Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2022
Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2022
Cha Emile Moreau (Đức)
CHA
EMILE MOREAU
LINH
MỤC DÒNG SAI ĐỊA PHẬN NAM KỲ.
---------------------
Sinh
ra ngày 13 Juin 1844.
Qua
Nam Việt 6 Août 1869.
Qua
đời ngày 6 Mai 1912.
---------------------
EMILE MOREAU sinh ngày 13
tháng Juin, năm Chúa giáng sanh 1844, tại Andrezé, là họ nhỏ về Địa phận
Angers, trong nước Langsa. Cha mẹ người đạo đức sốt sắng, cho nên con sổ lòng đầu
hôm, thì sáng ngày vội vàng đem đi chịu phép rửa tội.
Khi Emile khôn lớn, thì
đi học tiếng Latinh tại trường Combrée, cách xa quê quán chừng 80 dặm đàng. Ở đó
người gặp một Thầy cả rất khôn ngoan nhơn đức, tên là Piou, cũng một quê quán
cùng người. Thầy cả nầy thấy trò nào có lòng ái mộ việc rỗi linh hồn thiên hạ,
cùng ham chịu cực chịu khó vì Chúa, thì người ân cần dạy răn an ủi, cho những
trẻ ấy theo ơn Chúa gọi, mà đi giảng đạo bên rốt cõi Đông Dương.
Emile, thuở học trong trường,
ăn ở thể nào, thì sau nầy đâu đâu cũng ăn ở thể ấy. Tánh nết người ít oi thật
thà, đằm thắm dè dặt, cần kiệm siêng năng, phần xác thì ăn mặc đơn sơ, sức lực mạnh
mẽ; phần trí thì có tài xét suy nhằm lý, trí sáng, học giỏi, cùng kể đặng là một
đấng thông minh.
Chẳng khỏi bao lâu, cha
Piou thấy Emile, tuy bề ngoài không bặt thiệp lịch lãm bao nhiêu, song có đủ đều,
cho đặng làm thầy cả cùng đi giảng đạo phương xa, thì cha ấy tỏ thật cho người
toan liệu. Emile suy nghĩ ít lâu, cho biết thánh ý Đ C T, cùng cứ việc học hành
cho đủ văn chương cách vật, đoạn xin phép vào trường Dòng Sai tại kinh thành
Paris.
Emile học tại Paris ba
năm, đoạn chịu chức thầy cả, rồi giã từ cha mẹ quê hương, mà trẩy sang Nam Việt
cho đến chết. Ấy là của lễ rất trọng vọng châu báu trước mặt Đ C T. Mà Đ C T
cũng hứa trả bằng trăm, cùng ban phần phước
đời đời cho kẻ tế lễ mình mạnh mẽ dường ấy: “Omnis qui reliquerit domum, aut fratres, aut sorores, aut patrem, aut matrem...,
propter nomen meum, centuplum accipiet, et vitam æternam possidebit” (Matt.
19, 29).
Cha Moreau tới Saigon
ngày mồng 6 Août 1869, Đức Cha Miche bèn sai người đi Thủ Dầu Một, cho đặng học
tiếng an nam, Khỏi ít tháng, Đức Cha lại dạy người đi nhậm sở Chà Và, Cầu Ngang
và Cái Đôi, thuở ấy kêu là Rạch Rập, Thâu
Râu và Láng Sác.
Người về Chà Và ít lâu, kế
cha Leprince cũng đổi xuống coi họ Giồng Rùm gần đó. Hai Cha đã qua Nam Kỳ một
lượt với nhau, hai cha đã thiết nghĩa cùng nhau cho đến trọn đời. Hai cha giống
nhau hai đều lắm lắm: một là ăn ở tiết kiệm khó khăn, trong nhà không biết sửa
soạn trần thiết là cái gì; hai là ham học, ham xem kinh sử nói không cùng, năm
nọ tháng kia đọc mãi, chẳng khi nhàm. Tại cách ăn ở bề ngoài đơn sơ nghèo khó,
còn trí hóa thì mê việc học hành, nên quen gọi hai cha ấy là hai ông Quân tử.
Cha Moreau ở Chà Và được
vài năm, đang sốt sắng lo cho danh Cha cả sáng, đang ái mộ việc rỗi linh hồn
thiên hạ, bỗng đâu có giặc nổi lên, hăm đốt nhà thờ cùng giết bổn đạo, vì nói tại
bổn đạo đem Langsa qua lấy Nam Kỳ.
Lúc ấy là đầu năm 1872.
Khi giặc mới dấy, thì tưởng là giặc chòm, khuấy phá sơ qua. Ai dè quân ngụy đã
âm mưu tập lập lâu ngày, quyết dấy lên một lượt trong ba hạt: Bến Tre, Vĩnh
Long và Trà Vinh.
Mà hẳn thật nó đi làm như
mưu mô đã lập: nó giết ba bốn người có đạo tại Cái Tắt (Cái Mơng), đốt nhiều
nhà thờ trong ba hạt mới kể trước nầy, chém quan tham biện Vĩnh Long cùng một
thông ngôn và chín tên lính an nam theo tham biện, phía dưới Vũng Liêm. Cha
Abonnel, là anh ruột cha Abonnel ở Gò Công bây giờ, bị giặc giết cùng một người
có đạo, trong kinh mới, gọi là kinh Luro, về hạt Trà Vinh.
Cùng một khi ấy Đề Triệu,
là tướng giặc, đem binh đốt nhà thờ Cầu Ngang, và tính kéo lên phá họ Chà Và.
Cha Moreau thấy con
chiên mình cheo leo lắm, bèn đem bổn đạo lên Giồng Rùm, hiệp cùng cha Leprince
cho đặng mạnh thế, cho gần Trà Vinh, mà xin quan trên cho binh tiếp cứu. Rủi,
ngày ấy binh mắc đi dẹp giặc bên phía Ất Ếch. Nên quan trả lời xin hai cha toan
liệu thể nào mặc ý, vì quan quân không có mà tiếp cứu.
Khi ấy giặc đóng tại Cầu
Ngang, trống giống om trời, tiếng reo dậy xứ; thiên hạ nhổm chơn. Hai cha thấy
việc hiểm nguy, phải liều mình vì đoàn chiên, bèn tuyển những người tráng lực
trong hai họ, mà lập nên một đạo binh ứng ngãi.
Đoạn sắp binh ra trận.
Hai cha cầm súng đi trước, kế một khẩu súng đồng tiếp theo. Binh kéo băng ngang
qua đồng. Tới đầu làng Mĩ Cẩm, cách binh giặc chừng ít ngàn thước, cha đặt ống
dòm, thấy bên giặc đang chạy lăng xăng. Ấy là dân chạy thám. Cha bèn dạy bắn một
phát súng đồng, tức thì thấy giặc đổ xuống phía Thâu Râu. Hai cha kéo thẳng xuống,
khỏi xóm Bùng Binh, bắn một phát súng đồng nữa. Bên giặc thấy có hai ông Tây,
và súng ống binh lính hẳn hòi, bèn chạy tuốt qua phía biển.
Binh có đạo đắc thế, đuổi
theo, bắt đặng 17 tên ngụy, dẫn về Giồng Rùm. Bữa sau trên Trà Vinh quan đem
binh xuống dẹp giặc, thì bổn đạo nạp 17 tên ngụy đã bắt đặng ngày trước cho quan
trị tội.
Giặc yên rồi, cha Moreau
đem bổn đạo về Chà Và. Cha cùng con, cữa nhà tan hoang, đồ đạc mất hết. Cha con
hui hút với nhau chẳng đặng bao lâu, kế bị một trận bão, cũng nội năm 1872 ấy:
nhà thờ, nhà cha sập ráo. Ngày ấy có cha Leprince xuống thăm, không chỗ ở, còn
có một vựa lúa khỏi sập, nên hai cha vào đụt đó ba bốn ngày.
Bão rồi, cha cất nhà thờ
lại. Đoạn đấp một lộ thẳng ra rạch, và khai một kinh cũng ra rạch ấy. Đó là
kinh Chà Và bây giờ; người ta kêu là kinh nhà thờ, hay là kinh cha Đức (là tên
an nam cha Moreau). Bổn đạo nhờ kinh ấy lắm: lòi lúa gạo, chuyên chở vật chi
cùng tiện bề thông lợi..
Qua năm 1873 người phát bệnh
nặng, phải lên Bãi Xan, ở. nhà cha Thinselin mà uống thuốc. Ở đó ít lâu không
khá, người bèn qua Mỹ Tho, ở nhà cha Moulins. Khi vừa mạnh, thì lật đật trở về
Chà Và, mà coi sóc đoàn chiên Chúa.
Thuở ấy một mình cha
Moreau coi từ Chà Và, Cầu Ngang cho tới Láng Sắc. Việc đi họ là việc rất cam
go, vì đàng sá chưa có. Đàng bộ, thì đi theo bờ ruộng, lội bàu lội bưng; phần
thì đế sậy lợp khỏi đầu, phải vạch mà đi; phần thì đĩa, vắt, cực khổ trăm bề.
Còn đàng ghe cho tới Láng
Sắc, là hai ba ngày đàng: mưa nắng, muỗi mòng, bực bội, khó đi lắm. Nhưng vậy
người hằng hớn hở liều mình, mà lo việc rỗi linh hồn giáo hữu.
Người có lòng thương bổn
đạo lắm, nhứt là chầu nhưng, đạo mới cùng con nhà nghèo. Người hay cho của ăn đồ
mặc, tiền bạc, thuốc men. Khi thì trả nợ giùm, khi lại giúp chầu nhưng lập nghiệp.
Gần nhà thờ, có một nhà nghèo cực lắm, hai vợ chồng với một đứa con. Người chồng
hay đi câu nhắp. Bổn tánh cha làm lành, thì hay giấu, giữ lời Đ C G dạy rằng: Hễ tay mặt làm phước, thì đừng cho tay trái
hay: “Nesciat sinistra tua quid faciat dextera tua”( Matt. 6,3). Vậy mỗi tuần
cha mỗi đi dạo theo bờ ruộng, kiếm người ấy, mà cho một hai đồng bạc, biểu mua
gạo mà nuôi vợ nuôi con.
Chà Và, Cầu Ngang, Cái
Đôi, nhiều kẻ mang ơn người, hãy còn sống bây giờ. Khi người đổi đi rồi, thì mới
hay bạc người giúp kẻ khó cũng hết đôi ba trăm.
Họ Chà Và được cha Moreau
làm cha sở thứ nhứt, ở tại họ mình đầu hết; cha Moreau cũng được bổn đạo Chà Và
làm con đầu lòng, khi mới qua giảng đạo. Người ta nói thương thuở ban đầu, là
thương keo sơn bền chặt lắm. Sau nầy, mỗi khi nói đến Chà Và, Cầu Ngang, Cái
Đôi, thì người tỏ hình và vui, và thương,
và nhớ, mà nhắc mấy tên xưa rằng: Rạch
Rập, Thâu Râu, Láng Sắc!
