ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Bảy, 8 tháng 10, 2022

Họ Vĩnh Long

 KỂ LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ

ĐỊA PHẬN NAM KỲ

-------------------

ĐỊA SỞ HỌ VĨNH LONG

-------------------

HỌ VĨNH LONG

------------------

Gốc lập họ.

Họ Vĩnh Long thuở đời cựu trào thì không có, mới lập sau đây, là khi binh Langsa lấy thành Vĩnh Long trong năm 1862..

Tĩnh nầy khi trước kêu là Long Hồ, ở gần bờ một cánh đại giang Mékong, và cái sông Long Hồ, là đàng sông đi lên nước Cao Mên và nước Lào, cho nên là nơi chận đường binh nghịch cùng là đầu mối đàng về thương mãi. Bỡi vậy trong mấy đời hoàng đế cai trị nước An Nam, đều có lập thành lớn và nhiều đồn lũy mà cố thủ tại đó, và là nơi quan tổng đốc trấn nhậm, như chúa cai quản mấy tĩnh về miệt dưới.

Vì cớ ấy cho nên tại châu thành Vĩnh Long đời cựu trào không có bổn đạo ở, vì sợ quan quân bắt bớ; những họ mà đã có đời trước, thì là lập trong mấy chốn xa tĩnh thành, nơi khuất tịch, không cho các quan biết, hầu cho khỏi tra xét bắt bớ cùng đặng dễ bề giữ đạo, Cũng như mấy họ là Cái Mơn, Cái Nhum và Bãi Xan, v. v.

Dầu vậy chớ cũng có một ít người có đạo ở tại Vĩnh Long, hoặc là dân dã hoặc trong lính tráng và trong các quan nữa; lại người ta đã biết đặng hai quan lớn danh tiếng có đạo dòng: Một là ông Trần văn Triệu, làm quan lớn cai binh đời vua Gia Long. Ông nầy gốc ở Cái Nhum, đã theo phò vua Gia Long lúc ngài trốn lánh tị nạn, đến sau chừng ngài tức vị hoàng đế, thì đã thưởng công trả ơn cho ông ấy, đặt người làm quan tổng đốc trấn tĩnh Vĩnh Long. Chừng quan nầy qua đời, thì đã đem xác người về Cái Nhum là xứ sở mà mai táng, nhà nước An Nam đã xây bia mồ người tốt lành, mồ nầy bây giờ hãy còn, ở trong khoảnh đất Nhà Dòng Cái Nhum. Những con cháu quan lớn nầy chắc đã ở luôn tại Vĩnh Long, và bây giờ còn một người cháu gái tên là Trần thị Ngàn.

Quan thứ hai là một ông danh sư lương y, các quan và dân sự ai nấy đều yêu chuộng, dầu mà đang lúc bắt bớ, người hằng cứ vững bền trung tín giữ đạo. Mà hai quan nầy và ít kẻ có đạo khác tuy là trung tín giữ đạo chớ cũng phải giấu lắm, vì nếu vua quan hay được thì không tha tù rạc và hình khổ đâu.

Theo sắc chỉ vua đã ra, dạy các quan phải can tâm bắt cho hết những kẻ giữ đạo ở trong tĩnh; nhứt là các cha, cùng phải cầm ngục tại khám đường; bỡi đó tại Vĩnh Long có nhiều đấng xưng đạo và nhiều thánh tử đạo.

Trong những quan có lòng độc dữ bắt bớ bổn đạo nhặt nhiệm hơn, thì có ông Trương văn Huyện, là tổng đốc Vĩnh Long, đang quyền hành lúc binh Langsa qua Nam Kỳ. Chẳng những quan nầy bắt bớ làm khổ sở cho con nhà có đạo, mà lại người là kẻ nghịch ghen ghét người Langsa lắm, hằng giục bảo dân sự dấy ngụy làm loạn; cho nên Vĩnh Long nên như chính chỗ tập lập quân ngụy, trử nhiều súng ống thuốc đạn, và rãi ra kéo đi đánh phá các nơi.

Khi ấy quan thủy sư Bonard là quan cai binh Langsa tại Saigon, thấy không thể nào mà để ổ ngụy ấy yên được, cho nên mới định tấn binh đánh lấy luôn thành Vĩnh Long. Vậy khi lấy Biên Hòa và Bà Rịa xong rồi, thì quan thuỷ sư đem binh sang tới Vĩnh Long là ngày 20 Mars 1862, kéo binh ngay vô đánh một trận thì hãm thành được, và phen nầy quan thủy sư biết trước, nên đã lo mau mà cứu các bổn đạo bị cầm nhốt trong ngục tại thành, không để cho quân nghịch đốt cháy mà phải chết thiêu như nhiều bổn đạo tại Biên Hòa và Bà Rịa.

