ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2021

Đôi điều về Gia Định báo, tờ báo Việt ngữ đầu tiên của Việt Nam

 ĐÔI ĐIỀU VỀ GIA ĐỊNH BÁO,

TỜ BÁO VIỆT NGỮ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM

(Tham luận trình bày tại cuộc hội thảo kỷ niệm 140 năm ngày ra đời của Gia Định Báo do trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM tổ chức vào tháng 12.2005).

I) GIA ĐỊNH BÁO TRONG BỐI CẢNH XÃ HỘI NHỮNG NĂM ĐẦU THẬP NIÊN 1860

Trong lịch sử báo chí Việt Nam, ít có tờ báo nào chứa đựng khá nhiều điều mâu thuẫn và mơ hồ như Gia Định Báo, từ văn kiện cho ra đời tờ báo, ngày phát hành số báo đầu tiên, những nhân vật tiếp nối nhau quản lý tờ báo, đến ngày chính thức đình bản tờ báo. Số lượng báo còn lưu trữ tại Việt Nam không nhiều, nhất là mất hẳn những số báo đầu tiên, và tình trạng thiếu thốn tư liệu khiến cho trong một thời gian dài, Gia Định Báo là một thách thức lớn đối với các nhà nghiên cứu. Để hiểu rõ về phương tiện thông tin này, tưởng cũng cần điểm lại bối cảnh những năm đầu thập niên 1860, khi thực dân Pháp ra sức xây dựng một thuộc địa còn mới mẻ trên bán đảo Đông Dương.

Có thể nói trong thời kỳ đầu tiên của chế độ thuộc địa Pháp tại Nam kỳ, một trong những công cụ được sử dụng sớm nhất là báo chí. Đầu năm 1862, khi hòa ước Nhâm Tuất (5.6.1862) công nhận quyền thống trị của Pháp tại Sài Gòn và ba tỉnh miền Đông Nam kỳ chưa ra đời, họ đã phát hành tờ công báo bằng tiếng Pháp đầu tiên có tên Bulletin officiel de l’expédition de Cochinchine (Nam kỳ viễn chinh công báo: BOEC). Trang đầu của tờ báo nêu rõ:”Tờ Nam kỳ viễn chinh công báo đăng những văn kiện chính của ông Tổng tư lệnh sẽ phát hành mỗi tuần một lần; nó bao gồm các nghị định, quyết định và thông cáo có liên quan đến các giới chức dân sự và quân sự và cư dân nước ngoài thuộc lục địa châu Á sống tại Nam kỳ, trong những tỉnh đặt dưới thẩm quyền của nước Pháp.

Các quảng cáo và lời rao thương mại được đăng ở một trang riêng kèm theo tờ công báo….”

Cuối trang, chính quyền thực dân cũng thông báo cả việc phát hành song hành một tờ Bulletin des Communes (Tập san hàng xã) in bằng chữ Hoa, cũng với những mục đích tương tự.

Tờ BOEC có khổ 14 cm x 21,5 cm, đăng hầu hết những văn kiện lập qui (nghị định, quyết định) cùng quân lệnh của viên Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Nam kỳ.

Văn kiện đầu tiên đăng trên tờ công báo này là thông báo số 1 ngày 29.11.1861 nêu việc Phó Đô đốc (Vice-Amiral, Trung tướng Hải quân) Charner bàn giao quyền hành lại cho Đề đốc (Contre-Amiral, Thiếu tướng Hải quân) Bonard. Tờ báo tồn tại một năm rưởi, không phải kéo dài đến năm 1888 như có tài liệu đã nhầm lẫn. Đầu tháng 7.1863, nó được thay thế bằng tờ Bulletin officiel de la Cochinchine française (Công báo Nam kỳ thuộc Pháp: BOCF), với nội dung và hình thức hầu như không có gì thay đổi.

Năm 1888, tờ BOCF được sáp nhập vào tờ Bulletin officiel de l’Indo-chine française (Công báo Đông Pháp: BOIF), trở thành phần thứ nhất (première partie: Cochinchine-Cambodge) của tờ công báo này. Đến năm 1902, nó lại được tách ra khỏi tờ BOIF và trở lại là một tờ báo riêng của Nam kỳ với cái tên mới: Bulletin administratif de la Cochinchine (Tập san hành chánh Nam kỳ: BAC).

Ngày 1.1.1864, Pháp lại cho ra đời tờ Courrier de Saigon (Tây Cống nhật báo). Báo ra nửa tháng một kỳ, nội dung gần gủi với báo chí đời thường hơn, vì ngoài phần công vụ, còn có các mục nghị luận, khảo cứu, quảng cáo…

Cũng trong năm 1864, một cơ quan quan trọng được thành lập có tên là Direction de l’Intérieur (Nha Nội vụ), ngôn ngữ thời đó gọi là Dinh Thượng thơ hay Dinh Hiệp lý. Viên chức đứng đầu cơ quan này (Directeur de l’Intérieur: Giám đốc Nội vụ) thường được báo chí thời đó gọi là quan Lại Bộ thượng thơ, có quyền hạn bao trùm bộ máy cai trị đương thời.