Cha Moreau ở Chà Và được
4 năm, kế Đức Cha Colombert đổi người lên Thủ Ngữ, lối đầu năm 1874. Sở Thủ Ngữ
hết thảy là ba họ: Thủ Ngữ, Tân Xuân và Gò công. Người coi họ Gò Công được 10
năm, từ năm 1874 tới năm 1884.
Thuở ấy đất Thủ Ngữ cũng
còn hoang vu lũ loạn lắm, chưa thành khoảnh như bây giờ. Bổn đạo Thủ Ngữ và Tân
Xuân, hết thảy chừng bảy tám trăm. Mấy năm cha Moreau nhậm đó, thì thêm chừng một
hai trăm, trồi sụt từ 900 tới 950.
Thủ Ngữ và Tân Xuân là
hai họ liền ranh với nhau, mà là hai họ khác nhau, mỗi họ mỗi có nhà thờ. Người
tính nhập lại họ làm một, hầu nên một ràn, cho dễ bề chăn giữ đoàn chiên, cùng
sum vầy ấm cúng trong việc thờ phượng Đ C T.
Vậy năm 1878, người mua
được một miếng đất gần mé rạch Kỳ Hôn, là nơi cân đường ở giữa hai họ, thì người
đã đem nhà thờ về chỗ ấy. Từ đó, Thủ Ngữ và Tân Xuân trở nên một họ, kêu chung
là họ Thủ Ngữ.
Chỗ nhà thờ mới nầy,
phong cảnh vui đẹp hơn chỗ cũ trong Thủ Ngữ bội phần, nhứt là từ khi khai kinh
Chợ Gạo, gọi là kinh Duperré, thì đêm ngày tàu bè lớn nhỏ cùng ghe thương hồ ra
vô không khi ngớt.
Đoạn người lo đấp một đường
từ nhà thờ mới vô tới nhà thờ cũ, là xóm bổn đạo ở đông, cho tắt đường đi nhà
thờ, cùng khỏi qua nhiều cầu, khỏi lội nhiều nơi bùn nẩy. Từ ấy đến rày bổn đạo
nhờ đường ấy lắm. .
Song cuộc đất vườn, ai ai
cũng rõ: biết là bao nhiêu mương, xẻo, rạch, ngòi; cho nên cũng biết là bao
nhiêu cầu kì mà kể! Mà thứ cầu đó là một hai cây cau, vài ba cây tre, hay là một
cây dừa bắt ngang qua đường nước, rồi không ai lo tới nữa, ai đi được thì đi,
ai té thì chịu; có khi lối xóm cũng rút cầu mà dùng việc nhà. Thứ cầu ấy kêu là
cầu khỉ; cầu khỉ mà bắt cho người ta đi, mới là ngặt nghèo! Trót mùa mưa, thì
bùn lầy trơn trợt; khi nước ròng nước lớn, ngập cầu, trôi cầu, thì rất đỗi éo
le, nhứt là khi đã có gương con nít té cầu, mà chết chìm trong mương trong rạch.
Bỡi cớ ấy, nên sinh thiệt
hại cho linh hồn giáo hữu nhiều bề. Phận cha sở, một lần đi kẻ liệt, hay là đi
viếng họ, là một lần cực khổ, thì chẳng nói chi; mà việc bổn đạo đi đọc kinh
xem lễ, nhứt là việc đồng nhi đi học cùng đi nghe dạy Sách Phần, thì rất khó là
thể nào! Vì vậy người trễ nải, hoặc ít đến nhà thờ, hoặc không khi nào đến; kẻ
tầm thường, thì rán đi xem lễ Chúa nhựt lễ cả, rồi thôi. .
Mấy năm cha Moreau ở Thủ
Ngữ, người buồn rầu năn nỉ về đều ấy không biết mấy lần. Người thấy nhiều chỗ lập
Hội nầy hội khác, bày việc lành nọ việc phước đức kia, để giúp giáo nhơn tấn tới
trong đàng lành, cùng thêm lòng kính mến Chúa, thì người buồn mà than rằng: Trong họ tôi, tôi làm hết sức mà lập hai Hội:
một là Hội bổn đạo đi xem lễ ngày Chúa nhựt lễ cả cho đông; hai là Hội đồng nhi
đi nghe dạy cho thường..
Mà thiệt, người đã làm hết sức, đến đỗi kêu sổ mỗi ngày Chúa nhựt
trong nhà thờ; chẳng những kêu tên đồng nhi nghe dạy Sách Phần, mà có lúc cũng
kêu sổ mỗi nhà bổn đạo, cho đặng biết ai đi xem lễ ai không..
Còn một việc cha Moreau hằng
lo lắng hết lòng: là cất đền thờ cho xứng đáng cho Đ C T ngự. Nhà thờ mới đem về
rạch Kỳ Hôn đã nói trước nầy, là nhà thờ nhỏ, vách ván, ban đầu lợp lá, rồi sau
lợp ngói. Song nhà thờ ấy là nhà thờ tạm mà thôi. Người có ý cất nhà thờ lớn đã
lâu, đoạn để nhà thờ tạm ấy mà làm trường học.
Song bỡi họ nghèo, vườn đất
thì nhiều, mà huê lợi thì không bao nhiêu, cho nên việc cất nhà thờ lớn giãn ra
lâu dài dường ấy. Người cần kiệm lắm; ở họ nào, dầu họ ấy mắc nợ bao nhiêu, thì
người cũng nhín nhúc mà trả cho hết, rồi lại lo cho có của dư, hầu dễ bề toan
liệu trong việc thờ phượng Chúa. Người chẳng chịu xin xỏ của ai.
Vậy người góp nhóp hơn 10
năm, mới có vừa đủ mà gầy việc. Người bèn mua gỗ súc đủ thứ, cùng mướn thợ làm
kèo cột, mấy vày nhà thờ sẵn sàng; lại lo xây nền, xong xuôi mọi sự, còn dư đôi
ba ngàn đồng, để lo mọi việc cho thành, kế được tin đổi lên Chợ Lớn, chẳng đặng
thấy việc mình ước ao sở nguyện bấy lâu.
Cha Moreau ở Thủ Ngữ lâu
năm, mà bề ngoài vắng hoe, không tiếng tăm gì, không làm chi cả thể, không ai
nói tới. Chẳng qua là vì người yêu ở khiêm nhượng khó khăn, cùng ưa tịch mạc một
mình, không cầu ai khen, không sợ ai chê, không trông ai biết tới mình. Người
giữ lời ông thánh Phaolồ khuyên bổn đạo xưa tránh cuộc vinh hoa ở đời, mà sống âm thầm khuất tịch cùng Đ C G: “Vita
vestra est abscondita cum Christo in Deo” Col. 3,3).
Người cứ việc thương giúp
kẻ khó, như khi ở Chà Và. Chẳng ai nghèo cực đói rách chạy đến cùng người, mà về
tay không bao giờ. Người ân cần mọi việc bổn phận về đấng chăn chiên lành; đoạn
bao nhiêu giờ rảnh thì cứ kinh sử, sách vở, cùng sống kín nhiệm với Đ C T.
Mà sự ở thanh vắng, và sống
Kín nhiệm cùng Chúa giúp linh hồn tấn tới trong đàng trọn lành, và lập công
nghiệp kể chẳng xiết: In silentio et
quiete proficit anima devota (Imit. lib. I, cap. 20). Vì vậy nói được về
cha Moreau rằng: Ngày người sống ở đời là
ngày đầy dẫy công nghiệp, “El dies pleni invenientur in eis” (Ps. 72, 10).
Từ khi người bước chơn
vào đất Nam Kỳ, cho đến ngày người qua đời, là 43 năm, thì chẳng khi nào người
ra khỏi đất ấy. Nói được cha Moreau hằng ở nhà, cùng có mặt tại sở mình luôn.
Dầu người đau nhiều phen,
nhứt là khi mới về Thủ Ngủ, đau một trận trót ba tháng trường, song người chẳng
hề xin đi Hong-Kong, hay là đi nơi nào khác mà nghỉ bao giờ.
Vậy cha Moreau ở họ Thủ
Ngữ, như thầy tu ẩn ánh rừng xanh, như chim nọ an thân trong ổ. Ngày qua tháng
lại, tính được 21 năm trời; càng ngày càng thêm thương chốn thấp hèn, một lâu một
thêm mến nơi sầm uất, lòng mong tưởng ngụ có cho đến mãn đời: “In nidulo meo moriar” ( Job, 29, 18). Hay đâu ý Chúa đã định cho người bỏ nơi tịch mạc, mà về chốn thị thiềng, hầu trau
chuốt linh hồn cho trọn bề đức hạnh.
Cuối năm 1895 cha Moreau
đổi về Chợ Lớn, lòng ngậm ngùi nhớ tưởng chốn thanh vắng xưa; nhưng vậy người
cúi đầu vưng theo ý Chúa, cùng siêng năng sốt sắng, bổn phận trọn niềm..
Cha Moreau là người ngay
thẳng, chẳng tày vị ai; bề ngoài chơn chất thật thà, không hay đãi đưa bom
phóp, lại coi tuồng lợt lạt khô khan. Cho nên hàng viên quan hào phú có việc tới
lui cùng người, mà chưa biết tính người, e khi phiền hà nẵn nỉ; mà khi biết người,
thì thương kính yêu vì..
Có nhiều thứ trái, bề
ngoài nhám nhúa chông gai, hình thù kịch cỡm, mà bên trong rất ngon ngọt tốt
lành. Người đời, ghe kẻ cũng chẳng khác nào: hình duông và cách ăn thói ở bề
ngoài, ví dường màn kia thô kệch, ẩn che nhiều nhơn đức trọng tốt bề trong.
Hoa thơm cũng thì hoa
thơm, mà thứ thì nở trét giữa trời, kẻ qua người lại hưởng mùi thơm nực; thứ lại
một nơi thấp hèn, giấu mình dưới cỏ, làm như thơm cho một mình mình hưởng. Người
đời, kẻ thì thông minh cho kẻ khác nặng nhờ; kẻ lại thông thái cho mình mà
thôi, chẳng tỏ cho ai, chẳng ham ai biết, hay nghe mà chẳng hay nói, làm như
người ít biết ít thông.
Khen thay Đấng Tạo hóa, khéo
dựng lòng trí con người cách nầy thế nọ; mà cách thế nào cũng đáng khen đáng ngợi
vô cùng: “Mirabilis Deus in sanctis suis”
(Ps. 67, 36 ).
Cha Moreau ở Chợ Lớn hơn
một năm, rồi đổi di Tân Định, là họ lớn hơn các họ về miệt trên nầy; nhơn số chừng
3000 bổn đạo. Người ở Tân Định hơn 4 năm, vui mừng phỉ dạ, vì gặp nhiều dịp lập
công cùng liều mình vì đoàn chiên Chúa: ngồi tòa , giảng dạy, đi kẻ liệt, việc
nầy việc khác đáp đổi liền tay. Người phấn chấn làm hết các việc, chẳng tránh
trút việc nào. Người quen nói rằng: Dầu một
linh hồn mà thôi, thì công việc mình, cũng phải làm, đường bằng làm cho cả và họ.