Quan thủy sư kéo binh nhập thành và dạy thả các bổn đạo bị cầm trong ngục ra tức thì, ngài lại đem xuống tàu theo ngài mà về Saigon hai dì phước ở Cái Mơn, và nhiều quới chức đã phải gông cùm trăng trói mà xưng đạo Chúa tại khám ấy.

Khi binh Langsa lấy Vĩnh Long rồi, thì trong các nơi khác người giáo hữu phải lo sợ lắm, vì quan quân cựu trốn đi và trả thù hà hiếp bắt bớ kẻ có đạo. Cho nên phần nhiều đã bỏ mấy họ mình ở mà tới trú tại Vĩnh Long đặng gần quan tây binh vực, cho tới chừng lập tờ giao hòa xong là ngày 5 Juin 1862.

Trong tờ giao hòa nầy thì nước Langsa chịu để tĩnh Vĩnh Long lại cho nước An Nam, và dân có đạo đặng phép thong thả mà giữ đạo, không ai đặng hà hiếp bắt buộc sự gì. Vậy trong tĩnh đặng bằng an lại ít lâu, các bổn đạo đã tới trú tại Vĩnh Long ai nấy đều trở về họ mình. Mà cũng có phần nhiều thấy bề vững thế và dễ làm ăn hơn. thì đã ở luôn tại đó. Bỡi vậy cho nên tưởng chắc gốc lập họ Vĩnh Long là khởi sự từ đây.

Truyện tích trong họ.

Khi binh Langsa lấy đặng thành Vĩnh Long rồi, thì đóng giữ đó một ít lâu, cho tới chừng khôi phục các nơi nội tĩnh cho yên hàng. Theo như tích cha Bề trên Quí (P. Gernot) đã kể lại, khi ấy cha Cordier (sau lên làm Giám mục trị Địa phận Nam Vang,) đã theo giúp làm phước làm lễ cho các quan và binh lính Langsa, lại cũng làm thông ngôn nữa; cho nên chính mình cha nầy là kẻ trước hết đã lo lắng cho bổn đạo họ Vĩnh Long mới lập tại đó. Lúc ấy chưa có nhà thờ, nên cha dạy lấy cái đình làm nhà thờ tạm, cho có nơi bổn đạo tựu hội xem lễ đọc kinh, chỗ cái đình nầy cũng gần nhà thờ tại họ bây giờ.

Chừng tờ giao hòa lập xong, thì binh Langsa rút về Saigon, giao tĩnh Vĩnh Long lại cho Nhà nước An Nam; thì cha Cordier thuộc về Địa phận Nam Vang, nên đã trở về địa phận mình. Vậy Đức cha Lefèbvre đã dạy cha Bề trên Guillou ở tại họ Mỹ Tho, coi luôn họ Vĩnh Long, từ đó cho tới năm 1865, cha Bề trên nầy phải đi ghe qua lại Vĩnh Long, đặng làm lễ cùng là ban các phép Bí tích cho bổn đạo.

Trong năm 1866, Đức Cha Gioang (Mgr. Miche) là đấng kế vị cho Đức cha Lefèbvre trở về bên Tây, đã giao cho cha Quí (P. Gernot) ở tại Cái Mơn, coi luôn họ Vĩnh Long.

Lúc ấy vua Tự Đức đã đặt một quan lớn có danh tiếng, là ông Phan thanh Giảng làm tổng đốc Vĩnh Long, người là một trong hai quan sứ thần đã qua nước Langsa mà lập tờ giao hòa. Quan lớn nầy tánh hạnh thanh liêm, ngài biết người phương Tây văn minh thông thái, cho nên đã muốn khuyên bảo con nhà An Nam học chữ tây. Quan nầy cai trị công chính lắm, lo lắng cho dân sự đâu đó đặng yên hàng. Bỡi vậy trong lúc ngài trấn tĩnh Vĩnh Long, thì các bổn đạo khỏi phải khó lòng sự gì hết, đặng bề giữ đạo thong thả, các quan không dám hiếp đáp bắt buộc đều chi. Lại mỗi lần hễ khi cha Quí tới viếng họ, thì quan tổng đốc mời cha đến dùng bữa cùng mình, vì ngài có lòng kính trượng cha lắm. Và chính mình quan tổng đốc cũng đã đi qua Cái Mơn có quân lính hầu hạ rần rộ mà viếng thăm cha Quí, cùng nấy phép cho cha đặng xử các việc trong những người ngoại và có đạo kiện thưa với nhau. Theo trong tờ cha Quí ghi lại, khi ấy bổn đạo tại Vĩnh Long số tới trăm người.