Ngày 7.12.1865, Thống đốc De La Grandière ký nghị định cho ra đời tờ Bulletin de la Direction de l’Intérieur (Tập san Nha Nội vụ - BDI), cũng có chức năng như tờ BOCF, nhưng trong một tầm mức hạn hẹp hơn, chủ yếu đăng những quyết định, thông báo của Giám Đốc Nha Nội vụ nhằm phổ biến cho bộ máy hành chánh trong phạm vi thẩm quyền để thi hành.

Cần trình bày dài dòng như trên để thấy rằng chỉ trong chưa đầy 5 năm nắm quyền thống trị phân nửa lãnh thổ Nam kỳ, sau khi cho ra đời đủ loại báo bằng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Hoa, việc thực dân Pháp phát hành một tờ báo bằng chữ quốc ngữ là một biện pháp tất yếu nhằm kiện toàn bộ máy cai trị của họ. Và Gia Định Báo đã góp mặt vào sinh hoạt báo chí những năm đầu Pháp thuộc trong bối cảnh như thế.

II) GIA ĐỊNH BÁO VÀ NHỮNG ĐIỂM CẦN LÀM SÁNG TỎ

Căn cứ vào nội dung Gia Định Báo những năm đầu tiên, ta thấy chúng chủ yếu là bản dịch có chọn lọc của tờ công báo BOCF. Đến ngày 16.9.1869, Thống Đốc Nam Kỳ G. Ohier đã ký quyết định số 189 (*) bổ nhiệm cụ Trương Vĩnh Ký phụ trách biên tập tờ Gia Định báo. Toàn văn văn kiện này được (LN) tạm dịch như sau:

Quyết định:

Kể từ hôm nay, việc biên tập tờ Gia Định Báo được giao phó cho ông Pétrus Trương Vĩnh Ký, người với tư cách là chánh tổng tài của tờ này, sẽ được lãnh một khoản lương hàng năm là 3000 đồng quan Pháp.

Tờ báo tiếp tục ra mỗi tuần.

Nó sẽ được chia ra làm hai phần: một phần chính thức gồm các văn kiện, quyết định của ông Thống Đốc và nhà cầm quyền với tài liệu bằng tiếng Pháp do Nha Nội vụ cung cấp và được ông Trương Vĩnh Ký dịch ra chữ quốc ngữ; phần khác, không chính thức, sẽ gồm có những bài viết bổ ích và vui về những đề tài lịch sử, những sự kiện về luân lý, thời sự ….v..v...để có thể đọc được trong các trường học bản xứ và khiến cho công chúng Việt Nam quan tâm đến.

Trước khi phát hành, việc trao đổi sẽ thực hiện tại Nha Nội vụ.

Giám Đốc Nha Nội vụ lãnh thi hành quyết định này; quyết định sẽ được vào sổ và phổ biến ở những nơi xét thấy cần thiết “

Từ thời điểm này, tờ báo có những thay đổi quan trọng, mở đầu với lời kêu gọi của Chánh tổng tài (từ ngữ dùng để chỉ trưởng ban biên tập hay chủ bút thời đó) Trương Vĩnh Ký trên tờ Gia Định báo số 11 phát hành ngày 8.4.1870:

Lời cùng các thầy thông ngôn, ký lục, giáo tập vân vân đặng hay:

Nay việc làm Gia Định Báo tại Sài Gòn, ở một chỗ, nên không có lẽ mà biết các việc mới lạ các nơi trong 6 tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy cứ mỗi tuần hay nửa tháng phải viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ mình ở, như:

Ăn cướp, ăn trộm,

Bệnh hoạn, tai nạn.

Sự rủi ro, hùm tha, sấu bắt.

Cháy chợ, cháy nhà; mùa màng thể nào.

Tại sở nghề nào thạnh hơn vân vân

Nói tắt một lời là những chuyện mới lạ, đem vô nhựt trình cho người ta biết, viết rồi thì phải đề mà gởi về cho Gia Định Báo Chánh tổng tài ở Chợ quán…”

Có thể nói từ thập niên 1870, ngoài phần dịch các văn kiện hành chánh của Soái phủ Nam kỳ, Gia Định Báo đã đi vào sinh hoạt đời thường với những mẩu tin do nhiều nguồn cung cấp nhằm phản ánh cho người đọc những chuyển biến trong cuộc sống. Xin đơn cử mẩu tin sau trong số báo phát hành ngày 8.3.1870:

…Có một người tên là Thiện, nhà ở gần chợ Hốc môn. Tối 12 tháng giêng nầy người ấy xuống ghe mà ngủ, còn vợ con thì để ngủ ở nhà. Vừa đặng một hồi kế lửa phát lên, thíếm (sic) Thiện chạy ra la, làng xóm chạy đến, khuân đồ giùm đặng phân nửa, rồi nhà cháy trụm đi, chú Thiện có tật điếc, vợ kêu, la làng trốc trôn lồi đít, làng xóm khuân đồ tở mở, lửa cháy đùng đùng, mà cho lọt vào tai va thì nhà cửa, tài vật đã ra tro rồi…”