Lớn điền lớn đất, thì lớn việc cày bừa gieo vải; mà việc gặt hái cũng thành,
cũng vui. Người nói cùng cha kia rằng: Gánh
thiệt là nặng, mà lưng tôi cũng lớn khá, vác nặng còn nổi.
Song cha Moreau tới đâu,
cũng tỏ đức yêu người rõ ràng hơn nhiều đức khác. Khi ở Tân Định, thì người có
một cha An Nam ở giúp. Người giao hễ mỗi ngày, khi lót lòng rồi, thì hai cha
thay phiên mà đi một cha một phía trong họ, cho đặng biết trong giáo hữu có ai
đau đớn liệt lào, hay là khó khăn đói rách, hầu giúp đỡ. Khi về thì hiệp nhau,
mà thuật lại các truyện mình đã nghe thấy. Bữa kia cha phó nói mình gặp một người
đau lâu ngày, bỏ sở mần, cho nên thiếu ăn. Cha Moreau hỏi người ấy ở đường nào,
số nào, đoạn lén đi thăm, cùng cho bạc, biểu mua ăn và uống thuốc. Nhiều kẻ đã
đặng ơn người thương giúp như vậy, sau nói lại thì mới hay.
Chẳng những người giúp đỡ
kẻ khó khăn trong giáo hữu, mà lại cũng tư trợ những cha thốn thiếu. Có một lần,
nhằm buổi các cha An Nam cấm phòng, thì người hỏi trong các cha, cha nào thiếu
thốn hơn. Cha phó chỉ tên ít cha. Khi ra phòng, thì người giúp mấy cha ấy bộn bạc.
Lại cho cha kia 100 đồng. Cha ấy sửng, hỏi bạc gì? Thì cha Moreau nói: là bạc
bán chuông, cha lấy mà xài. Người ưa chuộng lắm; khi ở Thủ Ngữ, người xuất tiền
riêng của mình, mà mua sáu cái chuông. Sau đó bán lẻ, lấy tiền mà làm phước.
Vậy người ở Tân Định công
lao khó nhọc càng nhiều, thì lòng càng thương mến hoàn thiện; mà đoàn chiên lại
mến chủ chăn. Cho nên tự nhiên khi phải đổi đi, thì đau lòng xót dạ ai kể cho
cùng. Mà cha Morneau thiệt là người khiêm nhượng, nhịn nhục, và vưng lời chịu lụy
phi thường. Sau nầy người nói về đức vưng lời một câu rất đáng nhớ rằng: Chẳng có sự gì tốt lành cho bằng vưng lời chịu
lụy, Dầu ở đâu mặc lòng, hễ là vưng lời, thì đẹp lòng Chúa cùng bằng an luôn: “Vir
obediens loquetur victoriam” (Prov. 21, 28).
Qua năm 1902, cha Moreau
về coi nhà thương lính, thường kêu là nhà
thương đồn đất, vì thuở cựu trào có một cái
đồn, vách đất, ở nơi đây. Sở nầy là sở sau hết, người nhận cho đến khi qua
đời, được 10 năm chẵn.
Năm năm đầu thì người ở
luôn trong nhà thương, như các cha hồi trước. Năm năm sau thì người ở nhà trường
Latinh, vì chẳng đặng phép ở luôn trong nhà thương, cũng chẳng có nhà để cho thầy
cả ở trong ấy nữa. Mà khi người ở nhà trường, thì mỗi bữa tối mỗi đi ngủ trong
nhà thương, ngủ cực khổ tức tưởi trong phòng đồ lễ, mà người cũng cam lòng chịu
cực, ngủ nhờ nơi ấy hơn ba năm, cho đặng gần gũi với kẻ liệt khi đêm hôm gấp
rúc. Việc đi nhà thương, thì thường thường người đi bộ. Chừng hai năm sau hết,
thì người chẳng còn đi ngủ trong nhà thương nữa, một đi làm lễ ngày Chúa nhựt lễ
cả mà thôi, vì người già yếu, khó nỗi đi đi về về một ngày hai ba lần. Lại con
mắt muốn lờ, lỗ tai muốn lảng; cho nên đêm kia người bị xe cán tại đường
Lagrandière, khi đi nhà thương mà ngủ như mọi lần.
Dầu khi người ở luôn
trong nhà thương, dầu khi về ở nhà trường, thì mỗi ngày người mỗi đi viếng kẻ
liệt trong các phòng bịnh ở, làm như Đ C G xưa đi rảo các thành... mà chữa các giống bịnh hoạn tật nguyền: “Et circuibat Jesus omnes civitates... curans
omnem languorem et omnem infirmitatem” (Matt. 9, 35). Người chẳng đặng phép
chữa tật bệnh phần xác như Đ C G, song người hết lòng an ủi giúp đở phần xác,
cho đặng cứu chữa linh hồn.
Bổn tánh người nhịn nhục
hiền lành lắm. Dầu ai nói, ai làm đều gì sỉ nhục cho mấy, người cũng làm thinh
mà chịu; chẳng khi nào theo tính nóng nảy, chẳng hề nói lời gì xẳng xớm với ai.
Phương chi cách người ăn ở với kẻ liệt, thì nhịn nhục hiền lành là thế nào hơn
nữa! Ghe phen người bị nhiều đều sỉ nhục, mà người cứ một lòng nhịn nhục hiền
lành, dùng nhu nhược mà thắng cang cường:
“Vince in bomo malum” (Rom. 12, 21 ), cho đặng đem chiên lạc trở về cùng Chúa.
Việc coi nhà thương nầy
là việc rất khó, ghe phen cũng là việc rất đắng cay, chẳng gặp sự an ủi như
trong các nhà thương khác. Nhưng vậy người cam lòng ngậm cay nuốt đắng, mà
trong sự an ủi ngày sau, khi nghe lời Đấng phán xét rằng: “Infirms, et visitastis me”(Matt. 25, 36), Tao liệt lào, bay đã viếng thăm, thì bay hãy vào nước Cha Tao đã sắm sẵn
cho bay, mà hưởng phước đời đời: “Possidete paratum vobis regnum à
constitutione mundi”(Matt. ibid.).
Cha Moreau coi nhà
thương, chẳng những làm lành trong nhà thương, mà lại thi ân nơi khác. Người
giúp các cha thốn thiếu, hoặc giúp việc cất nhà thờ, hoặc giúp làm nhà cha sở
nơi nọ nơi kia.
Mấy năm ở nhà trường, thì
người giúp học trò cũng nhiều, cho học trò sắm áo quần, sách vở, cùng những vật
cần dùng. Có một trò kia đau nặng, phải ở nhà thương cho quan thầy điều trị,
thì mới trong đặng lành. Mà bỡi cha mẹ nghèo, thì cha Moreau đã chịu tiền nhà
thương cho trò ấy là 200 đồng. Nay trò ấy thuyên bịnh, và còn ở nhà trường, là
nhờ ơn người thương giúp.
Chẳng những là người làm
phước chỗ gần, mà lại cũng phân phát ơn lành nơi xa. Khi người qua đời rồi, thì
gặp trong phòng người một tấm hình, họa nhà ở và học trò nhà trường Cuénot, là
trường thầy giảng của cha Guerlach, là cố chính Địa phận Bình Định, đã lập trên
Mọi. Sau lưng tấm hình có đề chư rằng: Au
Révérend Père Moreau, bienfaiteur de l'École Cuénot: Dưng hình nầy cho cha
Moreau, là đấng làm ơn lành cho nhà trường Cuénot.
Ba ngày trước khi người
qua đời, có một cha đến thăm người, thì gặp trai kia chừng 18, 19 tuổi đang nói
chuyện với người. Cha ấy bèn hỏi trai nầy ở đâu và đi việc gì? Người nói nó là
một đứa mồ côi, người đã cầm đầu cho nó, đã chịu tiền cho nó ăn học tại Taberd
được vài năm, rồi nó bỏ học, cứ ít bữa tới xin như vậy luôn, người đã tốn cho
nó quá 500 đồng. Mà con cầm đầu của người như
vậy, không phải một đứa ấy mà thôi.
Thôi, kể chi lâu dài, việc
phước đức người nói sao cho xiết. Xem ra người biết dùng tiền bạc, mà làm phước
mà thôi, chẳng biết dùng mà làm việc gì khác, chẳng hề sắm một vật gì cho đáng.
Chúa thấy công nghiệp phước
đức người đã thậm dày, thì Chúa gọi người về mà ban thưởng. Cha Moreau quá lục
tuần đã lâu, mà coi còn sõi lắm, tưởng còn sống được nhiều năm. Song cách một
năm nay, thì người bớt sức nhiều, hay mệt, hay nhắc giờ chết.
Bịnh thình lình lắm. Trưa
ngày thứ bảy, 4 Mai, người còn mạnh khỏe như thường, kế lối 4 giờ chiều có một
thầy lên phòng người, thì thấy người nằm trên ghế dài, không còn máy động. Thầy
ấy hỏi, người không trả lời, cứng miệng cứng lưỡi, bất toại nửa thân mình, phía
tả, từ trên đầu cho tới dưới chơn.
Thầy ấy bèn chạy kêu các
cha. Các cha tựu tới giúp đỡ, cùng rước quan thầy Angier. Quan thầy khám bệnh,
thì nói người bị hémorragie cérébrale
nặng lắm,( bịnh đã làm cho máu tụ lên trên đầu nhiều quá, có khi nứt mạch máu ở
trong, mà chết). Quan thầy dạy khiêng người qua nhà thương của mình, sau nhà
phước Trắng, cùng hết lòng lo phương cứu chữa, mà không kịp.
Sáng Chúa nhựt, 5 Mai,
quan thầy thấy không dấu bớt, thì xin lo cho người được chịu các phép. Người chịu
các phép đang khi tỉnh táo lắm. Khi xức dầu, thì người chăm chỉ nghe đọc kinh
cùng làm dấu thánh giá đặng, vì bên hữu khỏi bất toại.
Sáng thứ hai, 6 Mai, người
hấp hối cho đến gần hai giờ trưa, thì linh hồn lìa xác bằng an trong tay Chúa.
Và đau và chết, không đầy hai ngày. Đoạn đem xác người về nhà trường Latinh.
Sáng thứ ba, 7 Mai, sớm
mai hát lễ trọng thể, chiều hát kinh cầu cho các đẳng (Vêpes des morts); loạn
mai táng tại Chí Hòa, một bên lăng Cha cả.
Đức Cha cùng các cha xung
quanh Saigon tề tựu đủ mặt. Thầy dòng, nhà phước cũng đông. Trong giáo hữu, nhiều
kẻ quen biết người, cũng đến chầu lễ tống táng, nhứt là bổn đạo Tân Định đông lắm.