Dầu mà quan tổng đốc nầy có lòng tử tế như vậy, song trong mấy tĩnh là Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên, vì bỡi có mưu sự xúi giục tại triều Huế, cho nên thành ra như ổ ngụy chống nghịch cùng sự cai trị nhà nước Langsa, lại là như nơi cho những kẻ dấy loàn và trộm cướp trú ẩn mà đi phá phách các chỗ khác.

Vậy trong một năm, quan thủy sư de la Grandière đã kêu nài cùng nhà nước An Nam về sự ấy, mà vô ích, trong mấy tĩnh đó cứ làm loạn cùng nhà nước Langsa luôn; quan thủy sư hết sức nhịn nhục, và phải lo lắng cho thuộc địa đặng bình an, nên đã định quyết phải soán hết ba tĩnh dưới mới dứt hậu hoạn. Vậy quan thủy sư đã tin cho các cha ở các họ đặng hay trước, cùng đem binh tới đánh thình lình; quan quân cựu trào không dè, lại cũng biết sức lực binh khí Langsa, cho nên bỏ mà chạy hết không dám đánh cự lại. Trong ngày 19 Juin 1867, binh Langsa đã soán Vĩnh Long, và chính mình quan tổng đốc Phan thanh Giảng chịu hàng giao thành cho quan cai binh Langsa, và ở lại trong thành, vì biết không còn phương gì mà cứu xứ sở cho khỏi tân trào chiếm trị.

Từ đây thì họ Vĩnh Long đã đặng mở mang thêm ra. Có nhiều thầy là cựu học trò Nhà trường Pinăng, đã tới ở tại Vĩnh Long, cùng làm thông ngôn cho quan Langsa, nên nhiều người ngoại, thấy người tây tin và mến kẻ có đạo, thì đã đi vào đạo khá đông. Bỡi vậy cho nên Đức cha Gioang (Mgr. Miche) đã đặt cha Bernard làm cha sở họ Vĩnh Long cùng giúp làm phước cho quan lính đóng tại thành, cha đã lo cất một nhà thờ, vì số bổn đạo càng ngày càng thêm.

Nhà thờ trước hết tại Vĩnh Long thì lấy cây cột của thành cựu phá ra mà làm, trên lợp lá mà thôi, cất tại chỗ bây giờ là nhà mồ côi; kế bên nhà thờ cũng có làm một nhà cho cha ở.

Từ đó thì việc thờ phượng Chúa đặng rỡ ràng hơn, mỗi ngày Chúa nhựt có đủ quan văn, quan võ và lính tráng Langsa hiệp với bổn đạo An Nam mà xem lễ, cho nên là sự oai nghi tốt lành lắm. Lúc ấy có ông trùm Chữ làm đầu trong họ, nhờ người phụ giúp cha sở mà lo lắng các việc, cùng nhờ gương lành người làm, thì bổn đạo trong họ đặng tử tế lắm; đến sau ông trùm Chữ đã trở về quê quán là Sa Đéc, mà họ nầy khi ấy cũng thuộc về sở Vĩnh Long.

Cha Bernard coi họ nầy được chừng một năm mà thôi, qua năm sau là 1868, cha đã qua đời tại họ Biên Hòa.

Đức cha Gioang bèn đặt cha Lễ (P. Le Mée) ở Saigon, xuống làm cha sở họ Vĩnh Long, và cha cai họ nầy gần 10 năm trọn.

Cha Lễ là kẻ chín chắn mực thước hẳn hòi lắm, trước hết cha lo lấy sổ bổn đạo cho biết mỗi nhà là mấy người; cùng lo biên sổ rửa tội, phép hôn phối và kẻ đã qua đời trong một cuốn sổ riêng.

Năm sau là 1869, cha Lễ đã xin nhà nước lập trường học, cùng giao cho các thầy Dòng dạy; có nhiều học trò ngoại tới học tại trường, lần lần đã xin theo đạo, thêm số bổn đạo tại họ. Trường các thầy Dòng dạy đây khi ấy, số học trò quá 200, và đặng bền vững cho tới năm 1881, thì nhà nước bãi các thầy Dòng không để cho dạy nữa, nên các thầy phải trở về Tây.

