ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2022

Lược tích Cha Jean-Marie Favier (Hiền)

 LƯỢC TÍCH CHA JEAN-MARIE FAVIER (HIỀN)

(Qua đời ngày 24 Octobre 1911.)

----------------

Cha Jean-Marie Favier

Cha Jean-Marie Favier (Hiền) linh mục Dòng Sai, sinh ra năm 1846, tại Địa Phận Le Puy, bên nước Phalangsa. Người qua nước An Nam năm 1872. Học tiếng An Nam vừa đủ thì người có coi họ Thủ Ngữ chừng hơn một năm, kế đổi xuống Giồng Rùm ngày 23 tháng Mai năm 1874.

Mấy năm trước đang lúc cha Báu (Leprince) ở Giồng Rùm, thì bị giặc Nguyễn Tri Phong phá phách, bổn đạo tan tác ở không yên. Đến chừng cha Hiền lại thì yên giặc rồi, bổn đạo chạy giặc đâu đó mới tựu về lần lần. Cha Hiền ở Giồng Rùm 21 năm trọn, cha lo qui bổn đạo lại, cùng canh tác đất ruộng bổn đạo, và cho mỗi người mỗi dây mà làm ăn. Đất ruộng khi ấy còn huợt lắm, cha lo tăng khẩn, cặm ranh rấp đâu đó đành rành. Cha làm có huê lợi ra, cất được một cái nhà thờ vừa vừa, và một nhà ở; lại sắm được một cái chuông lớn nổi 2000 kilô. Cha Bề Trên Quí làm phép nhà thờ ấy, ngày 3 Décembre năm 1876.

Cha Hiền là người ham làm việc lắm, người cũng làm ruộng: cầm cày, đứng trục, chống xuồng đi ruộng như An Nam, ăn cực khổ như An Nam, mà chẳng khi nào đau. Còn ở nhà thì đục đẽo cả ngày: người đóng ghế bàn; bây giờ cũng còn lại ít món của người làm tại Giồng Rùm.

Đức yêu người của cha thật đáng khen, tuy người không biết việc thuốc men cho mấy, mà cũng sắm đủ thứ thuốc để cho người ta: thuốc uống, thuốc xức đủ thứ.

Người có lập một nhà mồ côi nhỏ nhỏ, nuôi con nít kẻ ngoại, khôn lớn thì người gầy dựng cho nó; sau mấy cha kế vị cũng cứ vậy; bây giờ cũng còn mấy đứa ấy: trai có, gái có, ở tại Giồng Rùm.

Cha tên Hiền là thậm phải, vì thật là hiền, người ta đây còn nhắc ít tích về người: là có mấy tên kỳ khôi, hung bạo, say sưa, tới hỏi cha lúa thóc, cha không còn mà giùm, thì nó nổi hành hung, mắng cùng rầy rà om sòm, cha lên lầu đóng cữa lại; nó ở dưới réo: Cố Hiền ơi! Cố Hiền ơi! Người ở làm thinh, nó réo đã thèm mệt, buồn ý đi về.

Qua năm 1896 Đức Cha Để đổi người ra Bà Rịa, cha ở đó cho đến chết.

Cha xáng bịnh mà qua đời tại nhà trường Latinh Sài Gòn, ngày 24 Octobre 1911, đặng 65 tuổi, ở nước An Nam đặng 39 năm.

Cha không khi nào đau cho nặng, mà đau một lần thì chết! Ấy là mạng người đời, sao cho khỏi cữa ấy!

Ớ cha, dứt bỏ quê hương,

Chuyên lo việc Chúa nên gương ở đời;

Chúc cho cha đặng thảnh thơi,

Thiên đàng Chúa thưởng đời đời hiển vinh.

P. V. (Giồng Rùm).

,Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1911


Thứ Năm, 10 tháng 11, 2022

Hạnh tích Cha Louis Camille Laurent (Bính)

 HẠNH TÍCH CHA CAMILLE LAURENT (CHA BÍNH)

Cựu chánh sở Chợ-quán

---------------------

Cha Louis, Camille Laurent

Vừa đặng tin cha Laurent đã li trần, thì tờ báo Nam Kỳ ngày mồng 8 tháng Février, đăng ít tiếng lược tóm về hạnh tích người như vầy:

“Cha Laurent là một vị linh mục thừa sai, thâm niên trong địa phận, tánh tình ngài rất đạo đức thuần hậu, ra bề khuất tịch thanh vắng, quanh năm hằng ăn chay cầu nguyện, để kéo lòng nhơn từ Chúa thương xót đoàn chiên. Trong vòng năm mươi bốn năm trời, ngài đã hi sinh trót thân tâm trí chí, đổi đi nhiều chỗ, làm nhiều việc bổ ích cho địa phận và cứu giúp linh hồn người ta giữa đất Việt Nam.,”

Kẻ đọc hạnh người sau đây sẽ thấy những đều viết trên đó chẳng phải là nói quá đâu,..

Tại làng Sercœur, thuộc về địa sở tĩnh Vosges, bên nước Phalangsa, có một nhà nông phu kia, chồng tên là Nicolas Laurent, vợ là Célestine Sulfroy. Cả hai là người ngoan  đạo sốt sắng, tánh tình chơn chất thật thà, cùng ham công ăn việc làm. Bề sanh nhai gia đạo nầy, tuy không đặng chữ phú hộ, chớ cũng dư ăn dư mặc. Mua đặng nhiều sở ruộng, nhiều đồng cỏ để nuôi dê nuôi bò lấy sữa, hai vợ chồng sanh đặng hai người con, một trai một gái. Trai đầu lòng sanh ra ngày 14 Mai năm 1855, chào tên thánh Camille. Từ nhỏ, nhờ cha mẹ ân cần dạy dỗ, cùng tập luyện đàng lành, nên vừa đặng 12 tuổi, cha mẹ cho Camille theo thầy cả bổn sở mà học tiếng Latinh, đặng sau vào trường dọn mình làm thầy cả. Cha sở dạy dỗ trọn ba năm, rồi cho Camille vào trường Latinh địa phận Saint-Dié, ở đó, Camile tận tâm lo bề trau giồi đức hạnh, cùng học hành kinh sử. Khi đặng 22 tuổi, thì Bề Trên cho người chịu chức thứ năm. Lúc đó, nhờ ơn Chúa soi sáng giục lòng, nên Camille thưa cùng cha mẹ và xin phép Đấng Bề Trên trong địa phận, cho người nhập trường Hội giảng đạo ngoại quốc ở Paris, đặng dưng mình đi giảng đạo trong các xứ kẻ ngoại.

Vừa đặng phép Bề Trên, thì Camille mau mau giã từ mẹ cha cùng bà con, lên đàng thẳng qua Paris nhập trường Hội Giảng.

Ở đó gần ba năm, Camille cũng giữ một lòng ân cần sốt sắng cũng như hồi ở trường Saint-Dié. Qua đầu năm 1880, người đặng 25 tuổi, thì Bề Trên cho người chịu chức chánh tế, cùng định sai người sang Nam-kỳ giảng đạo. Chịu chức rồi, người còn ở lại Paris, chờ ngày xuống tàu trẩy đi, chẳng hay một buổi kia, có tin cho người hay, ông già người mới qua đời... Vừa đặng tin nầy, thì lòng người bủn rủn, nhớ đến mẹ già người sẽ bỏ lại một mình, không ai phụng dưỡng, vì lúc đó người em gái đã có đôi bạn và có gia thế rồi... Lòng người lưỡng lự, không biết phải tính cách nào, phải trở về chôn cất cha già cùng an ủi mẹ, hay là phải ở lại Paris dọn đồ xuống tàu... Vậy người bèn đến viếng cha Bề Trên cai trường, lúc đó là cha Delpech, cùng bàn tính cho biết phải làm thế nào... Cha Bề Trên nghe các đều, rồi làm thinh suy nghĩ một hồi, đoạn day lại nói cùng cha Laurent như vầy: Con về hay không thì việc cũng đã rồi, lại nữa về nhà, con sẽ gặp nhiều đều làm cho con phải âu lo áy náy... Tốt hơn con phú dưng mọi sự đó như của tế lễ, mà dưng cho kẻ ngoại giáo con sẽ đi giảng dạy... Con hãy ở lại sửa soạn công việc hành lý con cho sẵn đặng xuống tàu trẩy đi... Nghe như vậy, dầu trong lòng xót xa đau đớn, song người sẵn lòng vưng theo ý Đấng Bề Trên mà ở lại. Cách ít ngày trước khi người xuống tàu, thì bà già cùng cha sở họ của người, đến tại trường Paris thăm cùng từ giả... Vừa khi cha Laurent bước chơn vào nhà khách, thấy mẹ người mặc áo đen màu tang chế, một bên thì thấy cha sở già lụm cụm đứng đó. Cha vừa thấy thì lòng bắt cảm động, nhớ đến ông già mới nhắm mắt không đặng mấy ngày... Nước mắt tuôn xuống như mưa, hai mẹ con ôm lấy nhau mà không nói đặng một tiếng nào hết !... Đến sau khi người thuật lại chuyện nầy, thì thêm rằng: lúc đó tôi còn sốt sắng lắm, nên mới có thể mà thắng đặng lòng tôi, chớ theo lẽ thường thì tôi phải trở về theo mẹ tôi... Nếu không có ơn Chúa giúp cách riêng, thì chắc là tôi không qua xứ này đặng !..