Quan Nguyên Soái cho quan hầu đến thay mặt, chung tình thương tiếc cùng Hội
thánh Nam Kỳ. Hàng viên quan, cai, cùng lính trong nhà thương đồn đất cũng đến,
mà đưa người một phen sau hết.
Nhựt trình “Dépêche” kể
lược qua cuộc cha Moreau tạ thế, thì rằng: Cha
Emile Moreau biệt trần, làm cho những kẻ quen biết người đều thảm sầu thương tiếc.
Thuở còn sống, người ăn ở rất tốt lành, làm cho nhiều kẻ yêu vì mến đức.
Cha Moreau hưởng thọ 68
năm, làm thầy cả cùng giảng đạo trong Nam Kỳ 43 năm..
Tánh hạnh cùng nhơn đức
cha Moreau tóm lại một đức yêu người: cha ở nhỏ nhoi với hết mọi người, chẳng hề
kiểu cách với ai, chẳng giận hờn ai, chẳng hề nói động tới ai. Lại người trải dạ
thương giúp kẻ khó khăn cùng người mồ côi cô độc kể chẳng xiết; ắt nay Đ C T
cũng mến yêu và ban thưởng cân xứng công nghiệp người, như lời Kinh thánh rằng:
Người đã rộng tay phân phát cho kẻ khó khăn thì phước đức người còn bia muôn kiếp,
người sẽ đặng cao sang vinh hiển đời đời.
“Dispersit,
dedit pauperibus:
justitia
ejus manet in sæculum sæculi,
cornu
ejus exaltabitur in gloria” (Ps. 111, 9).
J.
B. TÒNG.
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1912
Thứ Năm, 15 tháng 12, 2022
Thứ Tư, 14 tháng 12, 2022
Truyện tích Cha Jean Rénier
TRUYỆN TÍCH CHA JEAN RENIER
---------------------
Cha
Jean Renier sinh ra tại Challains-la-Potherie (Maine et Loire)
ngày
29 Octobre 1853; qua Nam Kỳ 29 Décembre 1881; qua đời tại nhà thương Angier
(Saigon)ngày 24 Avril năm 1922.
Từ hôm cha Renier chết đến
nay đã hơn bảy tháng rồi, khi cha mới chết, tôi muốn ra tay chép hạnh cha tức
thì, song tôi không dám xướng tài, có ý đợi có đấng nào biết rõ hơn mà kể tích
cha, chẳng hay từ đó đến nay thấy một ngày một biệt, nên không lẽ làm thinh mà
để vậy, thì ấm ức cái tấm lòng.
Đã hay rằng: hễ chết rồi
thì mọi sự hết rồi. Song tục thường nói. Hùm thát để da người ta thát để tiếng,
vả lại người lành, kẻ dữ khi chết xuống mồ rồi thì đều để tiếng lại đời, nhắc tới
kẻ lành đặng tặng khen và bắt chước theo gương tốt người lành; nhắc tới kẻ dữ đặng
ngừa tránh những gương xấu kẻ dữ làm.
Cha Jean Renier thật là
người ngay lành, nếu bỏ qua chẳng nhắc tới hạnh của người thì tủi bụng, vì các
nhơn đức cùng những công lao khó nhọc của người đã làm và đã chịu khi còn sống,
thì nên bia tạc cho ai nấy bắt chước, mà nhắc tới thì chạnh lòng vì công nghiệp
của người còn ràng ràng đó, mà người rày đâu?
Tuy vậy mặc dầu tôi rán
viết bài nhỏ mọn nầy, đặng trước là tỏ tình cảm mến cha linh hồn, sau là cho kẻ
mới tới trong họ Mỹ tho đặng tường những công lao khó nhọc của cha, đã làm cho
cả và họ ngày nay được vĩnh viễn.
Cha Jean Renier cao lớn
người, râu dài, trán cao, mũi rộng, môi son, mặt mày sáng láng, bộ đi tướng đứng
coi khoan thai, cách ăn nói lịch lãm, tánh đằm không hay nóng giận, cung kính kẻ
bề trên dịu dàng cùng bạn tác, vui vẻ và hậu đãi người bề dưới. Đã khôn đời lại
ngoan đạo, biết mua lòng người ta. Bỡi vậy nào viên quan Langsa, Annam, nào
làng xóm, nào người ngoại giáo đều thù tạc vãng lai cùng người, bất luận kẻ
sang người hèn, kẻ giầu người nghèo, ai tới viếng người ra về đều an lòng phỉ dạ,
hoặc được lời khuyên giáo, hoặc được an ủi, hoặc được giúp đỡ phần hồn phần
xác. Thiệt cho là người siêng năng: làm lễ rồi thì dạy sách phần, ngồi tòa, đi
vào đầu nầy đầu nọ coi thợ thầy làm, viếng nhà trường nam, trường nữ, nhà
thương trong, nhà thương ngoài, thăm kẻ liệt lào bịnh hoạn trong họ, đi cù lao
Rồng; ít lâu thì đi viếng mấy họ nhỏ xung quanh thuộc về phần sở của mình; rảnh
thì coi sách, nguyện gẫm hay là lần hột, ngày ngày đều như vậy, trừ ra khi đau ốm
thì mới chịu nằm mà thôi..
Cha Renier thuộc về dòng
sai, qua Nam Kỳ hồi năm 1881, khi đó người 25 tuổi. Đức Cha gởi người đi Mặc Bắc
đặng học tiếng Annam, sau bổ người đi coi họ Biên Hòa; lúc đó thì Biên Hòa còn
hoang địa rừng rú hiểm nghèo. Cách ít lâu người đổi về làm cha sở Chợ Đũi. Qua
năm 1899 thì người về Mỹ tho thế cho cha Linh (Moulins) đổi về làm nghị viện
cho Đức Cha và coi họ chánh Saigon.
Khi cha Renier tới Mytho
thì nhà thờ hãy còn ở giữa châu thành, tại chỗ kho rượu bây giờ; còn cha thì ở
vòng xung quanh theo chái nhà thờ. Nhà phước thì ở cách xa đó chừng 200 thước
phía bên kia đường Dariès. Bổn đạo khi xưa thì ở vây theo nhà thờ đông đảo, mà
rày bỡi thành phố mở mang, cuộc công nghệ thương mại tấn phát, nên rút nhau lần
lần về Vĩnh Tường, bỏ nhà thờ ở quạnh hiu với năm ba nhà có đạo mà thôi.
Cha Renier về nghĩ vì họ
lớn ở nhằm chỗ thị tứ, các cha qua lại thường, mà nhà cha thì hẹp hòi rước
khách bất tiện, nên mới cất một cái nhà ở cho khoản khoát (nhà ấy bây giờ cho
quan trạng sư mướn), còn nhà thờ, kiểu thiệt tốt, song cất cũng đã lâu, cây ván
tuồng trong hư hết nhiều, khó bề tu bổ lại, nếu để vậy thì sợ hiểm nghèo, nên
qua năm 1903 cha định phải triệt đặng đem vô Vĩnh Tường cất lại ở giữa bổn đạo.
Khi dở nhà thờ lớn rồi thì bổn đạo tựu nhau lại đọc kinh xem lễ tại nhà thờ
Vĩnh Tường có cha Antôn Đường.
Qua năm sau (1904) ngày đầu
tháng Đ C Bà thì một trận bão dữ tợn làm cho nhà phước mồ côi phải sập và hư hại
nhiều. May phước! phải chi nhà thờ lớn chưa dở thì e phải bị tai hại rất to, vì
đứng chỗ trúng nhằm luồng gió đi. Bão qua rồi thì nhà mồ côi sáp nhập về nhà
thương Vĩnh Tường, bỏ cha sở ở lại một mình.
May lóng đó nhà chung mua
được một miếng đất và một cái nhà, cha già Đường dọn về nhà nầy, để nhà mình lại
cho cha sở, khi đó hai cha làm lễ trong nhà thờ Vĩnh Tường, nhỏ và chật hẹp cho
cả và họ. Cha Renier mới lo cất nhà thờ. Cất vừa rồi thì cha lật đật dọn về ở
nơi lầu chuông, giao nhà của mình lại cho thầy dòng, và cha lo dọn dẹp nhà thờ
cũ lại đặng làm nhà trường nam.
Song tội nghiệp, nơi lầu
chuông đã hẹp hòi lại bị nắng chiều nực nội lắm, lại rủi nhằm lóng đó cha đau
con mắt, nên cha phải dọn về ở tạm nơi phòng áo, ở được một ít lâu cha thấy bất
tiện, vì khi có khách thứa thì không biết rước vào đâu, nhà cha mới cất một cái
nhà lá gần một bên nhà thờ, yên chỗ rồi thì cha lo sửa nhà thờ cũ ra nhà lầu
cho có chỗ cho học trò ngủ, khi lo cho học trò nam xong rồi, thì cha tính cất
nhà cha lại, vì ở nhà lá thì bất tiện nhiều đều, khi dông mưa thì ướt hết đồ đạc,
lại một nỗi sợ hỏa hoạn phát lên thình lình, làm không kịp mà phải thiệt hại,
cho nên cha cất nhà cha cũng gần đó cao ráo rộng rãi, cất nhà cha rồi thì cũng
chưa nghỉ ngơi được, vì học trò nữ còn ở đậu trong nhà thương, chưa có trường
riêng.
Bỡi cha khéo tính, nên
cha mua đất ngang nhà thương, vừa chỗ mà lập nhà trường lắm, nội trong mấy
tháng thì cuộc đất nầy khi trước là chuồng bò, hào hố, sình nẩy, rày trở nên một
cảnh rất xinh đẹp, trong một vuông rào vách tường có nhà lầu, nhà trệt, đèn
khí, hồ nước, bông hoa cây cối đâu đó có thứ tự lớp lang, thấy lạ con mắt cho kẻ
nào lâu đi tới Mỹ Tho. Ngày nay học trò nam nữ ở Mỹ tho có chỗ ăn học tử tế,
khoản khoát, thì nhờ có cha Jean Renier ra tay gầy dựng, nên các trò hãy nhớ tới
người, mỗi lần các trò đọc kinh xem lễ, hay là nói khó cùng Chúa, thì xin đừng
quên đấng đã làm ơn cho mình.
Cất nhà trường nữ xong rồi,
thì cha cũng còn lo nữa, là nhà thờ đất thánh (kêu là nhà thờ bà thánh Annà) đã
hư hết sợ sập bất tử, nên cha tính cất lại và đem sụt vô trong, vì chỗ đó gần ngoài
sông cái sợ đất lở, nhà thờ cất kiểu thường song coi đẹp con măt.