Đến thập niên 1880, với sự cộng tác thường xuyên của Thế Tải Trương Minh Ký, một trong những học trò xuất sắc của học giả Trương Vĩnh Ký, và Ernest Potteaux, nguyên Chánh tổng tài Gia Định Báo, trong mục“Thứ vụ” ở phần cuối tờ báo, người ta đọc thấy những câu chuyện ngụ ngôn dịch từ truyện nước ngoài và các vấn đề thường thức về khoa học còn khá mới lạ đối với cư dân Nam kỳ thời đó. Những năm 1890, Trương Minh Ký tiến thêm một bước nữa qua việc chuyển nhiều tác phẩm cổ bằng chữ nôm ra chữ quốc ngữ như Lục súc tranh công (1891), Nhị thập tứ hiếu (1896), Đại Nam quốc sử diễn ca (1897)….(Bằng Giang – Văn học quốc ngữ ở Nam kỳ 1865-1930 – NXB Trẻ – 1998 – trang 122-123).

Trong suốt một thời gian dài, tờ báo đã gợi lên nhiều dấu hỏi liên quan đến một số vấn đề làm đau đầu giới nghiên cứu. Có thể tóm lược những vấn đề chính sau đây cần làm sáng tỏ quanh tờ báo Việt ngữ đầu tiên ở nước ta:

* Văn kiện cho ra đời tờ báo?

Như đã trình bày ở phần trên, từ đầu năm 1862, thực dân Pháp đã cho phát hành công báo để phổ biến các văn kiện lập qui (nghị định, quyết định), các bố cáo, lời rao cần thiết nhằm hoàn thiện chính sách cai trị còn mới mẻ trên vùng đất Nam kỳ. Hầu như tất cả những văn kiện đó đều được đăng trong công báo Pháp. Thế nhưng nhà ngữ học Lê Ngọc Trụ, và bản thân chúng tôi, đã có dịp giở từng trang công báo BOCF năm 1865 mà không hề thấy có một văn kiện nào cho ra đời tờ báo. Văn kiện lập qui đầu tiên đề cập đến Gia Định Báo mà chúng tôi tìm thấy là quyết định số 51 ngày 18.3.1869 với tiêu đề “Quyết định về việc tờ Gia Định Báo sẽ ra mỗi ngày thứ hai, và ông Potteaux, người biên tập của tờ báo này sẽ nhận được một khoản phụ cấp là 1.200 đồng quan Pháp mỗi năm”. Điều 1 quyết định nêu rõ tờ Gia Định Báo sẽ phát hành vào mỗi ngày thứ hai hàng tuần kể từ ngày 1.4.1869.

Căn cứ vào đó, có thể xác định hai điều:

Một là từ tháng 4.1869, Gia Định Báo đã là một tờ tuần báo. Chi tiết này cho thấy sự nhầm lẫn của một số tư liệu nghiên cứu khi xác định vào thời điểm trên, Gia Định Báo ra hai hoặc ba kỳ mỗi tháng.

Hai là cho đến lúc này, chưa ai tìm thấy một văn kiện chính thức nào qui định việc phát hành Gia Định Báo vào năm 1865. Nếu có thì theo thông lệ hành chánh, các văn kiện ban hành về sau liên quan đến nhân sự hay điều hành tờ báo đều phải tham chiếu hay viện dẫn văn kiện căn bản cho ra đời tờ báo.

* Ngày phát hành số báo đầu tiên

Chi tiết này cũng gây sự hoang mang cho giới nghiên cứu trong một thời gian dài. Vào thập niên 1940, học giả Đào Trinh Nhất trong bài “Thử tìm long mạch của tờ báo ta” đăng trên tờ Trung Bắc chủ nhật (1942) cho rằng số Gia Định Báo đầu tiên phát hành năm 1867. Một số tác giả khác cho là ngày 1.4.1865, nhưng không ai viện dẫn được một chứng cứ cụ thể nào về thời điểm có liên quan.

Điều này cũng dễ hiểu, vì ngay từ thập niên 1960, tại Thư viện quốc gia, Sài Gòn (nay là Thư viện tổng hợp TP HCM) chỉ còn lưu trữ các số báo từ thập niên 1880 trở đi, căn cứ vào dòng chữ in “năm thứ 16” trên trang đầu một số báo phát hành năm 1880, nhiều người trừ lùi thời gian lại để có con số 1865.

Đến nay, thời điểm được hầu hết nhà nghiên cứu chấp nhận về sự ra đời số Gia Định Báo đầu tiên là ngày 15.4.1865, căn cứ vào chứng liệu duy nhất tìm thấy là một văn thư đề ngày 9.5.1865 do Thống đốc Nam Kỳ G. Roze gửi cho Bộ trưởng bộ Hải quân và thuộc địa Pháp, trong đó có nhắc đến việc tờ Gia Định Báo “phát hành vào ngày 15 tháng 4 vừa qua…” (Huỳnh Văn Tòng – Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945 – NXB Thành phố Hồ Chí Minh – trang 59-60). Tác giả Huỳnh Văn Tòng cũng tìm thấy tờ Gia Định Báo số 4 phát hành ngày 15.7.1865 tại Trường Sinh ngữ Đông phương, Paris (Pháp); điều này đã phủ nhận thời điểm do học giả Đào Trinh Nhất đưa ra (1867) vào năm 1942.