Cách ít bữa sau, người giã từ quê xứ xuống tàu, rồi qua ngày mồng 5 Mai năm 1880, người tới bến Saigon. Đầu hết, Đức cha Colombert sai người vô ở thế ít tuần tại Chợ-lớn, sau cho người xuống Cái-mơng ở với cha Bề Trên Quí học tiếng annam, qua tháng Février năm sau là năm 1881, Đức cha sai người lên ở giúp cha Hamm (cha Tài) ở Thala. Cách ít tháng, cha Tài đổi, thì người lãnh coi họ Thala cho đến năm 1889..

Lúc cha Laurent lãnh sở Thala, thì số bổn đạo họ nầy đặng 1.300 người, song mọi sự đều phải gầy dựng lại hết, nhà thờ hư dột, nhà cha ở thì gần sập ngã. Thấy vậy không lẽ khoanh tay ngồi ngó, nên cha Laurent mới khởi công cất nhà thờ. Trước nhờ Đức cha Colombert giúp chút ít, sau trong họ đồng lòng phụ lực với cha. Nên cuối năm 1885, thì nhà thờ cất xong xuôi. Nhà thờ cất vừa rồi, cha không chịu nghỉ, tính luôn tay cất thêm nhà ở... Song lúc đó, bạc tiền không đặng dư giả như đời bây giờ, nên cha phải xin chỗ nầy nơi khác, phải gởi nhiều bức thơ về bên quê nhà mà xin cứu giúp... Nhờ đó cha cất đặng cái nhà cha ở. Nhà thờ và nhà ở còn vững chắc cho đến ngày nay. Các cuộc xong xuôi, một bữa chiều nọ, ăn cơm tối rồi, cha xách ghế ra ngoài sân ngồi hóng mát. Bỗng đâu một ý kiến xảy ra, cha nghĩ thầm, nhà thờ mà không có chuông, coi cũng buồn, mà mua chuông, thì tiền ở đâu mà kiếm cho ra!... Nội đêm đó cha nghĩ không an, nằm lăn lộn trên giường, lấy hết trí não, kiếm thế thần cho có đủ số bạc mà mua ba cái chuông.. Vậy cha xin trong họ kẻ ít người nhiều, và cha cũng xin bên Tây phụ giúp, kế ít lâu sau cha gởi mua ba cái chuông. Chẳng may, trong lúc đó Đức cha đổi người xuống coi sở Cái-bè, nên chừng chuông tới thì người đã đi rồi! Cũng là sự rủi cho cha, số là chiếc tàu chở ba cái chuông đó, khi vô cữa Aden, thì nó đụng một chiếc tàu khác đang đậu trong bến, nên ba cái chuông phải nằm dưới biển gần sáu tháng trời, sau trục lên đặng rồi mới chở về Saigon!

Cha Laurent coi họ Thala gần đặng tám năm, trong vòng mấy năm đó, cha phải lo chạy tiền mà cất nhà thờ nhà ở, cùng tu bổ sắp đặt các việc trong họ. Lại nữa một mình cha gánh vác, chẳng có cha nào khác ở giúp người. Nên trong sổ năm 1888, cha làm trước khi giao họ Thala cho cha Frison (cha Hoàng) thì cha có để ít lời, tỏ lòng cha tiếc, vì một mình phải lo các việc bề ngoài, nên không có thế mà lo cho chầu nhưng đạo mới đặng... Tại cớ đó mà mấy năm người coi họ, thì số bổn đạo Thala không tăng lên đặng bao nhiêu.

Đổi về Cái-bè 1889 - 1913.

Nhà thờ, nhà cha ở cất vừa xong, cha còn tính sắp đặt công việc, lo bề sanh nhai cho bổn đạo, vì lúc đó ở Tha-la người ta nghèo khổ, ít có bề thế làm ăn. Chẳng may, đầu năm 1889, có lịnh Đức cha Colombert đổi cha xuống coi sở Cái-bè thế cho cha Greset. Vừa đặng lịnh Đức cha, thì người giã từ bổn đạo họ Tha-la rồi xuống nhận sở Cái- bè, là lối tháng Janvier năm 1889. Khi đó sở Cái-bè tính hết thảy đặng 18 họ nhỏ, số bổn đạo đặng 1.200. Còn tại họ Cái-bè thì số bổn đạo đặng 249 người mà thôi. Hồi cha Laurent xuống lãnh sở, thì trúng là lúc việc đạo suy sụt nhiều: vì đời cha Simon coi sở Cái-bè, nhơn số bổn đạo tại họ Cái-bè mà thôi thì trên 500, song lần lần, phần thì cha Simon đổi, phần thì ông Giuse Phước qua đời, Ông nầy là đứng khởi lập họ Cái-bè và có quyền thế lắm, ai nấy cũng mến yêu kính chuộng. Bổn đạo lúc đó phần đông là đạo mới, thấy vậy thì sờn lòng và sau nhiều người đã bỏ đạo. Lúc cha Laurent về coi sở, thì số người bỏ dạo tính đặng 143 người. Cũng có nhiều gia đạo đi xứ khác cho dễ kiếm bề làm ăn. Còn số con nít học các trường trong sở Cái-bè tính đặng 120 đứa. Song khi đó chưa có trường nhà phước dạy như bây giờ. Trường nam thì giao cho thầy giáo dạy, còn trường nữ thì mỗi họ chọn ít người nhi nữ, có trí và có lòng đạo đức hơn, đặng lãnh việc dạy kinh phần cho con nít. Lại nữa, học trò không có học quanh năm như bây giờ, có trường một năm học hai tháng, trường khác học bốn tháng, tùy chỗ và tùy số con nít.

Con phần huê lợi các họ thì không có bao nhiêu, vì lúc đó mọi sự dều mới gầy dựng. Theo sổ năm 1889, thì nội sở Cái-bè số thâu tính chung hết thảy 413 đồng bạc! Sánh lại với bây giờ, thì như không vậy, song thật cũng nhờ các cha buổi trước biết lo, nên gần hết mỗi họ nhỏ đều có chút đỉnh huê lợi, để lấy đó mà tu bổ các việc trong họ. Hồi đời cha Launay coi sở Cái-bè, thì người xin nhà trước khẩn một sở đất ba trăm mẫu tại làng Mỷ-lợi, mỗi năm đặng chừng bốn thiên lúa, lấy đó mà xây dụng cùng bồi bổ các việc trong phần sở Cái-bè.

Cha Laurent vừa xuống lãnh sở, thì người liền ra tay lo việc giảng đạo, cha xin thầy trường Latinh đến dạy chầu nhưng đạo mới, xin nhà phước Chợ-quán đến dạy trường trong sở. Đến sau khi có thầy giảng, thì hằng năm cha cũng xin nhiều thầy đến giúp cha mà dạy chầu nhưng trong họ nhỏ. Đức cha cũng cho hai cha phó để phụ lực với người mà lo các họ trong sở Cái-bè.

Khi cha Laurent xuống coi sở Cái-bè, thì nhà thờ đã cất xong rồi. Vì năm 1885, đời cha Greset, thì ông phủ Lộc đã xuất gần một muôn đồng mà cất nhà thờ. Song nhà cha ở thì chưa có, nên cha Laurent xuống ở ít lâu, thì người lo cất nhà ở, nhà đó còn vững chắc đến nay.

Cha cũng lo xin quan trên đặng lãnh bằng khoán đất ba trăm mẫu cha Launay đã khẩn tại Mỷ-lợi. Trong việc nầy, cha gặp nhiều đến khuất trắc, song khá nhờ ơn Chúa sau hết mọi sự đều xuôi. Nên cha mới lo cho bổn đạo khai phá làm ruộng và nhờ đó ngày nay sở Cái-bè có đủ mà lo các việc sở phí trong sở.

Cha cũng năng đi viếng các họ nhỏ trong sở cùng thúc giục kẻ giúp việc với người lo mở mang nước Chúa. Song miệt Cái-bè việc giảng đạo chậm phát lắm, gặp nhiều đều ngăn trở, lại nữa tánh tình người xứ nầy lâu thấm việc đạo. Nên trong sổ năm 1910, cha để ít tiếng mà rằng: số bổn đạo trong phần sở Cái-bè không tăng lên bao nhiêu, dầu lập nhiều họ nhỏ, dầu cất thêm nhiều trường học, song coi lại thì bề tấn bộ có hơi chậm quá, không vừa xứng với công khó đã làm... Cha cũng nói, Chúa còn để một chút sự an ủi cho cha là, nhà mồ côi cha lập tại họ Cái-bè, hằng năm gởi về nước thiên đàng trên 150 linh hồn con nít kẻ ngoại cho. Cha coi họ Cái-bè đặng 24 năm, song bề an ủi không đặng bao nhiêu, gặp nhiều sự khó, lại nữa số bổn đạo cầm cự vậy không tăng lên bao nhiêu. Hồi cha lãnh sở, số bổn đạo đặng 1.200, đến khi cha đổi thì số bổn đạo trong sở Cái-bè tính chung đặng 1.600. Lúc đó các họ nhỏ đâu đó công việc đã sắp đặt yên bài rồi, và nhiều họ có cha sở ở.