Bổn đạo thấy cha lòng lành
nhơn từ thì thương mến hết sức, năng tới lui thăm viếng, năng nói khó cùng người
bàn tính chuyện nọ chuyện kia, thì sự tin tưởng càng ngày càng thêm, mà nhứt là
khi thấy cha lo lắng cho bổn đạo và đồng nhi nam nữ lớn nhỏ phần hồn phần xác,
thuận thảo cùng mấy trào cha phó đến mà giúp cha, thì bổn đạo đem lòng tin kính
và mến thương cha cho đến khi chết, bỡi vậy khi hay tin cha chết thì trong họ lớn
nhỏ đều châu lụy nhỏ sa, lại ấm ức vì không được thấy mặt cha mình một phen sau
hết, khi được tin nầy thì kẻ đi xe lửa, người đi xe hơi, chuyến xe nào cũng có
bổn đạo lên đặng có ý xin xác cha về còn kẻ ở nhà thì lo sắp đặt đặng rước xác
cha, song thảm thay!!! Rủi nhằm lúc Đức Cha đi khỏi nên xin xác về không được,
và cũng chôn gấp quá nên bổn đạo lên nữa không kịp, thì sự đau đớn chua xót
trong họ ai kể cho cùng.
Cha Renier là người trung
quân ái quốc, nên trong lúc giặc giã thì cha thúc giục lòng bổn đạo, lo cầu xin
cho nước Langsa đặng thắng trận, và ra sức giúp mấy cuộc quốc trái cho thành.
Một khi kia cha đi thăm họ
Kiến Vàng ở gần biển, ghe cữa lên rước cha đi nhầm lúc gió nam, chạy buồm chừng
năm sáu giờ thì tới, nên ăn bữa trưa rồi, cha xuống ghe không đem đồ ăn theo,
vì bạn nói về tới nhà kịp ăn buổi tối. Rủi dọc đàng bị hai trận dông và mưa lớn,
phải xả bườm vô rạch đậu núp. Êm trời ra đi khi đó là chín giờ tối mà ghe còn
linh đinh giữa vời, hai bên bờ thì rừng bụi vắng vẻ không có nhà ai hết, cha
đói mà dưới ghe không có một vật chi ăn được, có một gói cá mòi thính của người
bạn ghe mua đem về nhà mà thôi, túng làm cha phải ăn hai con cá mòi mặn đó, uống
nước lã mà chịu cho đến khi về tới nơi tới chốn thì đã khuya lắm, ướt hết loi
ngoi lót ngót.
Tôi có ý thuật chuyện nhỏ
mọn nầy, đặng cho ai nấy đem lòng thương mến cha linh hồn mình. Các viên quan
thế gian bất luận lớn nhỏ khi ra khỏi nhà, hoặc việc tư, hoặc việc nước, thì đủ
no mọi món, tới đâu có kẻ hầu người rước, mà cha linh hồn đi lo việc chung, phải
chịu đói khát tất bạc đỗi nầy!
Bấy lâu cha mảng lo cho
trong họ thủ túc không quản chi tới thân mình, lúc nầy đâu đó an bài rồi mà cha
sống ở đời với con cái không đặng bao lâu kế Chúa đòi về mà thưởng công.
Trong ý cha tưởng mình
chưa chết gấp vậy đâu? nên tính đi Đalat đổi gió ít tháng mà bổ sức lại hầu ở
cùng con chiên mình đôi năm nữa, ai dè ý nhiệm Chúa khác ý loài người, khi cha
sửa soạn đi thì bị một cơn rét nặng, bỡi vậy cha tính không đi để lên nhà
thương Angier uống thuốc. Tính xong rồi qua sáng ngày thứ tư cha ra đi, khi đó
có một ít người ngó thấy cha trong nhà bước ra mà đi, và ngó ngoái lại cách buồn
bực, âu là khi ấy trong lòng cha tưởng thầm rằng: “Không biết mình đi mà có trở
lại nữa chăng?” Cha đi chưa được năm ngày kế nghe tin cha lìa khỏi thế, thật rất
nên là chua xót! Ý Chúa nhiệm mầu, trí thấp hèn ta suy sao thấu, Chúa định cha
phải dời chơn khỏi họ đặng dọn mình chết lành, vì nếu khi đó mà cha chết tại Mỹ
Tho, ắt là khó bề nhắm mắt lại, vì con cái người kẻ vô người ra liu chiu lít
chít thì thêm cực cho phần trí cha biết là bao nhiêu!! Khi sống cha hay ở an tịnh,
nên giờ chết,cha cũng muốn lặng lẽ một mình.
Nguyện xin ngày sau các
con chiên của cha đặng hiệp vầy cùng cha lành trên nơi cõi thọ....
H.
M.
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1922
Thứ Ba, 13 tháng 12, 2022
Thứ Hai, 12 tháng 12, 2022
Địa sở Họ Bà Rịa
KỂ LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ
ĐỊA
PHẬN NAM KỲ
--------------------
ĐỊA
SỞ HỌ BÀ RỊA
---------------------
PHẦN
THỨ NHỨT
Nói
về Địa sở Bà Rịa (Đất Đỏ) trong cơn cấm kín bắt đạo.
----------------------
ĐOẠN
THỨ NHỨT
Nói về Địa sở Bà Rịa (Đất Đỏ), hồi trước
cơn bắt đạo (1861).
-----------------------
ĐIỀU
THỨ NHỨT
Nói chung về các họ trong Địa sở hồi trước cơn
bắt đạo (1861)
-----------------------
Muốn cho biết rõ về địa sở
Bà Rịa hồi trước năm 1861, thì phải nói ra trước cuộc thế việc đạo và địa cảnh
mấy họ trong địa sở.
Đất
Đỏ
Đất Đỏ là họ lớn là như họ
chánh trong địa sở; họ nầy nhơn số bổn đạo hồi đó gần 1100 ở rải rác trong ba
làng là làng Phước Tuy, Phước Thọ, và Thạnh Mỹ. Nhà thờ hồi thới bình thì cất tại
làng Thạnh Mỹ, bây giờ cũng còn lại làng ấy.
Thôm
Bên phía bắc họ Đất Đỏ
thì có họ Thôm hồi ấy nhơn số bổn đạo tới 500, ở trong hai làng là làng Long
Nhung và Long Hiệp.
Dinh Bà
Rịa.
Họ Dinh (Bà Rịa) ở bên
phía tây họ Đất Đỏ cách xa nhau mười ngàn thước, nhơn số bổn đạo đặng 400 ở tại
làng Phước Lễ, có nha môn huyện có phủ cai trị là quan nhị phẩm, họ nầy trở nên
họ chánh địa sở, tục kêu là họ Dinh vì họ nầy ở dưới chơn núi Dinh.
Họ
Thành.
Thành thì ở nửa đàng đi
Dinh xuống Đất Đỏ ở gần bên hướng nam, gọi là họ Thành vì kêu theo tên chợ gần đó,
nhơn số bổn đạo đặng 200 thuộc về làng Long Điền.
Gò
Sằm
Họ Gò Sằm ở nhằm bên hướng
đông họ Đất Đỏ, là họ nhỏ hơn hết trong địa sở vì nhơn số bổn đạo có 100 lại từ
đó đến bây giờ không thêm đặng mà càng bớt.
Ở giữa rừng Nam Kỳ và
Bình Thuận và xứ mọi. Gò Sằm là thuộc về làng Thạnh Mỹ.
Theo như sổ sách có đây
thì địa sở còn có hai họ nữa, một họ ở làng Long Kiên và một họ ở làng Long
Xuyên; gốc tích hai họ nầy dẫn ra sao hồi cơn bắt đạo, đó có lập cái ngục mà cầm
con nhà có đạo, hai họ nầy nhỏ nên đã bỏ hồi cơn bắt đạo, tưởng bổn đạo đã trốn
đi tản tác qua mấy họ lớn.
ĐIỀU
THỨ HAI
Nói
về gốc tích kể truyện mấy họ trước cơn bắt đạo 1861.
Gốc tích khi ban sơ lập
ra mấy họ ấy, hồi năm 1879 có hỏi ra thì những người bổn đạo tuổi tác không nhớ
không nghe nói gốc lập khi nào, tưởng là hồi trước hết khi mới giảng đạo bên xứ
Nam Kỳ.
Dấu tích nhà thờ đời xưa
hồi đó thì còn thấy tại họ Đất Đỏ, thì biểu là thuở đời đức vua Gia Long, vì
xét theo mấy tấm đá còn lại đó là đá táng cột nhà thờ thật rất lớn lao, nên biết
đặng thuở ấy họ Đất Đỏ là họ lớn đông nhơn số bổn đạo.
Nhớ thuở ấy họ Đất Đỏ là
họ có thầy cả ở đó luôn; là sở chánh cha ở mà đi mấy họ khác trong địa sở.
Cũng tưởng họ Đất Đỏ và họ
Thôm hồi đó mỗi họ có nhà trường học, người ta nói có dì phước bạn thánh giá dạy.
Người ta không biết bao
nhiêu về các cha đã giúp việc họ địa sở Đất Đỏ, trong những cha ở đó thì biết
có cha Giacôbê, có chỗ thì gọi là cha Điền (ta tưởng mà không dám chắc cha
Giacôbê cha Điền là một cha vì cây dương nhà thờ Đất Đỏ chỗ thì nói cha Giacôbê
trồng, chỗ thì nói cha Điền, không rõ có phải một cha không.), là một cha
dòng ông thánh Phanxicô, giúp việc địa sở ấy đời đức vua Gia Long. Trong nhà thờ
cũ thì có chôn một cha bổn quốc đó, mà nhà thờ ấy sau cũ hư hay là nhỏ không đủ
cho bổn đạo đọc kinh xem lễ, thì người đã lập nhà thờ mới rộng rãi tốt xinh đẹp,
theo kiểu annam, trong cơn Minh Mạng bắt đạo, thì đã ra lệnh triệt hạ nhà thờ,
nhà nước annam đã lấy đem về trên đồn Dinh mà làm lẫm lúa, bây giờ hãy còn đó để
làm trại lính, người ta nói nhà ấy cao lớn rộng rãi tốt hơn nhà thờ Đất Đỏ bây
giờ.
Cha Điền đã trồng gần nhà
thờ một cây dương, nó đã cố cựu thâm niên nên nó lớn cao hơn hết các cây trong
xứ, cây dương ấy thấy đặng xa lắm, nhơn cớ ấy người ta kêu nhà thờ Đất Đỏ là
nhà thờ cây dương, hồi bão ngày mồng một tháng Mai năm 1904, thì cây dương ấy
trốc gốc ngã.
Trong ba đời vua là Minh
Mạng, Thiệu Trị, và Tự Đức, thì mấy sở họ trong địa sở phải chịu bắt bớ dữ dằn:
triệt hạ nhà thờ Đất Đỏ nhà nước cướp lấy hết, nên bổn đạo phải chừng lén mà giữ
đạo, rất khó bề giữ các cha, hoặc các cha Dòng sai hoặc các cha Bổn quốc, cho đặng
giúp việc trong họ.
Cơn Thiệu Trị bắt đạo thì
ông Lái Gẫm (Á thánh Vêrô Gẫm) bị bắt. người là gốc ở họ Gò Công (gần Thủ Đức)
mà sau cưới vợ người ở Thành cho nên nhập về họ Thành. Người chở Đức cha
Đôminicô (Mgr. Lefebvre) về Saigon thì bị đồn thủ bắt, phải ở tù sau làm án xử
tử tại tĩnh Gia Định (Saigon).