* Gia Định báo tồn tại trong bao lâu ?

Trong các tài liệu nghiên cứu phổ biến trước năm 1974, chi tiết này hoặc dựa vào sự suy đoán hoặc không được đề cập đến. Căn cứ vào những số báo còn lưu trữ tại Thư viện và năm mất của học giả Trương Vĩnh Ký, một vài tác giả, trong đó có nhà báo Nguyễn Ngu Í trên tạp chí Bách Khoa số 217 phát hành vào tháng 1.1966, đã suy đoán là tờ báo đình bản vào năm 1897. Tập “Mục lục báo chí Việt ngữ trong 100 năm (1865-1965)” của Lê Ngọc Trụ cũng ghi thời gian tồn tại của Gia Định Báo là 1865-1897. Đến thập niên 1970, các số Gia Định Báo phát hành năm 1909 do tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng (sách đã dẫn) tìm được tại Pháp đã gián tiếp phủ nhận những suy đoán sai lạc trên.

Tháng 10.1974, trên giai phẩm Bách Khoa (**) số 416 (trang 73-74), chúng tôi có dịp công bố lần đầu tiên một chi tiết tìm thấy trong một văn kiện in trên tờ Tập san hành chánh Nam kỳ (BAC) năm 1909, trang 3464. Đó là nghị định ngày 21.9.1909 của Thống Đốc Nam kỳ Gourbeil ấn định ngày chính thức đình bản tờ Gia Định Báo là 1.1.1910. Như vậy, có thể xác định thời gian tồn tại của Gia Định Báo là trên 44 năm (15.4.1865 – 31.12.1909) và những số liệu này không còn gì phải tranh cãi nữa.

* Bộ máy quản lý Gia Định báo

Cho đến nay, trong các tài liệu nghiên cứu đã được công bố, vẫn còn nhiều điểm mơ hồ và mâu thuẫn nhau liên quan đến thành phần nhân sự chịu trách nhiệm quản lý tờ Gia Định Báo. Đa số các tác giả đều khẳng định sự đóng góp tích cực của ít nhất ba cây bút người Việt trong việc sắp xếp nội dung, dịch các văn kiện hành chánh của Soái phủ Nam kỳ và biên soạn các bài viết nhằm phục vụ cho nhu cầu hiểu biết và giải trí của người dân bản xứ. Đó là Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký, Thế Tải Trương Minh Ký và Paulus Huỳnh Tịnh Của. Song nhiều vấn nạn đặt ra chưa tìm được lời giải đáp thỏa đáng, tiêu biểu là thời gian học giả Trương Vĩnh Ký giữ trách nhiệm Chánh tổng tài kéo dài bao lâu (kể từ ngày 16.9.1869) và ai là người kế tục cụ trong cương vị này. Nhiều tác giả cho rằng người đó là Huỳnh Tịnh Của, nhưng không cung cấp được một tư liệu khả tín nào, cũng như không xác định được những mốc thời gian cụ thể liên quan đến việc này.

* Tác giả Đoàn Thị Đỗ trong “Le Journal au Vietnam et les périodiques vietnamiens de 1865 à 1944” (Paris – 1958) xác định người kế nhiệm Trương Vĩnh Ký chính là Huỳnh Tịnh Của (Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945- Sđd – trang 60). Tác giả Nguyễn Q. Thắng trong “Tiến trình văn nghệ miền Nam” (NXB Văn Học-1998) cũng khẳng định “…đến khi Trương Vĩnh Kí (sic) mất, Huình Tịnh Của (1834-1907) được cử làm chủ bút.” (trang 264).

* Theo tác giả Huỳnh Ái Tông (dẫn trên), từ năm 1872, một người Pháp tên J. Bonet được cử làm Chánh tổng tài Gia Định Báo. Chi tiết này xem ra phù hợp với hai trong những tư liệu do tác giả Phạm Long Điền sưu tập được liên quan đến hành trạng học giả Trương Vĩnh Ký. Đó là “thư của Trương Vĩnh Ký đề ngày 25.11.1873 gởi Giám Đốc Nha Nội trị để xin cử nhiệm một chức duy nhất” và “Quyết định của Thống soái Nam kỳ đề ngày 29.11.1873 cử Trương Vĩnh Ký làm giáo sư ngôn ngữ Đông phương với số lương hàng năm là 9.000 quan Pháp”.

* Trong “Văn học quốc ngữ ở Nam kỳ 1865-1930” (Sđd), tác giả Bằng Giang cho rằng Trương Minh Ký đảm nhiệm cương vị chủ bút Gia Định Báo từ năm 1881 đến năm 1897.