Đổi về Chợ-quán năm 1913 tới năm 1934.

Năm 1913 cha Dumas già yếu, nên xin từ chức bề trên trường Latinh. Vậy Đức cha Mossard đặt cha Bề trên Delignon lên làm Bề trên cai trường Latinh và đem cha Laurent ở Cái-bè về coi họ và nhà phước Chợ-quán. Ở Cái-bè tuy phần an ủi không đặng bao lăm, song ở lâu năm sao khỏi mến, lại cha lớn tuổi cũng có nhiều chứng bịnh, sợ không sức mà gánh vác công việc. Tuy vậy, vừa đặng lịnh Đức cha đổi, thì người không chối cãi từ an, cúi đầu vưng lời, lo sắp đặt công việc trong phần sở, rồi giã từ bổn đạo Cái-bè mà về Chợ-quán. Cha về Chợ-quán làm lễ tân quan, ra mắt với bổn đạo là ngày 15 tháng Août năm 1913, trúng ngày lễ Đức Bà Mông Triệu thăng thiên. Thật cha khéo lựa ngày về nhận sở! Lúc cha Laurent về lãnh sở, thì số bổn đạo họ Chợ-quán đặng 1.300, còn số bổn đạo trong sở tính chung đặng 6.246. Nhà phước lúc đó nhơn số đặng 90 người.

Về Chợ-quán cha thấy nhà thờ cất đã lâu năm (cất năm 1885 đời cha Hamm, cha Tài) mối mọt ăn hư hao nhiều chỗ, ắt chẳng chầy thì kíp phải sửa lại. Song nhà thờ không có huê lợi, lại nữa công việc làm bạc muôn không đủ, nên cha tính mỗi tháng cho quới chức đi góp tiền trong họ. Ý cha là lo trước cho có sẵn đồng tiền trong tay, đến sau cha nào khác tới thì có sẵn mà sửa nhà thờ. Chớ phần cha tuổi đã cao, lại thêm bịnh hoạn không thể lo đặng. Cha lo góp nhóp như vậy đã ngoài mười mấy năm trời, khá bổn đạo cũng sẵn lòng, ai nấy đua nhau phụ giúp. Một ngày kia, cha cho thợ lên sửa mái nhà thờ, thay ít tấm ngói mấy chỗ dột, song thợ thấy cái sườn nhà đã hư nhiều, mối ăn gần rã, nếu không lo sửa lại, rủi lúc dông gió sợ mái nhà phải đổ. Việc gấp không thể trì huởn đặng nữa, lại lúc đó cha đau yếu, song cũng rán gượng khởi công làm liền. Đầu hết, cất một nhà thờ tạm bằng lá cho có chỗ bổn đạo đến đọc kinh xem lễ, rồi mới lo dỡ mái nhà trở xuống làm lại hết, làm toàn cây sao chắc chắn, không còn lo mối mọt ăn phá nữa. Còn plafond làm theo kiểu kim thời, trong có mành sắt, mấy mươi năm cũng không sợ hư rã. Mấy cữa sổ xưa bằng cây ván, bây giờ làm lại bằng ciment đút, đã chắc lại đẹp. Dưới thì lót gạch bông mua bên Đại-pháp, trong cung thánh và mấy hàng cột, thì vẽ bông Sơn dầu, đâu đó trong ngoài đều sơn phết lại, nên nhà thờ coi vển vang rực rỡ, tốt đẹp hơn xưa bội phần. Cha cũng lo làm thêm cái tháp lầu chuông, làm toàn bằng ciment đút. Tốn hao trên muôn, đó cũng nhờ lòng rộng rãi hai ông bà Phủ Năm, nên nay nhà thờ Chợ-quán mới có cái tháp cao! Công việc khởi làm trong tháng Novembre năm 1927, qua năm sau là năm 1928, tháng Octobre, thì mọi việc đều xong, và ngày lễ Đức Chúa Giêsu là vua, thì làm lễ trong nhà thờ mới.

Cất nhà thờ xong, cha cũng lo cất nhà trường nữ và làm vách thành, sơn ly sắt trước nhà thờ. Lúc đó nhà nước sửa cái đường trước nhà thờ cho rộng hơn, nên khi các cuộc xong xuôi rồi, thì hình cảnh nhà thờ Chợ-quán liền đổi ra khác, coi xinh đẹp lại oai nghi, xứng nơi để thờ phượng Chúa. Kẻ qua người lại ngó vô đều trầm trồ khen ngợi!

Công cuộc ngày nay mà đặng vinh vang toàn hảo như vậy, thì trước là nhờ cha sở đốc công lo lắng, sau cũng nhờ cha phó cùng quí chức bổn đạo tận tâm hiệp lực. Cha sở thì ra công phổ quyến xin tiền, cha phó ở nhà đứng coi công thợ, rảo ruông khắp chỗ, kiếm từ miếng ngói, lượm từ tấm gạch, không để một món chi mà hư hao vô ích! Quới chức hằng ngày thay phiên đứng coi trộn hồ gánh cát. Còn phần bổn đạo, thì hết thảy kẻ giàu người khó, ai nấy cũng rộng tay phụ giúp, hễ nghe cha sở hụt tiền trả cho công thợ, thì liền mau mau đem đến cúng dưng. Thật trong cuộc nầy, bổn đạo họ Chợ-quán đã tỏ ra lòng rộng rãi hảo tâm đáng khen là dường nào! Chắc Chúa không lẽ mà chẳng trả lại muôn ơn phước đời nầy và đời sau!

Cha ở trong họ bổn đạo một ngày một hiểu tánh ý, nên ai nấy đều đem lòng mến yêu kính phục. Qua đầu năm 1930, ngày 20 tháng Février, giáp 50 năm cha thăng quờn chánh tế, thì bổn đạo họ Chợ-quán hiệp lực cùng cha Phó, bày ra một cuộc lễ rất rỡ ràng long trọng, để tỏ chút lòng hiếu cùng cha sở già. Đây không cần phải thuật lại các cuộc làm chi, ai nấy cũng còn nhớ, vì trong địa phận nầy, đôi khi cũng có lễ vàng, song ít chỗ mà dám bì với cuộc lễ vàng làm tại họ Chợ-quán. Ngày đó chính Đức Khâm sứ Tòa thánh dự lễ, Đức Khâm sứ là người bổn hương với cha Laurent, và quen biết nhiều thầy cả học một lớp với cha tại trường St Dié. Cũng có Đức cha Herrgott, Giám mục địa phận Nam - vang đến chầu lễ nữa. Khi xưa Đức cha Nam-Vang còn làm cha sở họ Trà -lốt, còn cha Laurent coi họ Thala, thì hay qua lại viếng thăm nhau, nên vì tình cựu ngãi xưa, Đức cha không nệ đàng sá xa xuôi, đến chung vui cùng bổn đạo họ Chợ-quán. Còn Đức cha địa phận Saigon, thì gởi tâu bên Tòa Thánh, về công việc cha Laurent đã giúp ích trong vòng 50 năm tại đất Nam-kỳ thì Đức Giáo Tông hạ lịnh, dạy đánh dây thép mà chúc mừng và ban phép lành Tòa Thánh, để thưởng công khó cha, đã bỏ quê lìa xứ qua giúp việc Chúa tại địa phận Saigon, mà chẳng có khi nào hồi gia. Trong cuộc lễ nầy bổn đạo họ Chợ-quán đã lấy hết tâm lực cùng lòng mến yêu mà đối đãi với đấng chăn chiên lành. Cha Laurent thấy lòng con cái rất hảo tâm, thì người cảm động vui mừng. Rồi cuộc lễ, cha có gởi về bên quê nhà, và cho kẻ quen biết bên Pháp, hình chụp trong cuộc lễ vàng, và những bài đã đăng trong các báo về cuộc lễ nầy. Bên tây đọc mấy bài và thấy hình gởi qua, thì đều khen ngợi bổn đạo Annam, tiếp đãi các đấng giảng đạo ngoại quốc một cách rất trọng hậu. Chính tờ báo Semaine Religieuse địa phận St Dié cũng thuật lại cuộc lễ vàng nầy, và có để ít lời khen ngợi đức tin và lòng hảo tâm con nhà giáo hữu Annam.