Cũng trong năm 1869 nhà nước có cất một nhà thương cho các quan và binh lính, cùng giao cho các bà phước Dòng ông thánh Phaolồ coi giúp bịnh; qua năm 1871 nhà nước đã bỏ nhà thương nầy, tới năm 1876 lập lại, và trong năm 1880 nhà nước bãi nhà thương ấy cho tới bây giờ.

Trong năm 1871 cha Lễ (P. Le Mée) đã xin cùng bà nhứt Benjamin, cai các bà dòng ông thánh Phaolồ tại Saigon, lập một nhà mồ côi tại Vĩnh Long, thì trong năm ấy chúc, có các bà đến ở tại họ. Nhà thờ cột cây cất trước hết đã ra chật hẹp quá, nên cha Lễ phải lo cất lại một nhà thờ khác, là nơi gần nhà cha sở bây giờ, trước trại lính mả tà.

Nhà thờ nầy cột cũng bằng cây, song trên lợp ngói; còn nhà thờ cũ và nhà cha ở thì để lại cho các bà làm nhà mồ côi và nuôi con nít kẻ ngoại cho. Đến sau các bà đã mua mấy miếng đất kế cận đó và lập nhà bằng ngói gạch, là nhà mồ côi bây giờ; mỗi năm tại nhà nầy nuôi chừng 50 đứa con nít, và trường họ cũng lập tại đó nữa.

Trong lúc ấy thì đã mở việc lập mấy họ nhỏ trong Địa Sở, là họ Mỹ Điền, Xuân Sơn và Nhơn Phố, cha Lễ có rửa tội cho một ít chầu nhưng trong những họ mới ấy, lại cha cũng có rửa tội cho nhiều người tại Sa Đéc và Cái Bè nữa.

Cha Lễ cai Địa sở Vĩnh Long trong 9 năm tròn, mỗi Chúa nhựt thì cha làm hai lễ, một lễ tại họ, một lễ tại nhà thương binh. Khi ấy tại họ tính được 100 nhà có đạo; mà đến sau có nhiều nhà đã trở về xứ sở mình, là Cái Nhum và Cái Mơng.

Tới năm 1877, cha sở nhà thờ chánh Saigon là cha Lành (P. de Kerlan) sinh thì; cho nên Đức cha Mỷ (Mgr. Colombert) dạy cha Lễ về Saigon, và cha Nam (P. Faron) đang làm phó sở tại Cái Mơng đổi lại coi họ Vĩnh Long.

Cha Nam trong mình yếu, lại không có cha phó ở giúp, song cha cũng hết lòng lo lắng các việc trong họ chánh và mấy họ nhỏ, nên cũng có thêm một ít người chầu nhưng tại An Kiệt (bây giờ kêu là Cai Lộc) và tại Tân Hiệp nữa. Bỡi cha yếu sức nên ở Vĩnh Long làm không đặng. Trong năm 1880 thì cha đổi lên Thủ Dầu Một, và cha Lủy (P. Lizé) coi họ Vĩnh Long cho tới ngày cha qua đời là trong năm 1887.

Cha Lủy vừa nhậm họ thì lấy hết lòng sốt sắng lo cho kẻ ngoại trong Địa sở đặng trở lại, cha đã rửa tội đặng nhiều. Có cha Phong phụ giúp trong năm 1881, và cách sau đó thì cha Quờn; cho nên đã lập thêm nhiều họ nhỏ, là Cái Tàu, Hòa Thuận và Phú An, mấy họ nầy ở phía đông họ Vĩnh Long. Còn phía nam thì giáp với Địa sở Cái Mơng, cha Lủy cũng có lập đặng nhiều họ.

Vậy trong năm 1882 đã rửa tội cho 156 người; năm 1883 đặng thêm 265 người; năm 1884 đặng 248 người, năm 1885 thêm 267 người, và trong năm 1887 đặng 170 người nữa. Trong mấy năm đó bất thuận cho việc mở mang về đạo, vì là lúc nhà nước bãi các thầy Dòng, và bãi tiền bạc phụ cấp giúp cho Nhà chung bấy lâu. Song lòng sốt sắng cha Lủy không kể đến các sự ấy, cha hằng đi viếng mấy họ mới cùng giảng dạy, cho nên mới đặng đem nhiều kẻ ngoại trở lại đạo.