Điều khó khăn là không như thông lệ của báo chí ngày nay, các số Gia Định Báo còn lưu trữ đều không ghi tên ban biên tập. Trong nội dung các số báo phát hành vào đầu thập niên 1880, người ta nhận thấy ở phần công vụ và ngoài công vụ, các văn kiện hành chánh bằng chữ Pháp dịch ra chữ quốc ngữ đều không có tên người dịch; chỉ riêng phần thứ vụ ở cuối tờ báo, các bài viết của Trương Minh Ký và Ernest Potteaux hay J. Bonet là có đề tên tác giả. Mặt khác, các văn kiện bổ nhiệm Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của vào thời kỳ này chỉ ghi chức danh “thầy dạy tiếng phương Đông” (TVK) hay “Phủ hạng nhứt” (HTC) chứ không ghi chức danh nào ở Gia Định Báo như đã làm với Trương Vĩnh Ký vào năm 1869 (Nghị định số 210 ngày 27.9.1869 bổ nhiệm ông làm nghị viên Hội đồng thành phố Sài Gòn ghi rõ ông là Giám đốc tờ Gia Định báo – BOCF trang 337).

Những cứ liệu này cho phép tạm gạt bỏ giả thuyết Huỳnh Tịnh Của là người kế nhiệm Trương Vĩnh Ký trong chức danh Chánh tổng tài Gia Định Báo, đồng thời có thể xác định là từ sau năm 1873, hai ông vẫn còn đảm trách phần dịch các văn kiện hành chánh trên tờ báo này, nhưng không với tư cách Chánh tổng tài. Giả thuyết Trương Minh Ký làm Chánh tổng tài từ năm 1881 đến 1897 của học giả Bằng Giang tương đối hợp lý hơn, vì trong thời gian này, người ta thấy ông xuất hiện hầu như trên mỗi số Gia Định Báo, bài viết của ông phong phú và như trên đã trình bày, vào những năm 1890, chính ông đã diễn âm và đăng trên Gia Định Báo nhiều tác phẩm văn học dân gian ít được người biết đến.

* Điều đáng ngạc nhiên là về bộ máy quản lý của tờ Gia Định Báo, không thấy tài liệu nào đề cập đến hai nhân vật có tên Nguyễn Văn Giàu và Diệp Văn Cương cả. Nhưng đây chính là hai người phụ trách cuối cùng của tờ báo lịch sử này. Cũng trên giai phẩm Bách Khoa số 416 kể trên, chúng tôi (LN) có trình bày một phần nghị định ngày 20.9.1908 của quyền Thống Đốc Nam kỳ Outrey đăng trên Tập san hành chánh Nam kỳ, trang 2864, với nội dung tạm dịch như sau:

”....Ông Diệp Văn Cương, thông ngôn hạng nhất ngạch châu Âu được giao trách nhiệm biên tập tờ Gia Định Báo kể từ ngày 21.5.1908, thay thế ông Nguyễn Văn Giàu (nguyên văn không bỏ dấu - LN) được giao nhiệm vụ khác. Với cương vị này, đương sự sẽ được lãnh phụ cấp 250 đồng (piastre) dự liệu tại nghị định ngày 27.12.1901”

Ông Diệp Văn Cương thì hầu như ai cũng biết tiếng, là người chủ trương tờ Phan Yên Báo những năm 1898-1899 (nhiều tài liệu ghi nhầm là 1868), là một thông ngôn giỏi trong chính quyền thuộc địa, đồng thời là chồng người cô ruột của vua Thành Thái.

Riêng ông Nguyễn Văn Giàu thì gần như xa lạ hoàn toàn với giới nghiên cứu. Trong Gia Định Báo ngày 5.2.1882, chúng tôi đọc thấy nghị định cùng ngày tháng năm có liên quan đến một viên chức tên Nguyễn Văn Giàu là “thông ngôn thí sai nhứt hạng ở Cần Thơ”, rất có thể hai tên trên thuộc về một người và khi bàn giao nhiệm vụ biên tập tờ Gia Định Báo vào năm 1908, có nhiều khả năng ông Giàu ở vào một ngạch trật cao hơn ông Diệp Văn Cương, vì khi ông Giàu đang là “thông ngôn nhứt hạng” thì ông Cương còn là một du học sinh đang học tập ở Alger.

* Với những cứ liệu trên, nếu cần phải vạch ra một danh sách những người chịu trách nhiệm điều hành tờ Gia Định Báo vào những thời điểm kế tiếp nhau, có thể đề xuất tạm thời một thời gian biểu như sau để từ đó, các nhà nghiên cứu tìm thêm cứ liệu cụ thể và chính xác để đính chính hay bổ sung:

- Từ 4.1865 đến 9.1869: Ernest Potteaux

- Từ 9.1869 đến 1872 (hay 1873): Trương Vĩnh Ký

- Từ 1872 (hay 1873) đến 1881: J. Bonet

- Từ 1881 đến 1897: Trương Minh Ký

- Từ 1897 đến 1908: Nguyễn Văn Giàu

- Từ 1908 đến 1909: Diệp Văn Cương.

III) GIA ĐỊNH BÁO VÀ SỰ PHÁT TRIỂN BÁO CHÍ THỜI KỲ ĐẦU PHÁP THUỘC

Nhìn qua quá trình lịch sử những thế kỷ 17, 18, 19, có thể nhận thấy trên một khía cạnh nào đó, có sự tương đồng giữa sự ra đời của chữ quốc ngữ và vai trò của Gia Định Báo trong đời sống dân tộc. Lúc khởi thủy, chữ Việt la tinh hóa chỉ được các giáo sĩ phương Tây sử dụng như một công cụ truyền giáo của họ, nhưng sau hàng trăm năm, những biến chuyển lịch sử đã biến nó thành chữ quốc ngữ của ta.