Khi cha Laurent về lãnh coi họ và coi nhà phước, thì số các Dì các chị tính chung đặng chừng 90 người mà thôi. Lúc đó bà Maria Mai làm bà nhứt, còn bà Quế làm bà nhì. Nhà cữa còn chật hẹp thiếu thốn nhiều bề. Song số kẻ xin vào dòng thì một ngày một đông nên không đủ chỗ. Vậy cha mới nhứt định nối thêm hai đầu cái nhà từng cũ cho rộng hơn, vừa có chỗ cho 150 người ở đặng. Cách ít lâu sau, Chúa mở lòng soi khiến, chắc cũng nhờ lời cha kêu xin, nên các nơi nhiều người xin vô nhà phước. Lại nữa lúc đó mới có luật Hội thánh ra, trong các nhà viện tu, kẻ khấn hứa rồi và người còn ở nhà tập mình, thì phải ở riêng. Vậy cha bàn tính với bà nhứt Mai và bà nhì Linh, rồi ra tay cất một nhà từng chắc chắn rộng rãi, kiểu coi rất đẹp, để làm nhà tập mình cho các chị áo trắng. Lúc đó bạc tiền không có đủ, nên cha và nhà phước phải nhín nhút, cùng xin nhiều chỗ thi ân làm phước cho có đủ số bạc, rồi cha con trong nhà đứng ra coi làm, khỏi đốc công cũng khỏi mướn cập rằng. Lúc đó nhờ có Bà Linh, là một người khôn ngoan lại thông thạo công việc. Bà phụ với cha sở mà coi làm, cách qua năm sau là năm 1926, thì nhà các chị áo trắng cất xong.

Đó rồi cha cũng lo sửa nhà thờ nhà phước, nối thêm hai cánh hai bên, cho có chỗ cho các dì ngồi đọc kinh xem lễ.

Cách ít năm sau, coi đi coi lại, thì thấy nhà các Dì cũng là chật rồi, số trong nhà phước lúc đó trên 200 người. Cách nào cũng phải cất thêm một nhà nữa mới có chỗ đủ cho các dì ở. Lúc bấy giờ Bà Linh đã quá vãng rồi, phần cha cũng yếu sức, không dám  đứng ra mà coi làm như trước. Vậy cha mới giao công việc đó cho ông Đốc công Quan ở Gia-định, và ít lâu sau thì thấy bên kia nhà tập mình, một tòa nhà lợp ngói vách gạch, cao hai từng, dài trên 40 thước tây, xung quanh có hàng ba mát mẻ khoản khoát.

Từng trên để làm nhà ngủ, còn ở dưới thì để cho các Dì tựu lại hoặc làm việc, hoặc nghỉ chơi. Đâu đó đều sạch sẽ vén khéo. Nhà áo đen cất rồi, sẵn đồ còn dư, thì cha cất một Nữ Học Đường cũng trong rào nhà phước, và giao cho các dì lo việc dạy con nít các nơi người ta gởi tới. Công việc làm đây tốn hao rất nhiều, lại phần nhà phước không có của dư, nên cha phải phụ giúp, có bao nhiêu cha cũng đổ vô đó, mà làm cho thành công việc. Phải Chúa cho cha còn sống ít lâu nữa, thì chắc cha sẽ lo các nhà thờ nhà phước lại cho rộng lớn hơn. Ít tháng trước khi cha qua đời, thì cha đã sửa soạn bàn tính cùng lo kiếm tiền mà sửa nhà thờ nhà phước, song Chúa rước cha đi trước không kịp thi hành như lòng cha sở nguyện!

Cha Laurent tướng diện coi mạnh mẽ khẳng khái, ngôn từ có hơi cứng một chút. Bề giao thiệp không đặng niềm nở, nhứt là với kẻ cha ít quen biết. Đó là tánh tình người ở miền xứ Vosges là như vậy. Bỡi đó kẻ không biết cha thì có hơi ngại một chút. Bề ngoài coi như vậy, chớ thật sự bề trong thì khác xa lắm. Cha Laurent là một người có lòng đại độ, hay thương người ta, mau động tình mủi dạ, bề ngoài coi cứng là bao nhiêu, thì lòng cha ngọt dịu là bấy nhiêu. Cũng như thứ quả kia, ngoài vỏ coi u nần gai gốc, song trong ruột thì rất ngọt bùi. Nên ở đời chớ xem nét mặt mà xét tánh người, vì lắm khi có chỗ lầm. Bổn đạo các họ cha coi sóc, ban đầu chưa rõ ý cha, thì không dám vãng lai, đến sau rõ đặng lòng cha, thì ai nấy đều đem lòng tríu mến. Lại nữa cha Laurent là một người thật tình ngay thẳng, khẩu tâm như nhứt, trí tưởng sao miệng nói vậy, lời nói đơn sơ, không chuốt ngót mà cũng không giấu ý quanh co. Tánh cha đơn sơ thật thà, và dè dặt, không ưa xen dự đến việc kẻ khác, tại đó mà mấy cha phó tùng sở cha, thì ai nấy cũng mến thương cha.

Còn lòng đạo đức cha, thì nói đặng cha Laurent là một vị linh mục rất từng nhã trong đàng trọn lành, nhứt là lòng yêu mến Chúa và sự sống thiêng liêng bên trong. Cả đời cha đã tận tâm luyện tập cùng trau giồi linh hồn về đàng ấy một cách rất tinh ròng. Coi cách cha sống thì liền rõ đều ấy. Mỗi ngày ba giờ sáng thì cha đã xuống khỏi giường rồi, đoạn vào nhà thờ suy gẫm đọc kinh, đi đàng thánh giá, dọn mình làm lễ. Lúc mạnh cũng như hồi đau, cha hằng giữ luôn như vậy cho đến chết. Làm lễ rồi cha quì cám ơn lâu giờ, còn cả ngày thì hết hai phần, cha ở trong nhà thờ, đọc kinh, coi sách thiêng liêng, nói khó cùng Chúa. Nhiều lần thấy cha ngồi trong nhà thờ lâu giờ, mắt sửng nhìn trên nhà tạm. Thật cha có lòng mến yêu Đức Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể rất tận tình, cùng lấy nhà thờ như nhà cha ở, năng ra vào nói khó cùng Chúa. Cha biết mình già yếu không thể lo việc giảng dạy, nên cha phú giao việc trong họ cho cha Phó, còn phần cha thì lãnh việc quì chầu nơi cung thánh, mà nguyện cầu Chúa tuôn các ơn cho con chiên người coi sóc!

Cả đời cha ưa sự tịch mạc thanh vắng, ít ưa ra vào với kẻ khác, cha tìm sự vắng vẻ để dễ bề nói khó và kết hiệp cùng Chúa.

Còn phần hãm mình, thì nói đặng cả đời cha ăn chay luôn, vì mỗi ngày cha ăn có một bữa trưa mà thôi, còn tối thì cha ăn ít trái chuối, uống một ly nước lã rồi đi nghỉ. Đã vậy Chúa còn gởi cho cha nhiều thứ bịnh khác, vì thánh giá là của Chúa thường ban cho kẻ Chúa mến yêu cách riêng. Đã lâu cha bị bệnh đau ruột và vì tại đó mà sanh ra nhiều chứng bệnh khác, cha phải chịu cả đời. Song cha vui lòng chẳng thấy cha than phiền về đều ấy khi nào. Trong năm 1918 lúc đó có trái trời, trong nhà phước có hai Dì mang bịnh nầy mà phải bỏ mình. Cha tận tình giúp lo, nên ít ngày sau cha cũng phải lây bịnh đó. Đây ai nấy đều tưởng cha không qua khỏi phen nầy! Song Chúa còn thương xót, nên cha vô nhà thương Đồng đất, điều dưỡng trọn một tháng, thì bịnh đặng lành. Cách ít lâu sau, một bữa kia, ruột cha thắt lại, nên mau mau đem vô nhà thương, quan thầy thấy bịnh rất hiểm nguy, vì còn một phương mà thôi, là phải mổ, song phần cha đã lớn tuổi lại yếu sức, nếu như mổ thì mười phần còn trong ba mà thôi. Trong cơn như vậy, cha cũng giữ mặt bình tịnh vui cười như thường, sẵn lòng phú dưng hết mạng sống mình trong tay Chúa. Cha nằm đó đợi quan thầy đến mổ. Chẳng hay sự cũng lạ, còn chừng nửa giờ nữa quan thầy mổ, thì bỗng đâu ruột nhả ra, nên nội chiều đó cha trở về Chợ-quán, nhà phước cùng bổn đạo ai nấy đều vui mừng cảm đội ơn Chúa. Song từ đó cha lại mang bịnh khác, là ho siển, nhiều đêm ngủ chẳng đặng phải ngồi trên ghế mà chịu đến sáng. Từ ngày cha ăn lễ Vàng, thì cha lo dọn mình, biết rồi đây chẳng còn bao lâu nữa... Nên cha hay suy gẫm về sự chết, cùng năng nói về đều ấy. Cha cũng lo sắp đặt công việc tư cha, và việc trong.