Đức cha Gioang (Mgr.
Miche) có trốn ở tại họ Đất Đỏ ít lâu, người ở đỗ tại nhà ông trùm Sĩ, nhà có
hàng rào chắc chắn nên vững thế mà ẩn mình, người ta có đào một cái hầm dưới đất
dọn chỗ để hòng khi động dụng thì đem Đức cha xuống đó mà trốn, nhưng làm thế
thần như thế mà kẻ nghịch cũng hay đặng, nên phải điệu Đức cha ra ngoài Phước Hải
thuê thuyền mà chở người đi đem ra cho khỏi nước, mà Đức cha khéo liệu nên đã
khỏi cơn ấy; còn về ông trùm Sĩ thì bị bắt cầm tù tại Biên Hoà người đã chết tại
đó.
Trong những cha bổn quốc
đã giúp việc trong những họ trong địa sở hồi cơn bắt đạo mấy năm sau, thì còn
nhớ những là cha Kiều, cha Lợi, cha Tùng, cha Hạp, cha Hiển, cha Trí; cơn bắt đạo
có hơn ba mươi năm dư.
Địa sở Đất Đỏ tuy khi ấy
là trong cơn cấm kín bắt bớ đạo thánh mặc lòng, chớ việc đạo thì thạnh lắm, các
họ đều chịu bắt bớ lao khổ như nhau, mà có lòng với nhau lắm, dìu dắc nhau lo lắng
cho nhau phần hồn phần xác. Thật thì bổn đạo lúc ấy chịu bắt bớ khốn khó lắm,
mà còn sánh lại những đều gian nan bắt bớ sau nầy thì là thới quá.
---------------------
ĐOẠN
THỨ HAI
Nói
về Địa sở Bà Rịa trong cơn bắt đạo từ năm 1861 cho đến 1868
---------------------
ĐIỀU
THỨ NHỨT
Nói
về khởi sự bắt đạo, lấy sổ những người bổn đạo.
------------------------
Hồi binh Langsa và
Iphanho qua lấy Saigon thì Phủ Phước Tuy (Bà Rịa) thuộc về tĩnh Biên Hòa, lúc
đó thì không sao chưa có bắt đạo, cách hai năm sau người Langsa qua Nam Kỳ rồi
thì mới khỉ sự bắt đạo. Các quan lo lấy lại hai tĩnh người Langsa đã bắt đặng,
là tĩnh Gia Định, và Định Tường (Mỹ Tho), nên đã thâu binh nhóm hội tại tĩnh
Biên Hòa, mà ngăn ngừa chống trả. Tĩnh Biên Hòa thì là nhơn số bổn đạo đông, ở
rải rác theo mấy chỗ lớn, khi ấy các quan truyền bắt các bổn đạo hết mà cầm tù,
nhằm trong tháng Aout năm 1861, quan ra lệnh truyền cho các làng mà có bổn đạo ở
thì phải làm sổ bổn đạo nam phụ lão ấu hết cho kỷ cang.
Đoạn khi ấy thì mấy tổng
lo mà làm bốn cái khám lớn để cầm các bổn đạo đã biên vào sổ và những bổn đạo
còn sót chưa biên, vì có nhiều người trốn ẩn mình không biên đặng.
-----------------
ĐIỀU
THỨ HAI
Nói
về các bổn đạo ở tù, địa thế bốn cái tù.
-----------------
Khi lấy số rồi, thì mỗi
làng nắm lấy số ấy mà đi bắt bổn đạo đem nộp cho cai tổng làng mình, đến tổng
thì bắt đóng trăng lại cùng thích tự mỗi người hai bên má bổn chữ: Tả đạo Biên
Hòa. Có ý hễ mấy người bổn đạo ấy có thoát đi đâu, thì biết mà bắt, như có kẻ đã
trốn khỏi còn sống sau nầy, thì dấu thích tự ấy còn vậy hai bên má cho đến chết.
Thích tự đau đớn như vậy
rồi thì làm gông đóng lại mà dẫn đem vô trong bốn cái ngục cầm đó.
Ngục chánh thì tại Phủ
cách xa dinh quan phủ chừng hai trăm thước tây, tại làng Phước Lễ; ngục ấy thì
để cầm đờn ông, số mấy người ở tù ấy gần ba trăm người.
Còn ngục khác thì lập ở tại
làng Long Kiên cách xa tù kia bốn năm ngàn thước, ở đó cầm đờn bà và con nít số
tới 135 người.
Còn ngục thứ ba thì ở lại
làng Long Điền (Thành) bên hữu đàng đi Bà Rịa xuống Đất Đỏ, ở xa đàng đi nhà thờ
Thành bây giờ một ít. Ở đó cầm đờn bà và con nít nhơn số là 140.
Sau hết ngục thứ tư thì cầm
đờn bà và con nít còn dư lại, nhơn số đặng 125 người, ngục nầy ở tại làng Phước
Thọ gần ở giữa họ Đất Đỏ.
Lấy sổ hết trong bốn ngục
ấy, bắt cầm bổn đạo cả nhơn số là 700 người thuộc về năm họ trong địa sở. Còn
những người trốn khỏi, nó không lấy sổ đặng thì ẩn mình trốn theo ở với mấy nhà
kẻ ngoại quen có nhơn, có kẻ thì trốn đặng lên tới Saigon.
---------------------
ĐIỀU
THỨ BA
Nói
về sự gian truân tân khổ kẻ có đạo khi phải giam cầm trong tù.
---------------------
Mỗi ngục thì có lính canh
nhặt nhiệm, có đội có cai, ban đầu trong bổn đạo mấy người có đem tiền theo thì
còn lo lót chút đỉnh; thì nó nới tay cho, mấy người khác thì nó hành là thới
quá; đến đỗi những đều cần thì nó cũng không cho, nó làm khổ khắc lắm; những
người có tiền, lâu ngày không còn thì nó cũng làm khổ sở như mọi người khác, những
vật thực đem vô thì nó tra xét, lính nó lấy hết phân nửa rồi mới đưa vô.
Hồi ấy thì là trúng nhằm
mùa mưa, là tháng (Septembre 1861), tù thì nó bắt nằm dưới đất ướt át trong mùa
mưa như vậy, nên có nhiều người mang bịnh mà bỏ mình; nó không cho đi đâu nới
ra một chút, đi sự cần cũng không cho, phải mướn mấy đứa nhỏ đi đổ xức xở. Vậy
trong tù thế ấy thì là hôi thúi quá, nên sinh bịnh, ước chớ chi chết thì là hơn
sống mà cực thới quá.
Mà nhứt là khám Bà Rịa,
là khám tù đờn ông thì quân lính nó hành hà quá lẽ, ba khám khác là khám đờn bà
thì quân lính hay nới tay chút đỉnh. Cha Trí hồi ấy khéo lo liệu giả dạng đi
bán nước mắm mà viếng thăm, làm phước, ban phép bí tích cho bổn đạo trong ba
khám ấy. Người gánh hai đầu hai tĩnh nước mắm, như vậy quân lính không nghi nan,
nên mới thăm làm phước cho bổn đạo đặng.
Hồi nhà nước Langsa lấy tĩnh
Biên Hòa, khi ấy quan dạy phải chất gai chè nè bố vi bốn cái khám cho tù đạo đừng
trốn đặng, và có ý sâu độc là lấy đó làm bổi mà thiêu sống tù đạo khi nguy hiểm.
-----------------------
ĐIỀU
THỨ BỐN
Nói
về đốt bốn cái ngục 444 người có đạo phải chết thiêu (ngày mồng 7 tháng Janvier
năm 1862)
------------------------
Những người có đạo bị tù
rạc gian truân tân khổ ở đó là hơn ba tháng trời, khi có kẻ đã trốn đặng khỏi
thì báo tin cho nhà nước Langsa hay, nghe vậy thì nổi giận sự độc dữ kẻ nghịch
làm oan ức, giết người vô tội, nên đã dốc lòng xuống lấy tĩnh Bà Rịa.
Ngày mồng 7 tháng Janvier
năm 1862 có ba chiếc tàu chiếc xuống tới sông chỗ có hai ngả (cỏ may), một ngả
vô Bà Rịa, một ngả vô Chợ Bến, có ý đánh cứu người có đạo bị lao tù đó, nên đã
muốn đến gần nơi mấy người theo chỉ là nơi cầm bổn đạo, cái ngả vô Bà Rịa thì
đã rấp ngăn lại vô không đặng nên tàu vô ngã Chợ Bến, mà bỡi nước ròng sát cất
binh lên không đặng, có một toán binh lên đi dọ tới cầu Thủ Lựu là bốn giờ chiều,
đó còn chừng hai ngàn thước nữa thì tới ngục tù đờn ông, mà bỡi quan cai toán binh
ấy thấy có đoàn lũ annam đông lắm xông tới chống cự thì đã thối lui. Lại cũng
là tối rồi phải đợi đến mai mới cất binh đem lên đủ đồ cần.
Các quan annam thấy vọi
chống cự không xuôi, thì thừa dịp gián ra vậy, dạy chất lửa đốt bốn cái khám, tối
đêm ấy thì thấy lửa phát cháy lên theo phía mấy cái khám: thì liền hiểu là đốt
khám, biết mấy người bổn đạo đó đã bị chết thiêu rồi.
Quả thật sáng ngày thì chẳng
còn thấy chi, thấy đống tro cùng những xác cháy mà thôi, nơi khám cầm tù đờn
ông.
Có cha Croc đến sau làm Đức
cha ngoài Bắc, đã theo tàu làm thông ngôn, và có cha Trí đi theo, cha đã ẩn ánh
khỏi cho đến khi ấy, hai cha lo chôn cất hài cốt mấy đấng chịu chết vì đạo ấy
cách xứng đáng, gần bên cái khám thì đã đào ba cái huyệt, cha Croc làm phép xác
rồi thì hạ để mấy hài cốt những đấng ấy xuống đó, là ngày mồng 8 tháng Janvier
1862.
Nhưng vậy chớ cũng có ít
người bổn đạo trong đám đốt thiêu ấy chạy qua lửa mà ra khỏi cũng là sự lạ, nhờ
mấy người ấy thuật lại quân dữ làm thế nào mà đốt ngục, cũng nói tiểu vẽ ra những
sự độc ác quân lính giữ ngục, chúng nó mỗi đứa có giáo mà canh giữ hễ ai chạy
ra thì nó đâm mà xô vô trong lửa, nên ít người mà chạy khỏi đặng, phải chết thiêu
gần hết, trong ba trăm người chạy khỏi đặng chừng lối mười hay là mười hai người,
đời cha Y (P. Errard) năm 1879, còn thấy những kẻ ấy còn sống, còn dấu khắc tự
bốn chữ hai bên má.