Gia Định Báo cũng thế. Xét về bản chất, nó chỉ là một công cụ truyền thông được thực dân Pháp sử dụng trong mục tiêu kiện toàn bộ máy cai trị của họ, song nhờ vào cái tâm của những người Việt Nam tuy cộng tác với Pháp nhưng vẫn có tấm lòng hướng về dân tộc mà nó trở thành gần gủi với đời sống tinh thần của người Việt ta.

Việc phiên dịch các văn kiện hành chánh của Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của đã đành là một công tác thuộc phạm vi trách nhiệm do Pháp giao, song không thể nói là không có tác dụng hữu ích về mặt khách quan đối với đời sống cư dân Việt lúc bấy giờ. Với một kiến thức ít người sánh kịp, hai nhà học giả đã làm phong phú vốn ngôn ngữ Việt còn ở trong thời kỳ phôi thai, tạo được sinh khí cho việc học tập chữ quốc ngữ qua nội dung hấp dẫn của những câu chuyện ngụ ngôn do Trương Minh Ký biên dịch, những bài viết về khoa học thường thức mới mẻ do Ernest Potteaux biên soạn trên từng số báo.

Nhờ Gia Định Báo, người dân biết thế nào là “điển khí” (điện năng), núi lửa, động đất ra sao, được hướng dẫn “…ở ăn cho được mạnh khỏe” thế nào (báo ngày 11.1.1882), thấm nhuần tính nhân văn trong các truyện dân gian Nhị thập tứ hiếu, Lục súc tranh công, ….

Có thể khẳng định là sự ra đời của những cơ quan ngôn luận do người Việt đứng ra thành lập hoặc giữ vai trò chủ nhiệm, chủ bút vào thời kỳ đầu Pháp thuộc như Thông loại khóa trình (1888-1889), Phan Yên Báo (1898 -1899), Nông cổ mín đàm (1901-1924), Lục tỉnh tân văn (1907-1943)… không thể không có ảnh hưởng của Gia Định Báo trong đó. Ngưới ta tìm thấy “bóng dáng” của nó ở những bài viết có tính thiết thực trong Nông cổ mín đàm như “thương cổ luận” (bàn việc bán buôn), hướng dẫn việc trồng và chăm sóc cây cối….

Đáng nói hơn nữa là trong khi những tờ báo ra đời mấy mươi năm sau còn đầy rẫy lỗi chính tả (như Nông cổ mín đàm), thì ở Gia Định Báo, rất ít lỗi chính tả. Điều này cũng dễ hiểu, vì Huỳnh Tịnh Của chính là tác giả bộ từ điển quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam có tên “Đại Nam quấc âm tự vị” xuất bản năm 1896.

Công lao của Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của đã được giới nghiên cứu nói đến nhiều, song dường như công luận chưa có sự quan tâm đúng mức đối với Trương Minh Ký, người đã có những đóng góp to lớn cho Gia Định Báo cho đến ngày qua đời (1900). Để thể hiện sự công bằng, có lẽ cần phải đề cao hơn nữa công lao của ông trong việc phát triển tờ Gia Định Báo nói riêng và công cuộc truyền bá chữ quốc ngữ cho cộng đồng người Việt nói chung.

Và cũng vì sự công bằng của lịch sử, không thể bỏ qua công lao của Ernest Potteaux, người quản nhiệm đầu tiên của Gia Định Báo, là tác giả của rất nhiều bài viết khoa học có tác dụng nâng cao trình độ hiểu biết của người dân thuộc địa, giúp họ giũ bỏ được phần nào những thói tục mê tín dị đoan còn hằn sâu trong xã hội. Lãnh vực văn hóa không có chỗ cho sự phân biệt chủng tộc hay nguồn gốc xuất thân, làm việc này, chúng ta chứng tỏ cho thế giới thấy rằng người Việt Nam là một dân tộc biết trọng đạo nghĩa, không quay lưng lại với những ai đã làm điều tốt cho mình.

(*) không phải nghị định số 298 như tác giả Phạm Long Điền đã ghi (trang web giaodiem.com)

(**) Năm 1974, tờ Bách Khoa không còn là tạp chí nữa (vì không còn manchette báo), song vẫn tiếp tục phát hành đều đặn nửa tháng một số dưới danh nghĩa “giai phẩm”.

Lê Nguyễn

21.6.2020


Trang 1 tờ Gia Định Báo số năm 1866

Tráng 1 tờ Gia Định Báo số 8, tháng 3. 1870


Bài đăng trong số báo tháng 3. 1870, có gh lại trong bài viết

Cụ Trương Vĩnh Ký (1837-1898), chánh Tổng tài (rédacteur en chef – chủ bút) người Việt đầu tiên của tờ Gia Định Báo - Ảnh nghiencuulichsu.com


Trang 1 bài đăng trên giai phẩm Bách Khoa số 416, tháng 10.1974, công bố phát hiện về hai người quản lý cuối cùng của tờ GĐB và ngày đình bản của báo

Trang 2 bài đăng trên giai phẩm Bách Khoa số 416, tháng 10.1974, công bố phát hiện về hai người quản lý cuối cùng của tờ GĐB và ngày đình bản của báo


 

Thứ Tư, 10 tháng 2, 2021

Người Việt vẫn có cách dùng chữ Hán khác với người Tàu!