Lối đầu tháng Janvier năm nay, coi cha yếu hơn nhiều, hai bàn chơn sưng lên, không còn ăn uống đặng nữa. Song dầu vậy cha cũng cứ làm mọi việc như thường khi. Kẻ đến thăm cha, thì cha nói chắc giờ lâm chung cha gần đến, cha sẵn lòng vưng theo thánh ý Chúa, và cha cũng nói thêm câu nầy: “Càng mau càng tốt.” Tuy vậy, song ai nấy cũng tưởng cha còn cầm cự một đôi tháng nữa, chẳng hay bịnh một ngày một thúc tới, nên ngày 26 tháng Janvier, thì cha không còn làm lễ đặng nữa, phải đem Mình Thánh Chúa cho cha mà thôi. Qua sáng bữa sau, trúng ngày thứ sáu trong tuần, lối bốn giờ sáng, cha kêu cha phó lại mà nói rằng: Tôi coi trong mình tôi một ngày một yếu nhiều, nên xin cha lo cho tôi chịu các phép sau hết. Đoạn cha cũng đưa cho cha phó một đồng vàng mà nói rằng: Hồi bên tây tôi qua đây, thì bà già tôi có cho một đồng vàng, xin cha lấy của nầy làm dấu tích, để tỏ chút lòng tôi cám mến công khó cha. Cha và nói và khóc ròng! Cả ngày đó cha mệt nhiều, song trí còn tỉnh táo. Sáng bữa sau, lối 3 giờ khuya, cha thấy trong mình mệt nhiều, nên cha biểu kêu cha phó dậy đặng cho cha nói ít lời. Khi cha Bênêditô Cậy lại gần ghế cha nằm, thì cha nắm tay cha Bênêditô mà nói cách thiết ái rằng: “ớ cha rất yêu dấu, đã gần hai mươi năm nay, cha và tôi ở với nhau, nay tới giờ tôi phải lìa cha, tôi không biết lấy lời nào cho xứng mà cám ơn cha đã tận tâm giúp đỡ tôi. Xin Chúa trả công cho cha đời nầy và đời sau, và cũng xin cha nhớ cầu nguyện cho tôi”. Cha và nói và khóc ròng rã, đoạn cha nắm tay cha Bênêditô mà hôn cách rất yêu dấu mà giã từ! Thiệt tình cảnh lúc nầy, ngòi bút không thể mà tỏa ra đặng! Trong đời ta sống, ít có lúc mà cảm động như vậy!.. Trong vòng 19 năm trời, hai cha ở với nhau như bát nước đầy: cha sở thì hết lòng mến thương cùng tin cậy cha phó; còn cha phó thì tận tình giúp đỡ cha sở. Việc họ thì giao trong tay cha phó, còn việc nhà phước thì cha sở quản coi. Cái gánh mà chia hai, dầu có nặng cho mấy thì cũng ra nhẹ! Song đây cha phó cũng khéo ở, tuy một tay cha cầm cốt các việc trong họ, song cha cũng biết kính nhường cha sở, không phạm quyền quá phép. Tại đó mà cha sở lại càng kính yêu mến chuộng, nên mỗi khi nghe phong phanh, Đức cha muốn đổi cha phó đi nơi khác, thì lập tức cha mau mau lên xe chạy ra nhà Đức cha mà kêu nài, một hai xin cho cha phó ở lại với người cho đến cùng. Mà thật sự người đã đặng như lòng sở nguyện, lại nữa đặng phước trước khi nhắm mắt thì đã trối qui mô cho cha phó người !...

Vậy bịnh cho một ngày một nặng, nên ngày Chúa nhựt 28 tháng Janvier lối bốn giờ chiều, có đủ mặt quới chức bổn đạo nhà phước, thì cha Bề trên Sáng xức dầu và ban ơn đại xá sau hết cho cha. Lúc đó cha còn tỉnh, nhìn đặng những kẻ đến viếng thăm. Qua sáng thứ hai trước 5 giờ thì cha phó đem Mình Thánh Chúa cho cha chịu lần sau hết. Gần bảy giờ, cha nói chắc nội buổi sớm mai nầy tôi sẽ đi, rồi cha xin đọc kinh dỏi cho cha. Khi đọc tới câu: Proficiscere anima christiana, hỡi linh hồn giáo nhơn, hãy xuất lìa thế nầy, thì kẻ giữ linh hồn nín lại, thì cha bảo rằng: cha đọc tiếp theo đi, cha không đọc bây giờ, lát nữa cũng phải đọc vậy, đọc trước cho tôi nghe... Khi kêu Chúa cho cha, thì mỗi câu cha lập lại một cách rất sốt sáng. Qua 8 giờ rưỡi, cha thở ra một cái rất nhẹ rồi linh hồn lìa xác, trước mặt các dì và bổn đạo đang quì xung quanh mà cầu nguyện cho cha! Thật cha chết cách rất êm ái, hai tay cha chấp để trên ngực coi giống như lúc cha đọc kinh cầu nguyện vậy!

Vừa nghe tiếng chuông trầm thì bổn đạo liền chạy đến nhà cha. Song thương ôi! không còn thấy cha ngồi như xưa ủi an truyện vãn, liếc vô thì thấy một xác kia gầy ốm, nằm trên một bàn dài để giữa nhà! Đó là đấng xưa kia đã bỏ cha lìa mẹ, lưu biệt quê hương xứ sở, dày đạp các việc vinh hoa ở thế, tình nguyện đến xứ nầy, trong vòng 50 năm tận tâm giúp lo phần rỗi kẻ khác! Nay đến giờ phải lìa cuộc thế, hồn lui về cõi trên để xác lại cho ta mai táng đó!

Sáng bữa sau, trúng ngày nhà phước ra phòng và luôn dịp cũng có cho 15 chị khấn hứa mặc áo đen. Thường khi cuộc lễ nầy, ai nấy trong nhà vui mừng phở lở, song ngày nay cuộc lễ nầy có vẻ rất khác xa. Trong buổi lễ nhạc, các Dì các Chị, ai nấy mặt mày ủ dột thảm sầu, vẳng vẳng nghe tiếng thút thít khóc thầm... Mãn cuộc lễ, 15 chị mới khấn hứa, đầu đội tràng hoa hồng trắng, y phục các dì áo đen, đến quì xung quanh xác cha, hai hàng nước mắt tuôn xuống như mưa, nguyện cầu cho linh hồn cha đặng mau lên nơi tiêu sái! Kẻ đứng xa dòm vô thấy tình cảnh nầy, thì không thể gì cầm nước mắt lại đặng!.

Tối đêm đó lối 7 giờ, nhà phước và bổn đạo tựu đến nhà cha rất đông, trong ngoài đều chật hết. Trước cầu cho cha một lễ, rồi liệm xác cha. Khi vừa để xác cha vào quan tài, thì cả nhà nghe tiếng người ta khóc kể, vì từ đây ngàn thu kẻ chăn và đoàn chiên phải cách biệt lìa nhau! Cả đêm đó thì bổn đạo thay phiên canh xác và cầu lễ. Qua ngày sau, lối bốn giờ chiều, thì kiệu xác cha đi xung quanh nhà thờ, đoạn đem quàn một đêm trong nhà thờ, là nơi xưa trong 19 năm trời, đêm ngày cha những vô ra mà nguyện gẫm nói khó cùng Chúa!

Qua sáng thứ tư, 31 Janvier, 7 giờ thì Đức cha địa phận thân chinh đến nhà thờ Chợ-quán, làm lễ Qui lăng. Có Đức cha Herrgott, Giám mục địa phận Nam-vang, cha Chauffot, Bề trên trường latinh Cù-lao-gien và trên 40 vị linh mục tây nam trong địa phận Saigon hiệp vầy chầu lễ. Có mấy thấy dòng, nhà phước trắng, Chợ-quán, Thủ-thiêm, Cái-mơng, Cái-nhum, các viên quan tây nam, đồng đến hiệp vầy chầu lễ; còn bổn đạo Chợ-quán và các họ xung quanh Saigon đến chầu lễ và đưa đám cha rất đông. Các Dì các Chị nhà phước Chợ-quán và bổn đạo lớn nhỏ trong họ đều để tang cho cha! Lễ đoạn thì Đức cha làm phép xác, rồi cha Bề trên Sáng làm chánh sự đưa xác, có hai Đức cha, các cha tây nam nhà dòng nhà phước viên quan tây nam và bổn đạo đồng đưa linh cửu cha lên lăng Cha Cả mà an táng tại đất thánh các cha Dòng sai.