Ba cái ngục khác thì là cầm
tù đờn bà và con nít nhơn số đặng 400 người, cũng đều bị đốt một lượt như khám
đờn ông; mà bỡi vì mấy tên đội và quân lính giữ mấy ngục ấy có nhơn, phá cửa ngục
hay là mở cữa, nên bỡi đó nhiều người đã kịp mà chạy ra khỏi, nhưng vậy chớ
cũng có nhiều người đàn bà có con vì bịn rịn con mà chạy không khỏi, con mẹ đều
phải lửa cháy thiêu kể đặng chừng năm mươi người. Ngục tại Long Kiên thì đờn bà
chết nhiều hơn, vì có một tên đội giữ ngục nó tham của bắt nhơn, nó muốn cướp lấy
vòng vàng của mấy đờn bà, nó không cho chạy ra, cho đặng nó lột đồ, nên chạy ra
không kịp phải chết, kể nhơn số những đờn bà trong ba khám mà phải chết thiêu
đó thì là 106 người, nếu kể hết và 50 con trẻ nói trước và 288 người đờn ông
con trai nơi khám Bà Rịa thì nguyên số là 444 mạng con người.
Thuở ấy thì có một đều nầy
đáng nhớ, là bổn đạo đều than trách về sự độc ác quan quân dữ tợn bất nhơn,
nhưng mà khen ngợi những người ngoại đạo xứ Đất Đỏ khéo lo, những kẻ ấy không
theo phe kẻ bắt đạo, có lòng thương xót giúp đỡ những người bổn đạo bị bắt bớ
giấu đút che đậy, có lúc đem về nhà mình mà giấu người có đạo cho khỏi tay quan
quân bắt, nuôi dưỡng cho ăn, giúp tiền bạc đều cần dùng nên dễ hiểu sao mà cha
Trí ở lại trong họ đặng trong lúc cấm kín bắt bớ vậy mà quan quân chẳng hay chẳng
biết.
-------------------------
ĐIỀU
THỨ NĂM
Nói
về một ít tháng bình an.
-------------------------
Quan quân khi ấy rút đi
khỏi Bà Rịa đem nhau trú tựu tại rừng trên Thôm làm đồn lũy mà ở đó, thì may
Langsa đã hay mà phá hủy tuyệt, nên đã đặng yên nhằm cuối tháng Mars năm 1862.
Khi ấy bổn đạo kẻ đi xứ nầy người đi chỗ kia tản lạc, thì rủ nhau đề huề thê tử
gia thất về làng chỗ mình ở xưa mà lập nghiệp lại, bỏ mà đi kể là hơn sáu tháng
có dư.
Khi ấy cha Hiển ở tại Bà
Rịa với cha Trí, cha Hiển thì trở xuống Đất Đổ mà gây dựng họ lại, cha Trí thì ở
lại tại Bà Rịa cùng những bổn đạo họ Thành và mấy họ khác mà trở về họ mình
không đặng.
Ở tại họ Đất Đỏ khi ấy
không còn nhà thờ, có bà vợ ông hộ Của, ông đã chết thiêu trong ngục, bả dưng
cái nhà của bả để làm nhà thờ, cho bổn đạo đọc kinh xem lễ mấy tháng bình yên
đó.
Khi ấy bổn đạo nhơn số
thì bớt nhiều lắm, vì hồi chạy lên trú tại Bà Rịa đó thì bị bịnh thiên thời, lớn
nhỏ gì chết hết nhiều, bỡi đó bổn đạo tản tác đi chỗ nầy xứ kia; còn những đàn
bà con nít ở trong ngục mà chạy ra đặng thì phải lửa cháy phải bịnh hoạn; nhiều
người mồ côi chết cha chết mẹ bơ vơ không nơi nương dựa phải lên Saigon; tốp
thì vào nhà thương điều trị thuốc thang, tốp thì vào nhà mồ côi bà phước; rồi
đó ít người trở về xứ đặng, nên nhơn số bổn đạo sở Bà Rịa bớt hết nhiều, còn lại
có 1500 người, rồi kế bắt đạo lại nữa, dầu cơn bất đạo không bao lâu mà thật là
dữ tợn lắm.
---------------------
ĐIỂU
THỨ SÁU
Nói
về bổn đạo phải chịu chém giết lần khác nữa.
--------------------
Một đoàn quan quân không
chịu thua, nó trở lại mà trả thù lần trước đó và bắt bớ bổn đạo.
Cuối năm 1862, nổi giặc một
lần nữa, bổn đạo phải bỏ cữa nhà mà chạy trốn.
Ban đầu giặc tới họ Gò Sằm
trước vì họ nầy ở xa Bà Rịa hơn hết, nó bắt đặng hai mươi người bổn đạo đờn ông
đờn bà thình lình đang có gặt lúa; bắt rồi nó dẫn ra tại cầu suối Xích Răm, hay
là Sông Rai, nó trói buộc hai người vô một mà xô xuống sông, nên phô kẻ ấy chết
chìm hết, sót lại một đứa nhỏ nên mười hai tuổi, khi ấy sổ trói ra nên nó trốn
đặng. (cách ít ngày bổn đạo lén đi tìm kiếm xác mấy người chết chìm ấy thì
đã gặp đặng 15 cái xác và đã mai táng trong một huyệt chung, bây giờ hãy còn tại
Gò Sằm, bổn đạo còn giữ tử tế). Nhờ thằng nhỏ ấy xuống họ Đất Đỏ báo tin
cho bổn đạo, khi ấy đương lo làm ăn không dè cơn bắt bớ như vậy, bấy giờ mới
thông tin cho nhau hay phải lo mà chạy trốn, phải mà chạy lên Bà Rịa thì khỏi
chết, mà bỡi kể chắc chạy vào rừng thì khỏi nên rủ nhau chạy vào rừng, bỡi đó
giặc nó theo tìm bắt như đi săn loài vật, nên phải tay quân nghịch nó bắt đặng
mà giết gần hết.
Còn họ Thôm thì cũng phải
chết nhiều, quân dữ nó giết bổn đạo họ Thôm mà cách dữ tợn quá, hễ nó bắt đặng
bổn đạo thì nó quăng sống xuống giếng, mà phải biết giếng xứ ấy thì sâu lắm, chừng
tám chín thước tây.
Có một người đờn bà chừng
21 tuổi bị bỏ xuống giếng như vậy mà khỏi chết, cũng như là phép lạ, nó ở dưới
giếng như vậy ngồi trên xác mấy người chết đà thúi rồi, không ăn uống đã hơn một
tuần lễ, có một người đi ngang qua gần đó, nghe tiếng than khóc thì bước lại gần
và đã cứu mà đem lên khỏi giếng, người đờn bà nầy đà mỏn sức gần chết, khỏi một
ít ngày đờn bà nầy bị bắt lại và phải bị bỏ xuống giếng một lần nữa, lần thứ
hai nầy ở dưới giếng chịu cực khổ như vậy hết bốn ngày, rồi sau cũng nhờ người
ta đem lên đặng; đàn bà nầy còn sống hồi cha Y (P. Errard) viết tích bắt đạo nầy,
thì đờn bà ấy có ra mà khai chuyện mình. Cơn bất đạo lần thứ hai nầy thì không
tới một tháng, bổn đạo phải chịu chết vì đạo gần hai trăm người.
Hồi đó sau lấy sổ bổn đạo
lại thì nhơn số bổn đạo còn không tới 1200, mà nhơn số bổn đạo hồi trước cơn bắt
đạo thì là 2300 người.
------------------------
ĐOẠN
THỨ BA
Nói
về Địa sở Bà Rịa hồi mới khỏi cơn bắt đạo.
------------------------
Kể từ năm 1863, Bà Rịa (họ
Dinh) trở nên là họ chánh địa sở, vì hồi bắt đạo thì bổn đạo các họ xung quanh
trốn tựu về Bà Rịa mà ở đông, đến sau hết cơn bắt đạo, thì bổn đạo nhát sợ hồ
nghi không dám trở về xứ sở mình, nên đã lập cơ nghiệp ở đó cho gần người
Langsa, cho khỏi tay kẻ nghịch bắt bớ nữa.
Trong năm 1863 có cha Huởn
(P. Fontaine) đến nhậm sở Bà Rịa thế cho cha Trí, người làm việc chung với cha Hiển,
sau ít lâu cha Hiển đổi thì có cha Công thế lại.
Qua năm 1863 hay là 1864
thì Đức cha Đôminicô (Mgr. Lefebvre) có làm phép Xức Trán tại nhà thờ nhỏ hồi
đó ở tại chỗ có chợ bây giờ.
Qua năm 1864 cha Huởn đổi
đi sở Biên Hòa còn có một mình cho Công coi cả địa sờ, người làm việc không nổi
nên Đức cha Gioang (Mgr. Miche) đặt cha Y (P. Errard) coi họ Bà Rịa nhằm tháng Octobre
1865, hồi đó bổn đạo còn ở tại Bà Rịa gần hết, nên dễ làm việc, mà bỡi có nhà
thương lính có người bịnh tới 40 người, có bà phước dòng ông thánh Phaolồ giúp
bịnh nên thêm việc.
Khi cha Y đến thì người
lo cấm phòng cho bổn đạo; qua năm sau người lấy sổ những bổn đạo đã phải chết
vì đạo trong mấy ngục, những người phải chịu chém giết bỏ xuống sông chết chìm
mấy năm trước như đã có kể tích trước, hài cốt những người bị thiêu sống trong
ngục, thì đã chôn trong ba cái huyệt riêng nhau. Cha khi ấy lấy hài cốt mấy đấng
ấy lên mà chôn vào một huyệt làm mả lại bằng gạch ở giữa nơi trước là cái ngục
để cầm đờn ông đó.
Đến sau nhằm năm 1876 cha
đã làm một cái nhà thờ tạm nhỏ tại chỗ ấy, ở giữa nhà thờ thì có cái mồ những đấng
tử vì đạo ấy, cẩn đá cẩm thạch, có thích mấy câu chữ Latinh như sau nầy:
I.
Phía trên đầu: Beati qui persecutionem
patiuntur propterjustitiam.
II.
Phía dưới chơn: Thôm-Đất Đỏ -Thành-Phước
Dinh Hội.
III.
Phía bên hữu : Hic in spe resurrectionis.
Jacent
christiani circiter CCC,
Qui
pro fide incacerati,
Per
III menses passi,
Tandem
igne perierunt,
Et
in loco passionis sepulti sunt.
Die
VIII Januarii MDCCCLXII
IIII. Phía bên tả : Ba
trăm bổn đạo xác nằm đây.
Những
trong sống lại hưởng phước đầy,
Vì
Chúa tù lao dư ba tháng,
Cam
lòng chịu cháy chết chỗ nầy;
Lập
mồ táng chung vào một huyệt,
Giáo
hữu coi đó nhớ hằng ngày
Có làm cái bàn thờ sau
cái mồ mỗi tháng có làm lễ một lần.