 NGƯỜI VIỆT VẪN CÓ CÁCH DÙNG CHỮ HÁN KHÁC VỚI NGƯỜI TÀU!

(tiếp theo bài "Một mực Hán-Mao trong khi có sẵn lối nói thuần Việt": https://www.facebook.com/nguyenchuong158/posts/1109413882825924)

I/ "BỨC XÚC" ?

a) Hồi sau tháng 4 năm 1975, nhiều người ở Miền Nam Việt Nam không khỏi ít nhiều bị lạ tai khi nghe hai chữ "bức xúc". Rồi, bây giờ nghe riết thành quen sau hơn bốn mươi năm. "Bức xúc" là gì, mà tại sao lại thấy "lạ tai"?

Trong chữ Hán có hai chữ này. Ở vào chỗ không cựa quậy được, gọi là "bức" - là bắt buộc, buộc phải. Một sự thể cần kíp tới nơi rồi, gọi là "xúc" - mang nghĩa thúc giục nào đó.

Thành thử "bức xúc" là để diễn tả tâm trạng / cảm giác rơi vào tình trạng khó xử, khó chịu, không hài lòng mà phải chịu đựng.

"Bức xúc", như vậy, được dùng trong nhiều hoàn cảnh, từ trong gia đình, quan hệ cá nhân với nhau, rồi quan hệ xã hội - chớ không chỉ là tâm trạng đè nén bị đối xử bất công trong môi trường xã hội (như có ý kiến từng giải thích trên mạng).

b) "BỨC BỐI": âm Nôm (thuần Việt)

Coi bộ dễ nhầm lẫn lắm đa, một đàng là "bức" đọc theo âm Hán-Việt của chữ nói trên (mang nghĩa cưỡng bức, bắt buộc) với một đàng cũng "bức" nhưng lại là âm Nôm (thuần Việt), được viết là .

Chữ gốc từ Hán tự, tiền nhân người Việt chúng ta mượn nguyên xi tự dạng này nhưng dùng để ghi một cách đọc khác hẳn bằng âm Nôm (thuần Việt): (âm Hán-Việt là "phức"), trong CHỮ NÔM lại đọc thành "BỨC" - nằm trong chữ "bức (bối)", bực bội, không hài lòng.

Còn "BỐI"? Trong chữ Nôm sáng tạo ra một ký tự (không có trong chữ Hán gốc), như ri: 𦁀 đọc là "bối" (trong "bối rối").

Trong chữ Nôm lại có một cách viết nữa, là dùng ký tự nguyên xi chữ Hán (âm Hán-Việt là "bối", nghĩa là vỏ sò) - nhưng dùng âm "BỐI" này để diễn tả nghĩa khác (không phải "vỏ sò") mà là "bối rối", một sự thể nào đó khiến cho khó chịu, khó nghĩ!

c) Nói nào ngay, hai chữ "BỨC BỐI" và "BỨC XÚC" cũng tương đối gần gũi về nghĩa, không đến mức khác xa nhau lắm. NHƯNG, "bức bối" là cách của người Việt dùng từ xưa, bằng âm Nôm (thuần Việt); trong khi "bức xúc" thì người Tàu ưng dùng hơn.

Từ lúc nào xuất hiện lối dùng "bức xúc", với mật độ ngày càng nhiều, lấn át hai chữ "bức bối"? Có lẽ xuất hiện trong thập niên 50 ở ngoài Bắc khi cán bộ Trung quốc làm cố vấn cho cải cách ruộng đất ở ngoải, rồi nhập nội hai chữ "bức xúc" chăng? Để rồi, tràn vô miền Nam sau năm 1975...

II/ "Ý ĐỒ" ?

"Đồ" nghĩa là: vẽ, sắp đặt / suy tính, mục đích / tham vọng, nắm lấy, chiếm lấy => "Ý đồ" mang nghĩa là: suy tính nhằm đạt tới một mục đích nào đó.

Như dẫn giải về mặt từ nguyên học (nêu trên), hai chữ "ý đồ" KHÔNG mang lấy nghĩa là "một âm mưu xấu xa, hèn hạ" - như có ý kiến giải thích trên mạng (?). Có lẽ "tham vọng" - là một mạch nghĩa trong loạt nghĩa của "ý đồ" - đã tạo nên suy đoán tùy hứng vậy chăng? Chữ "tham vọng" không mang nghĩa xấu cũng không hèn hạ, mà nằm ở tham vọng đó thực hiện ra sao (qua đó, mới thẩm định tốt hoặc xấu, cao cả hoặc hèn hạ).