Đức cha Dreyer, Khâm Sứ Tòa Thánh tại Huế, vừa đặng tin cha Laurent li trần, thì liền gởi dây thép vô mà chia phần tang chế cùng địa phận Saigon. Đức cha Gioan Baotixita Tòng ở Phát-diệm cũng có gởi dây thép cho cha Bênêditô Cậy, xin thông phần đau đớn với bổn đạo và nhà phước Chợ-quán. Mới đây bên địa phận Saint-Dié, cố chính có gởi thơ nói rằng: vừa đặng tin cha Camille Laurent qua đời, thì đã đăng trong tờ báo của địa phận, Semaine Religieuse, mà xin cầu nguyện cho linh hồn cha. Sau hết trong thơ cố chính có thêm câu nầy: Các Bà phước và những bịnh tật ở nhà thương Ông thánh Giuse, sẽ nhớ cầu nguyện cách riêng cho kẻ làm ơn lành cho nhà thương nầy. Vốn cái nhà thương St Joseph nầy, xưa là nhà của cha mẹ cha Laurent, đến sau khi cha mẹ người qua đời rồi, trối lại cái nhà đó cho cha, Một ít lâu trước khi cha qua đời, thì cha dung để làm nhà thương nuôi bịnh, và lấy tên là nhà thương ông thánh Giuse.

Kẻ đọc hạnh nầy khá xin đôi khi nhớ nguyện cầu cho linh hồn cha đặng chóng mau lên nơi tiêu sái...

Lạy Đức Chúa Giêsu nhơn từ, xin cho linh hồn thầy Camille đặng lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng Amen.

(Chung.)

P. V.

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1934

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2022

Hạnh tích Cha Phêrô Nguyễn Khắc Cần

 HẠNH TÍCH CHA PHÊRÔ CẦN

--------------------

Cha Phêrô Nguyễn-khắc-Cần, quê quán họ Cái mơng, sinh ra lối tháng Août, năm 1880, cách vài bữa cha mẹ đem chịu phép Rửa tội; cha Phaolồ Nhượng ở giúp cha Bề trên Quí khi ấy, đã ban phép Rửa tội cho Phêrô nầy.

Cha người là ông Tađêô Nguyễn-văn-Triệu, qua đời năm 1908, khi người làm Thầy tư.

Mẹ người là bà Anê Trần-thị-Kiểng, nay đã già cả lớn tuổi, mà hãy còn sức khỏe. Hai ông bà đạo đức, sanh đặng năm người con: Phêrô nầy là thứ ba, em gái thứ tư, là Dì Kiệm, dưng mình cho Chúa ở Nhà phước Cái mơng.

Năm 1893, khi Phêrô vừa 12 tuổi, thì đặng cha Bề trên Quí chọn cho đi nhà trường Latinh.

Tánh nết Phêrô nhu mì đằm thắm và ít hay nói; luật mẹo nhà trường nắm giữ chín chắn, chẳng thấy người bị quở phạt, như học trò nhỏ, mới vô, chưa quen, hãy còn tính lếu láo ở ngoài; người cứ lo việc mình, chẳng động phạm tới ai, mà trót đời, người hằng giữ tánh ấy luôn. Nói đặng: tánh hạnh Phêrô trót đời thật giấu ẩn kín nhiệm trong Chúa. Vita abscondita cum Christo in Deo.

Còn về sự học hành, trí người tầm thường vừa phải, mà nhờ siêng năng ân cần (rất hợp với tên người) vậy thì hóa ra giỏi, chẳng sút kém anh em bạn học.

Phêrô vào nhà trường đời cha Bề trên Thiriet (Thi), còn đặng hưởng mặt cha lành 3 năm rưỡi, Chúa mới cất cha Bề trên, là ngày 2 Août 1897.

Ở trường nhỏ, trước hết người học với cha Anrê Bửu, kế cha Phaolồ Qui, cha Mathêô Đức (cha sở Hanh thông tây), cha Anrê Đoài. (cha sở Xóm chiếu), cha T. Dufil, cha A. Cransac. (cha sở Thủ đức). Vào trường lớn, người học lớp cách vật với cha A. Mariette, và học sách đoán với cha F. Humbert và cha Bề trên Dumas.

Mấy chức người đã chịu, thì bỡi tay Đức cha Luxiano (Mossard) ban cho, hai lần đầu hết người chịu tại nhà trường, còn mấy lần sau, thì chịu tại nhà thờ chánh Saigon: Ngày mồng 2 Mars 1912 Phêrô thăng quờn chánh tế.

Cha Phêrô nầy là thầy cả út đời cha Bề trên Gernot (Quí), người chịu chức, về làm lễ Vinh qui, cách vài tháng (26 Mai 1912) thì cha Bề trên tạ thế. Đầu hết khi cha Phêrô mới lãnh quyền Linh mục. thì Đức cha sai người ở phó cha sở Thị nghè, và coi giúp nhà thương đó chừng một năm rưỡi. Ngày 20 Novembre 1913, người đổi về Tân định hơn 3 tháng, kế tháng Mars 1914, Đức cha dạy người đi coi họ Bông bót, và một họ ngánh nữa là Kinh Long hội, hai họ cách xa nhau, đi ghe một ngày đàng mới tới, nhằm lúc mưa gió, thì càng gian nan hơn nữa, dầu vậy người chẳng bỏ con chiên chịu thiệt phần thiêng liêng bao giờ. Khi người mới về Bông bót, nhà ở su sơ xịt xạc, còn nhà thờ cũng vậy, lại lâu đời, đã gần hư. Đầu hết người lo cất nhà ở, đoạn cất nhà thờ, hai nhà, ai thấy cũng khen, thật là chắc chắn, tốt đẹp và xứng đáng. Hai việc ấy nói đặng là cả thể, người ở đó 9 năm, mảng lo hai mối việc ấy. Lại có sự nầy rất đáng khen: là khi người cất nhà thờ gần xong, Đức cha sai người đi Cái đôi, người chẳng tỏ dấu chi phiền lòng, một hăm hở vưng lời Bề trên ra đi, bổn đạo Bông bót hết lòng tríu mến, thấy nhà thờ, nhà cha ở, thì nhắc nhở cha Phêrô hoài.

Năm 1923 người vưng lịnh Đức cha vô coi họ Cái đôi cho đến ngày tử định, gần đặng 5 năm.

Cha Phêrô sức lực mạnh mẽ không thấy đau bao giờ. Mà cuối năm ngoái, lối tháng Décembre, bịnh khởi, ban đầu tháo dạ, phát nóng lạnh như tuồng cảm, lói lói nơi ngực, và xóc xói bên hông.

Tưởng là bịnh thường, cha Phêrô đi Trà Vinh uống thuốc sơ sơ vậy, chẳng dè trượng bịnh, Pleurésie: (tấm da màn bao lá phổi, ban đầu nóng, rồi sưng lên, nếu không lo thuốc cho kịp, thì nó ra nước và làm mủ.)

Cha Phêrô càng ngày càng mỏn sức, bịnh càng thúc tới; đến tuần thánh, cha liệt, ngày thứ năm lễ Truyền Phép, cha rán làm lễ đặng, mà đó là lễ sau hết của người. Ngày lễ Phục Sinh Cha Phêrô cũng tính rán làm lễ, mà mệt đuối, làm chẳng nổi. Liền cho kẻ đi rước cha sở họ Chà và xuống. Cha David lo lắng mọi nỗi, mướn xe chở cha Phêrô lên, để nằm nhà thương nhà trường, là ngày 12 Avril.

Cho rước ông Docteur Vielle, quan thầy khán coi, đoán bịnh nặng lắm, tại trễ quá, điều trị sợ không kịp. Bữa sau quan thầy chít, thấy ra nước mà thôi, không có mủ máu gì, nên quan thầy nói như vậy thì có lẽ trông, mà chưa dám chắc. Cha Phêrô khỏe lại đặng ít ngày kế làm mệt lại, quan thầy rọi coi, thấy bịnh thêm nhiều. Chít, ra nào nước, nào mủ máu trộn trạo. Quan thầy nói bịnh nầy rất hiểm nguy có lẽ cha chết thình lình và kíp mau lắm. Nên cha Bề trên Delignon làm phép Xức dầu thánh cho người, nhằm ngày 17 Avril.

Khi cha Phêrô ra đi Saigon dưỡng bịnh, bổn đạo Cái đôi ai ai cũng đều thảm não, ở nhà hằng bữa nguyện cầu cho cha mau mau mạnh hầu trở về cùng đoàn chiên, dầu đàng xa cách trở, mà hễ ít bữa, thì thay phiên nhau lên thăm viếng. Từ khi đặng tin cha Phêrô qua đời, thì sự con chiên thương khóc kẻ chăn, nói sao cho cùng.

