đã về hưu từ ngũ phẩm trở lên. Ba ngày sau buổi lễ, các bô lão từ 70 tuổi trở lên được mời dự tiệc tại Thừa Thiên phủ.

Cũng cần nhắc lại là khoảng nửa năm trước cuộc lễ, Khâm sứ Huế Pasquier đã gửi cho Cơ mật viện một văn thư loan báo việc Toàn quyền Đông Dương Martial Merlin quyết định gửi tặng vua Khải Định một con bạch tượng (voi trắng) do các thợ săn bắt được ở Darlac. Trong thư, có đoạn viết: “Quan Toàn quyền Đông Dương rất sung sướng được tặng hoàng đế kỷ vật này khi Ngài bắt đầu vào tuổi 40, và đối với ông, việc bắt được trên đất An Nam và chuyển giao lại cho triều đình một con bạch tượng trong năm nay chỉ có thể là một điều hạnh phúc đối với hoàng đế và nhân dân của ngài …” (BAVH – No2/1925 – tr. 61- LN tạm dịch)

Tại buổi lễ chính, toàn quyền Merlin đích thân tham dự, hai bên trao đổi với nhau những bài diễn văn đầy tính ngoại giao. Trong sớ tấu, chỉ dụ về buổi lễ, người ta nói nhiều đến sự giản dị, tiết kiệm, song nếu những gì thật sự diễn ra đúng với chương trình đã vạch thì kinh phí bỏ ra không phải là nhỏ.

Lại xin nhắc thêm một chi tiết đáng nhớ: mấy tháng trước ngày dự lễ tứ tuần đại khánh của vua Khải Định, vào chiều ngày 18.6.1924, viên Toàn quyền Đông Dương Martial Merlin đã bị người thanh niên yêu nước Phạm Hồng Thái ám sát hụt tại Quảng Châu. Quả bom không giết chết được Merlin và nghĩa sĩ Phạm Hồng Thái đã gieo mình xuống dòng sông Châu Giang, tìm đến cái chết anh hùng.

Về phần vua Khải Định, cũng như chuyến Âu du năm 1922 với bức Thư Thất Điều đầy những lời lẽ nặng nề của cụ Phan Châu Trinh, lần tứ tuần đại khánh này của nhà vua lại đụng phải một nhà nho khác, đó là cụ nghè Ngô Đức Kế (1878-1929). Sau hơn 10 năm bị tù đày ở Côn Nôn (Côn Đảo), cụ nghè được thả về năm 1921 và lãnh trách nhiệm điều hành tờ Hữu Thanh tạp chí. Vốn không ưa nhà vua thân Pháp, cụ Ngô Đức Kế làm một loạt 4 bài thơ thất ngôn bát cú, lời lẽ cay độc không kém gì Thư Thất Điều của cụ Phan Châu Trinh. Bài đầu tiên có nhan đề:

HỎI GIA LONG

Ai về địa phủ hỏi Gia Long,

Khải Định thằng này phải cháu ông?

Một lễ tứ tuần vui lũ trẻ,

Trăm gia ba chục khổ nhà nông (1)

Mới rồi ngoài Bắc tai liền đến (2)

Năm ngoái qua Tây ỉa vãi cùng (3)

Bảo hộ trau giồi nên tượng gỗ,

Vua thời còn đó, nước thời không.

(Nguyễn Hiến Lê – Đông Kinh nghĩa thục – NXB Lá Bối – Sài Gòn 1968 – tr.124-125)

Trong thời đại quân chủ, dám gọi nhà vua là “thằng”, quả chỉ có mỗi cụ nghè Ngô Đức Kế!

GHI CHÚ:

(1) Một trăm thêm 30, ám chỉ sự kiện năm 1923, Pháp tăng thuế nông nghiệp lên 30%

(2) Ám chỉ những trận lụt tại miền Bắc vào các năm 1922-1923

(3) Chỉ chuyến Pháp du năm 1922 của vua Khải Định

Lê Nguyễn

13.9.2021



Vua Khải Định và Hoàng thái tử Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại từ 1926)


Vua Khải Định và viên thư ký riêng tại phòng làm việc trong cung


Một hình ảnh trong lễ tứ tuần đại khánh của vua Khải Định


Toàn quyền Đông Dương Martial Merlin (người đi đầu), từng bị nghĩa sĩ Phạm Hồng Thái ám sát hụt tại Quảng Châu (Trung Quốc) ngày 18.6.1924 - Nguồn: flickr.com