Tuy nhiên, mời bạn đọc thử câu "ý đồ của kịch bản phim này là gì?" / "ý đồ của chương trình giáo dục đó là gì?", nói nào ngay, hai chữ "ý đồ" nghe nặng nề, trầm trọng hết sức. Ta có lối nói khác, đó là "ý hướng", hoặc "dụng ý", "mục đích" - cách diễn đạt nhẹ nhàng hơn hẳn.

Từ lâu rồi, người Việt lúc còn dùng Hán tự (chưa có chữ Quốc ngữ) đã có cách dùng chữ như rứa đó! "Ý hướng" , "dụng ý" 用意 , "mục đích" 目的 - chớ không phải "ý đồ" này "ý đồ" nọ mà Tàu-Mao thời nay ưng dùng.

III/ "ĐĂNG CƠ"?

Còn nhớ hồi Thái tử Nhựt lên ngôi, nhiều tờ báo trong nước Việt Nam bỗng dưng đua nhau dùng hai chữ "đăng cơ", nghe lạ tai hết sức. Lập tức, trên báo Thanh niên, có một vị viết bài "lên lớp" rằng: "đăng cơ" có trong Hán tự hẳn hoi ( ) chớ không phải báo chí tự chế ra cái mửng đó.

Nói một mà không chịu nói hai. Báo chí quả là không "tự chế" (chế làm gì nổi?), nhưng ở đây phải cho tỏ tường: mấy tờ báo đó đang BẮT CHƯỚC cách dùng chữ của người Tàu đại lục đó đa!

Tiền nhân người Việt bao đời, khi nói về sự lên ngôi, thảy đều dùng chữ "ĐĂNG QUANG" . Mắc gì phải từ bỏ cách nói "đăng quang" của người Việt, lại đi rước chữ Tàu Bắc Kinh "dēng jī" ("đăng cơ") đội lên đầu?

THAY LỜI KẾT

Người Việt Nam mượn chữ Hán mà dùng theo cách riêng, độc đáo của mình - như "BỨC BỐI", "Ý HƯỚNG", "ĐĂNG QUANG".

Mắc gì phải đồng hóa, răm rắp dùng theo cách nói của Tàu Bắc Kinh - "bī cù" ( "bức xúc"), "yì tú" ( "ý đồ"), "dēng jī" ( "đăng cơ")? ./.

Nguồn: Nguyễn - Chương Mt

 

Thứ Hai, 8 tháng 2, 2021

Chỉ biết âm Hán - Việt, mà quên béng âm Nôm (thuần Việt)

 CHỈ BIẾT ÂM HÁN-VIỆT, MÀ QUÊN BÉNG ÂM NÔM (THUẦN VIỆT)

* "Khuất tất" được dùng ĐÚNG, lại bị chê ỏng chê eo là dùng sai. Vì sao có sự tréo ngoe mắc cười đến vậy?

Hai chữ "khuất tất" bấy lâu nay vẫn thường được hiểu là: che giấu, mờ ám, không tỏ tường gì ráo. Để rồi ... trên mạng xuất hiện khá nhiều người lại cho rằng chữ "khuất tất" dùng với nghĩa "che giấu" là sai!

Họ viện dẫn bằng chữ Hán mà âm Hán-Việt đọc là "khuất tất". Trong đó, "khuất" nghĩa là cong / làm cho cong, "tất" nghĩa là đầu gối => "khuất tất" là cong gối, quì gối (còn được dùng với nghĩa bóng là: nịnh nọt).

Họ giải thích như vậy, là ... đúng nghĩa - NHƯNG, té ra đúng chỉ vì "khuất tất" ở đây được đọc theo âm Hán-Việt đó đa!

( Mở ngoặc ghi chú: "tất", trong chữ Hán, nào chỉ có mỗi một ký tự mang nghĩa "đầu gối". Cũng đồng âm là "tất", nhưng có đến 37 ký tự viết khác nhau lận, đồng âm mà dị nghĩa bao la luôn )

* "KHUẤT TẤT", kỳ thực, đều là âm Nôm (âm thuần Việt) hết thảy, chớ không phải âm Hán-Việt!

Trong các thể thức cấu tạo CHỮ NÔM ( https://www.facebook.com/nguyenchuong158/posts/1111207692646543), có những trường hợp mượn nguyên xi chữ Hán nhưng không mượn nghĩa, và đọc theo ÂM NÔM (thuần Việt).

"KHUẤT", trong chữ Nôm, được viết là - đây mượn nguyên xi chữ Hán (âm Việt-Hán là "khuých", nghĩa là vắng vẻ) NHƯNG được đọc hoàn toàn bằng âm thuần Việt là "khuất" (mang nghĩa: che khuất, che giấu).

"TẤT", trong chữ Nôm, được viết là , nghĩa là "tất (tất thảy)/ hết cả".

=> "KHUẤT TẤT" là che khuất tất cả, ém nhẹm hết thảy.

* Tôi không trách những người giải thích "khuất tất" là "quì gối". Chỉ xin nhắc rằng: đừng vin mọi thứ vào chữ Hán (âm Hán-Việt), mà hãy nhớ tiền nhân chúng ta còn có CHỮ NÔM, đọc theo ÂM NÔM (âm thuần Việt)!

Nguồn: Nguyễn - Chương Mt