Thảm thay! Địa phận Saigon, mới mất hai cha, cha Henri Barré và cha Carôlô Thạnh, lòng còn ngùi ngùi thương tiếc, bây giờ lại thêm một cha đi nữa, đoàn chiên thốn thiếu kẻ chăn, gánh Đức cha nặng nề khó nỗi! Hằng bữa Đức cha vô ra thăm viếng cha Phêrô. Sẵn lúc Đức cha Khâm mạng ghé Saigon, đi phong chức Đức cha phó Nam vang; Đấng Khâm mạng chẳng nệ đi với Đức cha mình vô thăm cha Phêrô nhiều lần, và ban phép lành. Các cha ở mấy họ xung quanh, nhứt là mấy cha nhà trường, lại bổn đạo quen biết, và bà con thân thuộc hằng đến viếng thăm liên tiếp. Thầy thuốc thấy thế gian vô phương cầu cứu, bèn chạy đến ơn trên: ai nấy hiệp nhau cầu nguyện, kêu xin bà thánh Têrêxa Chúa Giêsu Hài đồng, và các thánh Tử đạo, nhứt là ông thánh Minh, ông thánh Gẫm, xin cho cha Phêrô thuyên bịnh.

Song Thánh ý Chúa sâu nhiệm vô cùng, Chúa ban ơn khác cho cha Phêrô, là ơn chết lành trong tay Đức Mẹ.

Dầu người biết ai nấy cầu nguyện cho mình, và mình thì đeo hài cốt bà thánh Têrêxa, và các thánh Tử đạo, mà người dọn mình chết, cả lòng tế lễ mạng sống theo ý Chúa, chẳng tỏ dấu chi tiếc mạng sống cùng sự gì ở đời, mặt mày bằng tịnh vui vẻ, ai thăm, thấy cứ mỉn cười, cám ơn và xin cầu nguyện cho mình. Trót lúc đau đớn, nhứt là 2 tuần sau hết, bịnh hành càng cực lực, sưng dấy thân mình từ ngực sấp lên, làm như ngột nghẹt đâu trong, thở tấm tức nửa hơi vậy, phải nằm một bên mà thôi, mõi mê lắm, mà người chẳng phàn nàn, rên siết bao giờ, quan thầy lấy làm lạ lòng nhịn nhục, và khen sự can đảm chịu khó của người lắm.

Ba Bà phước ở giúp nhà trường, thay phiên lo lắng cho cha Phêrô mọi nỗi, nên cha Phêrô hết lòng biết ơn, có một lần khóc. Bà Amée thấy hỏi: Sao nay cha buồn vậy? Người rằng: Tôi đau lâu, làm cực cho bà lắm. Đoạn cha Phêrô xin bà Amée đưa lại cái bóp tiền, đã gởi bà cất giùm bữa mới đến. Bà Amée đi lấy đưa lại cho cha, thì cha Phêrô lấy tiền, gởi xin các cha làm lễ cho mình chết lành.

Ngày 4 Mai, nhằm thứ sáu đầu tháng, lối 11 giờ trưa, bịnh trở, làm xung. Cha Bề trên cùng các cha nhà trường xuống đọc kinh Đưa, cha Phêrô tỉnh táo thưa kinh rõ ràng. Tối bữa đó, 8 giờ học trò ra trước núi hát kinh làm tháng Đức Mẹ. Cha Phêrô nghe hát bài: 0 Mère chérie! place moi, un jour dans la Patrie, près de Toi. (Lạy Mẹ dấu yêu, ngày nào Chúa định, xin Mẹ đem con về quê thật. chầu gần bên Mẹ.) Người mừng rỡ lạ lùng, dứt bài hát, người kêu bà Amée mà nói rằng: Bài hát nầy, cho tôi thì gần lắm, Bà! Đêm ấy bà Amée thấy bịnh êm một chút, thì bà xuống nghỉ. Sáng 4 giờ rưỡi bà Amée lên thang, nghe kêu giựt giọng: Bà, bà! bà Amée lật đật bước lên, vô thấy mặt cha Phêrô đổi sắc, mà còn tỉnh lắm. Bà Amée nói rằng: Nè cha, bữa nay thứ bảy, Đức Mẹ rước cha, nghe cha? cha Phêrô gặc đầu trả lời: Có lẽ lắm, bà! Rồi nhắm mắt tắt hơi cách êm ái, trước 5 giờ sáng ngày mồng 5 Mai 1928, trong tháng Đức Mẹ.

Bà Amée liền sai kẻ đi thưa cha Bề trên và các cha nhà trường hay, vừa đúng giờ làm lễ, nên cha Phêrô đặng phước hưởng mấy lễ Hối tử tức thì. Sẵn bữa đó dọn nhà thờ đặng hát lễ cho mấy cha nhà trường đã qua đời, thì cha Bề trên dời bữa khác, để ngày ấy hát lễ Hối tử cho cha Phêrô.

Lo mặc áo lễ cho cha, và khi đã sắp đặt mọi sự xong, thì liệm xác để tại phòng khách lớn nhà trường, các Thầy thay phiên canh xác, bổn đạo xung quanh Saigon, nhứt là bà con cùng kẻ quen biết vô ra viếng xác, cho đến chiều Chúa nhựt.

Ngày 6 Mai, 4 giờ rưỡi chiều Chúa nhựt đó, cha Bề trên và các thầy nhà trường ra rước xác cha Phêrô vào nhà thờ, hát kinh (Vesperas Defunctorum) rồi Đức cha làm phép xác. Đoạn Đức cha, các cha, đặng 36 đấng, có bà thân mẫu cùng bà con cha Phêrô, lại nhiều bổn đạo đưa linh cửu cha Phêrô lên Chí Hòa, nơi đất thánh các Linh mục bổn quốc. Cha Bề trên làm phép huyệt.

Kế có ông Đốc Tuấn thay mặt bà thân mẫu cùng bà con cha Phêrô. ra giữa nói ít lời, tạ ơn trước là Đức cha, cha Bề trên và các cha, sau là những kẻ có lòng thương mến, giúp đỡ, thăm viếng cha Phêrô lúc đau ốm, nhứt là chẳng nệ khó nhọc đi đưa xác cha Phêrô mà an táng nơi xa xuôi làm vậy. Cha Phêrô nằm kề một bên phần mộ cha Anrê Bửu, là thầy dạy đầu hết khi cha Phêrô mới vào nhà trường, thật chẳng mấy ai mà đặng trọn ngãi thầy trò như vậy.

Khi huờn tất, ai nấy lần lần lui về, còn rốt lại một bà lão mão. chẳng rời nơi huyệt, nước mắt tuôn xuống dầm dề, ấy là bà thân mẫu cha Phêrô.

Ai đặng con làm thầy cả, mà chẳng trông con làm lễ cho mình, khi mình mãn phần? Bà thân mẫu cha Phêrô thấy mình già cả gần miền, mà con vội vàng đi trước, âu đó là sự làm tủi lòng bà hơn hết. Song ớ Bà! Phần cha Phêrô, người về cùng Chúa, thì cầu nguyện cho bà, mà lời cầu nguyện ấy, nói đặng, đẹp lòng Chúa và đắt hơn lời cầu kẻ còn ở thế. Phần bà, bà đã tế lễ cha Phêrô hai lần: lần thứ nhứt là dưng người làm thầy cả giúp việc Chúa, và lần sau nầy. Chúa đòi cha Phêrô, bà liền vưng theo thánh ý Chúa, mà tế lễ mạng sống người cho Chúa, vưng theo ý Chúa như vậy là phần nhứt và rất đẹp lòng Chúa, chẳng có của lễ nào trọng cho bằng. Vậy công nghiệp rất lớn dường ấy, Chúa chẳng để bà chịu thiệt phần sau đâu. Xin bà cả lòng trông cậy Chúa. Đức cha và các cha làm lễ cho cha Phêrô, lại bổn đạo các họ trong cả và Địa phận đọc kinh cầu lễ cho cha, thảy đều thương tiếc người, và chia sự ưu sầu với bà, xin bà khấng nhậm.

Ớ cha Phêrô yêu dấu! sự cha hết lòng ao ước ở kề một bên Đức Mẹ, trông cậy nay cha đã đặng phỉ nguyền. Xin cha chớ quên chúng tôi là bạn thầy cả với cha đang còn lặng lội nơi biển hiểm thế nầy, hằng bữa hằng cầu Mẹ lành hộ vực chúng tôi bây giờ, hầu ngày sau đặng hiệp vầy cùng nhau bên Mẹ đời đời.

Lạy Đ C G nhơn từ, xin cho linh hồn thầy Phêrô đặng nghỉ ngơi đời đời.

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1928

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2022

Tích hạnh Cha Henri Barré (Thiên)

 LƯỢC SƠ TÍCH HẠNH CHA HENRI BARRÉ

đã qua đời tại Phan thiết ngày mồng 9 Avril 1928

(Notice biographique du R. P. Henri Barré)

------------------

Cha Henri Barré

Hôm sáng mồng 10 Avril 1928 điển tín tại Phanthiết đưa vô Saigon một tin rất buồn thảm làm cho hàng đạc đức Nam-kỳ cùng cả trường Latinh Saigon sững sờ và cảm động vô hồi là cha Barré và cha Thạnh bị chết đuối.

Khi được tin nầy các cha liên thông cho bổn đạo hay thì ai ai cũng đem lòng thương tiếc hai cha còn trẻ tuổi, đang thì sức lực bị cơn rủi ro thình lình mà phải vong mạng.