Tại họ Dinh thì xưa có chôn
hai cha, một cha thì lâu lắm là cha trước hết đã ở đó, những người bổn đạo cố cựu
cũng không biết tên mà nói cho cha Y; phải là một cha dòng, vì hồi lấy cốt thì
có gặp trong hòm một đồ đánh tội còn nguyên, có cái chén thánh, có cái hộp nhỏ
đem Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt (custode). Kế mả đó thì có cái mả cha Thiền,
khi người phải di đày vì đạo Chúa, người qua tới Bà Rịa thì người chết tại đó
là năm 1856. Cha đã lấy cốt hai cái mả cả hai cha đó mà chôn lại một huyệt, làm
một mà dưới chơn bàn thờ, nghĩa là trên thì là cái bàn thờ, dưới là cái mồ tử đạo ở giữa là cái mả hai cha ấy.
Đất xung quanh nhà thờ đó
xưa là cái vòng rào ngục tù đờn ông thì bây giờ lấy làm đất thánh họ Bà Rịa.
Hết
phần thứ nhứt
KỂ
LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ
ĐỊA
PHẬN NAM KỲ
--------------------------
ĐỊA
SỞ HỌ BÀ RỊA
--------------------------
PHẦN
THỨ HAI
Nói
về địa sở Bà Rịa từ hồi thới bình việc đạo trong Nam Kỳ
---------------------------
ĐOẠN
THỨ NHỨT
Nói
về những họ Bà Rịa, Thành, Phước Tĩnh, Thánh Thất (Châu Pha)
1866
- 1917.
---------------------------
ĐIỀU
THỨ NHỨT
Nói
về khởi sự lập họ Bà Rịa lại làm họ chánh trong địa sở
----------------------------
Ta nói lại đây cho có thứ
lớp, vì trong phần thứ nhứt ta bỏ qua, mặc nói về cơn bắt đạo và những người chịu
tử vì đạo.
Năm 1866 đem cái nhà cha
sở ở về chỗ bây giờ, hồi trước nó ở tại chợ Bà Rịa.
Có thầy thông ngôn nhà nước
tên là Petrus Tạo có dưng cho nhà thờ một miếng đất ruộng gần nhà thờ cũ, thì
cha Y đã dời nhà cha sở về đó rồi lập cái nhà thờ nhỏ đó dưng cho Đức Mẹ, làm
nhà thờ cho bổn đạo nhóm đọc kinh xem lễ ngày hàng trong tuần lễ, còn ngày Chúa
nhựt thì đọc kinh xem lễ tại nhà thờ nơi chợ.
Qua năm 1867 Đức cha
Gioang (Mgr. Miche) ban phép Xức trán tại Bà Rịa, rồi cho cha Lành (P. de
Kerlan) là cha ở bên tây mới qua ở tùng cha Y; cha nầy lo riêng về nhà thương
lính, mà học tiếng annam.
Qua tháng Avril năm 1868
Đức cha Gioang dạy cha Y xuống Đất Đỏ coi riêng họ ấy và họ Thôm để cho cha
Lành coi họ Bà Rịa một mình, thay ở coi họ trong địa sở cho đến năm 1870, thì
người mới đổi đi sở Biên Hòa. Lúc đó cha Lành cũng đổi, cha Thiện (P. Oscar de
Noioberne) thế ở tại Bà Rịa cho đến năm 1874.
Sau cha Y lại đổi lộn về
đó mà coi cả địa sở Bà Rịa thì có cha Chiêu (P. Chedal) ở phụ giúp, cha nầy phụ
giúp đặng một năm, thì có cha Nhu thế, năm 1874 hay là 1875, sau cha Cao (P.
Legrand) đổi đi chỗ khác thì cha Nhu ở coi họ Đất Đỏ và mấy họ khác xung quanh.
Năm 1874 có Đức cha
Puginier ở Hà Nội (Tonkin occidental) đi qua ghé địa phận ta, người đã ban phép
Xức trán cho bổn đạo trong địa sở Bà Rịa. Kế, năm sau cha Y phải đi qua Hồng
Kông ít tháng thì có cha Liễu (P. Lallement) bên tây mới qua xuống thế là năm
1876.
Khi cha Y đi Hồng Kông về
thì người đi làm cái mồ mấy đấng bị thiêu vì đạo trong cơn bắt đạo, và làm cái
nhà thờ nhỏ như ta đã nói trong phần thứ nhứt.
Tháng Septembre năm 1876
có rao toàn xá Jubile thì có cha Minh (P. Montmayeur) giảng cấm phòng và cha Sâm
lớn, có mấy cha ngồi tòa làm phước là cha Định (P. Delpech) cha Lành (P. de
Kerlan) của Phi (P. Raimbaud) cha Báu (E. Leprince) và cha Dư. Cha Y học lại
người nói khi ấy nhơn dịp toàn xá thật cũng là như cái roi đánh thức bổn đạo dậy,
nhiều người nhờ dịp ấy mà trở lại lo việc phần rỗi mình.
----------------------
ĐIỂU
THỨ HAI
Nói
về sự lập nhà thờ (1877-1879)
----------------------
Năm 1877 có cha Thiết (P.
Boutier) xuống thế cho cha Nhu, người ở địa sở cho đến năm 1879.
Năm 1877 thì đã toan định
làm nhà thờ mới: nhơn dịp có mớ đá đã lấy trên núi Bà Rịa, Nhà nước tính làm
nhà thương mà không dùng đá ấy, Nhà nước dưng cho Đức cha Mỹ (Mgr. Colombert),
thì Đức cha lãnh, cha Y lo qui góp đá gạch súc gỗ những đồ cần.
Còn cha Thiết thì lo vẽ hoạ
đồ. Cha nầy còn thanh niên mới qua thì khởi sự làm nhà thờ Bà Rịa trổ tài nghề
biết cuộc làm nhà cữa, sau nầy đã giúp địa phận nhiều.
Đã đặt viên đá thứ nhứt
nhà thờ mới nầy là nhằm ngày 21 Novombre, 1ễ Đ C Bà phú mình vào đền thánh.
Bổn đạo tỏ ra lòng sốt sắng
lo việc nhà thờ không tiếc công không tiếc của.
Khỏi sáu tháng là nhà thờ
đã lợp rồi nhằm tháng Octobre năm 1878, và khỉ sự đọc kinh làm lễ đặng trong
nhà thờ mới. Phong tô mặt tiền và vách tường bề ngoài thì là nhằm tháng Mars
1879; hoàn thành rồi là nhằm tháng Mai. Vậy ngày 14 Mai năm 1879 thì Đức cha Mỹ
và Đức cha địa phận Huế, là Đức cha Ponviane, xuống làm phép nhà thờ mới, là lễ
trọng cả thể trong họ Bà Rịa: có các viên quan tới chầu lễ cũng có các cha dòng,
là cha Linh (P. Moulins) cha Ngôn (P. Louvet) cha Liễu (P. Lallement) cha Mão
(P. Mossard) cha Nhi, cha Tuyết, cha Dược, cha Y (P. Errard) cha Thiết (P.
Boutier).
Làm phép nhà thờ mới rồi
cũng ban phép Xức trán cho bổn đạo. Nhà thờ mới dưng cho hai thánh tông đồ là
ông thánh Philipphê và ông thánh Giacôbê.
--------------------------
ĐIỂU
THỨ BA
Nói
về mấy năm sau hết cha Y ở Bà Rịa. Các cha tiếp theo cho
tới
cha Hiền lập họ Thánh Thất
---------------------------
Làm phép nhà thờ mới rồi,
khi ấy cha Thiết ở Đất Đỏ đặng một năm, rồi kế đổi đi chỗ khác, cha Sanh (P.
Colson) thế ở tại Đất Đỏ, cha Nhiệm (P. Creusat) cũng đổi, còn lại có một mình
cha Y coi họ Bà Rịa họ Thành và Vũng Tàu (Cap St-Jacques), khi ấy mới có ít nhà
bổn đạo ở đó mà thôi.
Năm 1879 Đức thánh Pha pha
Lêô XIII lên quờn thì có toàn xá Jubile, khi ấy có cha Minh (P. Montmayeur) cha
Phi (P. Raimbaut) đi giảng, có cha Hòa (P. Greset) cha Thiết (P. Boutier) làm
phước, thừa dịp ấy có dựng đàng thánh giá của bên nhà cha Y gởi cho họ.
Họ Bà Rịa có hai trường học,
trường nam trường nữ; trường nam có thầy giáo dạy, trường nữ có dì phước Thủ
Thiêm dạy, có hồi năm 1877, có lập họ Môi Khôi năm 1878 có chừng 100 người vào
họ ấy.
Năm 1887 cha Y đổi về Chợ
Quán, lần nầy đi dứt không trở lại Bà Rịa nữa; cha về ở Chợ Quán thì cũng lo
làm nhà thờ. Cha Thọ (P. Cagnon) đổi lại ở Bà Rịa.
Đời cha Thọ ở tại Bà Rịa
đặng ba năm, người có mua đặng ba cái chuông cho họ và lập lại cái nhà thờ đất
thánh đã gần hư, qua năm 1890 người lâm bịnh phải về bên tây không qua lại nữa.
Đầu tháng Mars năm 1890 cha
Nghi (P. Martin) đổi lại Bà Rịa thế cho cha Thọ.
Đời cha Nghi, người lo
làm cho rồi nhà thờ đất thánh và làm nhà cha sở ở còn bây giờ đó, người có làm
một cái nhà lá tại Phước Tĩnh, tính lập họ góp mấy nhà có đạo lại.
Qua năm 1893 cha Nghi phải
bịnh nên về tây, ở lại bển hết 18 tháng, hồi ấy thì có cha Lương (P. Lambert)
thế đó; bổn đạo còn nhớ cha nầy lắm.
Cha Nghi đi bên tây trở về
nhằm năm 1894 tháng Décembre xuống lãnh sở Bà Rịa lại, năm 1896 nhằm tháng Mai
có bà phước hội ông thánh Phaolồ xuống Bà Rịa lập nhà thương và dạy trường nữ,
rồi qua năm 1910 thì bà phước lãnh dạy luôn hai trường nam nữ, kế bãi nhà
thương cho tới bây giờ.
Qua năm 1896 tháng
Décembre cha Nghi đổi về Saigon coi nhà mồ côi (Ste Enfa nee) thì có cha Hiền
(P. Favier) xuống thế.
Cha Hiền thấy nhiều người
trong bổn đạo không có công chuyện làm, phải đi làm thuê làm mướn nơi nầy nơi
kia xa, rồi ra trễ nải lần lần, nên cha đã kiếm việc cho bổn đạo làm. Người có
mua sở vườn trồng tiêu ở cách xa Bà Rịa một đỗi, theo đàng đi Long Kiên; song bỡi
bổn đạo không muốn ở đó vì đó không có ruộng mà làm, lại với bổn đạo làm mướn
thì đòi tiền mắt quá; nên khỏi ba năm thì cha liền bán sở tiêu ấy lại cho bà
phước hội ông thánh Phaolồ đặng lập nhà mồ côi.
(…)
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1917 - 1918