Cha Henri Jules Marie Barré (Thiên) linh mục dòng sai Paris, sinh ra tại kinh thành Paris ngày 24 Novembre 1884 cùng đã chịu phép rửa tội tại nhà thờ họ Saint Jacques du Haut Pas. Thân phụ người là ông Marie Georges Barré, và bà sanh mẫu người là Marie Emilie Caron, hai ông bà nay còn song toàn. Còn người em ruột thì làm quan ba tại xứ Tunisie (Afrique). Thương thay!! Khi ông bà đặng tin rất thê thảm con dấu yêu đã li trần, thì lòng hai ông bà đau đớn thiết tha là dường nào! Người ăn học tại trường Latinh nhỏ Notre-Dame des Champs Paris và trổi tiếng thông minh. Người đã ứng thí 2 phần khoa tú tài văn chương, (Deux parties du Baccalauréat ès-lettres) mà đã chiếm được cấp bằng cả hai.

Sau người vào nhà trường Dòng sai cùng đã chịu chức linh mục ngày mồng 6 Mars 1909, chưa đúng 25 tuổi trọn.

Chịu chức đoạn Bề trên định cha qua địa phận Nam-kỳ, ngày 21 tháng Avril người từ giã cha mẹ, họ hàng cùng quê hương mà sang Nam Việt. Người đến Saigon ngày 20 Mai 1900, qua tháng Juin Đức cha sai người lên Tha la học tiếng Annam, học đặng một năm rồi, lối tháng Juin năm sau là 1910 Đức cha đổi người xuống Cái mơng giúp cha Bề trên Gernot (Quí); tháng Avril năm 1911 người đổi ra họ Kim ngọc, lúc coi sóc họ nầy thì người đã gởi cha Phêrô Tiên vào trường Latinh Saigon. Qua tháng Avril 1912 thì người lãnh họ Ma Ó và Phan Rý cho đến tháng Mai 1913 thì Đức cha đổi người về trường Latinh Saigon làm giáo sư.

Lúc giặc Âu-châu nổi lên thì cha phải ra tùng binh và coi sóc nhà thương binh tại Saigon. Qua tháng Septembre 1916 thì người phải tùng binh mà sang Đại-pháp.

Khi yên giặc bên Âu-châu rồi thì người lại trở qua Saigon lối tháng Août năm 1919 và lãnh chức Giáo sư trường Latinh cho đến ngày nay. Năm 1920 tháng Mars thì người lãnh lại việc coi sóc nhà thương binh cho đến ngày qua đời. Cha cũng coi sóc giúp đỡ nhà phước Kín Saigon lâu năm..

Cha Henri Barré bổn tánh vui vẻ, bặt thiệp cùng nhiều tài năng lại thêm sức lực mạnh mẽ. Cha ở họ nào thì ai ai cũng ưa cùng đem lòng thương mến.

Cha trổi tiếng thông thái vì đã giảng bài tiếng Pháp một đôi khi lễ lớn, như cha đã giảng lễ bà thánh Jeanne d'Arc tại nhà thờ chánh Saigon cùng ít lễ khác...

Cha cũng có tài nghề khéo vẽ; cha đã vẽ một bức họa đồ lớn các họ có đạo địa phận Saigon mà gởi đến Rôma đấu xảo tại đền Vaticanô cách ba năm nay. Đầu năm nay cha cũng vẽ lại một tấm họa đồ khác cho Đức cha như bức họa đồ đã gởi qua Rôma, bức họa đồ nầy nay để tại dinh Giám mục Saigon.

Đây xin nhắc lại một tích về đức nhịn nhục của cha Henri. Số là có kẻ kiêu căng buông lời lỗ mãng với cha trước mặt đô hội thiên hạ, song cha bằng tịnh chẳng tỏ chút chi oán giận mà đối đáp với kẻ đã xi mạ người, thật đáng khen lòng nhịn nhục của cha.

Cha Henri có đức ái nhơn như kỉ. Cha thương mến hết mọi người, cùng hay làm phước bố thí, khi ai thốn thiếu vật chi mà chạy tới xin người giúp đỡ thì người tận tình vui lòng mà giúp chẳng mấy khi từ chối.

Nên bổn đạo mấy họ người đã coi sóc cùng học trò Latinh các lớp người đã dạy trong mấy năm đều mến thương người như con trìu mến cha lành vậy. Nhiều kẻ đã thọ ơn người chứng minh đều ấy.

Cha Barré chưa đúng 44 tuổi trọn, làm thầy cả được 19 năm chẵn, người đương phấn phát làm việc bổn phận, lại đang khỏe mạnh cùng vui vẻ mà hỡi ôi! Bỗng liền nghe tin cha vội lìa cõi trần, thì ai ai cũng sửng sờ dường như giấc chiêm bao vậy. Số là sáng ngày thứ ba sau lễ Phục sinh (10 Avril) là ngày cha Phêrô Tiên làm lễ Vinh qui tại họ Kim ngọc cách xa Phan thiết chừng 6, 7 cây số.

Cha Tiên nầy quê quán ở tại Kim ngọc là người chính mình cha Barré đã cho đi nhà trường Latinh như đã nói trên. Đến ngày nay chính mắt cha đã thấy kẻ yêu dấu mình bao bọc bấy lâu được vào hàng chánh tế, thì lòng cha khấp khởi hỉ hoan là dường nào. Một mình Đ C T thấu rõ sự ấy mà thôi, chính cha Barré đã xuất tiền bạc mà lo cuộc lễ Vinh qui cha mới cùng mời các cha dến dự lễ, lại cha đã dọn bài sẵn hầu giảng bữa cha mới hành lễ tại Kim ngọc như ý cha sở nguyện. Song thương ôi ! L'homme propose et Dieu dispose. Cha tính vậy, song ý Chúa nhiệm mầu định thể khác, ai hầu thấu đặng. Ngày lễ Phục sinh trước bữa xuất hành ra Phanthiết thì cha Barré đã ra tại nhà gare Saigon mà căn dặn trước, ngày mai sẽ có mấy cha trên xe cùng bảo dọn cơm nước cho tử tế cho các cha dùng bữa, vì sợ hành khách đông mà các cha phải cực lòng. Thật cha tận tình lo hết mọi đều cho vui lòng các cha.

Qua sáng ngày thứ hai (9 Avril) khi các cha đến nhà Gare Saigon, tới giờ xe chạy, mà chẳng thấy cha Barré, cha hụt xe nên phải tạm một ô tô đưa cha lên Gare Biên hòa cho kịp. Cha lên xe hiệp vầy truyện vãn vui vẻ với các cha, thì cha lấy làm hân hoan mà nói với các cha lời nầy rằng: người thế gian có con thì lo cho con, có của thì để lại cho nó, còn phần tôi đây thì có cha Tiên là con thiêng liêng mà cũng là con một của tôi.

Nay tôi thấy con tôi được lên quờn linh mục thì lòng tôi khấp khởi vui mừng không biết nói làm sao cho phỉ tình.

Cha Phêrô Nguyễn Vĩnh Tiên

Khi xuống Gare Phanthiết cha vừa thấy mặt bà già cha Tiên chực rước con tại nhà Gare thì cha mừng rỡ, liền trao cho bà một lời thiết yếu dường như lời trối sau hết: “Nầy bà, con bà đây, khi xưa còn nhỏ thì chính tôi đem vào tới nhà trường Latinh, nay người được lên quờn chánh tế, thì tôi cũng đưa người về tới nơi mà giao lại cho bà.” Cách ít giờ sau việc rủi ro xảy tới cách nào mà cha phải vong mạng thì đã thuật trong báo N. K. Đ. P. số 990 ngày 19 Avril tuần trước.

Khi đặng tin cha qua đời thì nhiều quan liền gởi thơ cho Đức giám mục Saigon mà thông phần thảm não cùng Đức cha. Lại ngày 18 Avril 7 giờ ban mai, khi Đức cha làm lễ hát trọng thể cầu cho cha Barré tại nhà thờ chánh Saigon thì có các quan cựu chiến sĩ và bàn trị sự y khoa đến chầu lễ. Ấy là một dấu rõ ràng cha Henri là vị linh mục đặng nhiều quan yêu trọng cùng thương tiếc nên mới đến dự lễ đông đến như vậy.

Cha Barré ưa hạp xứ Phanthiết lắm, hễ tới bãi trường, tháng nghỉ năm nào thì cha cũng ra Phanthiết ở đó một tháng, ít là đôi tuần nghỉ cho bổ sức.

Nay đến giờ tử định thì cha cũng gởi xác nằm nghỉ tại Phan thiết mà chờ ngày sống lại hiển vinh đời đời.

Nay tôi vâng lịnh đấng Bề trên dạy mà tạm đôi hàng đơn sơ doãn lại công đức cha Henri Barré cho quí vị đặng tường tri hầu đem lòng cám mến và giúp lời cầu nguyện cho linh hồn thầy Henri kíp vào nơi cõi thọ.

Huỳnh Công

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1928