Trong năm 1885, vì các quan tại triều Huế xúi giục, cho nên ngoài Annam phải quân ngụy nổi dậy đốt phá khắp nơi, hơn 2000 bổn đạo phải bị giết; những bổn đạo địa phận Bình Định còn sống thì chạy vào Saigon mà lánh nạn; thì họ Vĩnh Long cũng có chứa nuôi một phần. Cha Hamon dắc những bổn đạo ấy xuống ngụ tại Vĩnh Long, và ở đó trong 2 năm, chừng dẹp yên quân ngụy rồi mới đem nhau trở về Bình Định. Trong lúc ấy thì cha Hamon coi riêng các bổn đạo của mình, và cũng giúp cha Lủy trong việc họ.

Bỡi cha Lủy lắm việc vàn, vì sốt sắng lo mở mang đạo thánh, cho nên phải mệt yếu. Trong năm 1886 cha đi dưỡng bịnh bên Hồng Kông, và đã qua đời tại đó ngày 8 Février 1887.

Lúc cha Lủy vắng mặt, thì cha Hamon thế coi họ trong chừng ít tháng. Chừng cha Lủy qua đời rồi, thì cha Liễu (P. Lallement) đổi lại làm cha sở Vĩnh Long, là trong tháng Avril 1887, cha coi họ nầy luôn cho tới chết là trong năm 1908.

Cha Liễu nhậm Địa sở Vĩnh Long, trước hết cha cũng lo tiếp các việc của cha Lủy, là qui chầu nhưng lập họ mới. Mỗi năm cha xin ba bốn thầy Nhà trường Latinh tới dạy nhiều chỗ có chầu nhưng, lo dọn cho những kẻ ấy chịu phép rửa tội. Còn mấy họ nhỏ lập đã thành, thì có các cha tới ở mà phụ giúp, chia nhau mà lo các việc trong các họ ấy.

Cha Philípphê Quờn ban đầu ở tại Ngã Tư, sau về ở Hồi Xuân cùng coi mấy họ nhánh về Mâng Thít là: Cái Quá, Hiếu Hòa, Diên Nhơn, Hồi Luông, Sa Co và Ông Năm. Trong năm 1887 cha Long tới coi mấy họ phía đông, là Mỹ Điền, Xuân Sơn, Cai Lộc và Cái Muối. Qua năm 1888 cha Havas tới ở tại Ba Kè, nhưng ở đó được một năm mà thôi. Qua năm 1890 cha Dõng (P. Narp) ở họ Ngã Tư và coi luôn mấy họ Bình Dinh, Bình Quới, và Long Hiệp. Cũng trong năm ấy có cha Cường coi mấy họ, là Cái Tàu, Hòa Thuận, Phú An và Tân Hiệp, lúc ấy khắp nơi trong Địa sở có chầu nhưng đông, cho nên tính chung số bổn đạo hết thảy đặng 2500 người. Cha Liễu hết lòng sốt sắng lo cho các nơi, mỗi năm nhiều lần phải đi vãng các họ, xem xét các việc, cùng chỉ bảo các sự.

Dầu mà cha Liễu chăm lo về các họ nhỏ, song cũng hằng lo lắng cho họ chánh Vĩnh Long. Cha đã làm nhà cha sở lại, như còn thấy bây giờ, rồi cho khởi sự lo làm nhà thờ mới, cho rở ràng việc đạo và xứng đáng nơi Chúa ngự. Trong họ của chung thì không có gì cho nên cha phải xin chỗ nầy nơi kia, bổn đạo tại họ và nhiều người ngoại giàu có đều rộng lòng dưng tiền bạc mà làm. Thầy cai tổng Minh là kẻ có thân thế, hết lòng phụ giúp cha trong việc nầy. Vậy đã khởi sự xây dựng nhà thờ trong tháng Avril năm 1889, và cho tới năm 1894 thì mới hoàn thành. Các việc hao tổn giá 12.000$.

Nhà thờ mới Vĩnh Long thiệt là tốt, làm theo kiểu Rôma, bề dài 38 thước, bề ngang 19 thước, bề cao tới 16 thước 7 tấc, kể luôn 2 lầu chuông không có chót tháp. Phía trong thì xem đẹp mắt lắm, vén khéo tốt lành.

Vậy cha Liễu (P. Lallerment) đã lo xây dựng nhà thờ mới tốt lành, các việc đặng an bày là trong năm 1894; nhà thờ thiệt tốt, cha được can tâm toại lòng; song về phần đạo hạnh giáo hữu tại họ, phần nhiều ra trễ nải lạt lẽo, cùng làm gương chẳng lành, cho nên thì cha không đặng lòng vui cho trọn.

Trong lúc ấy nhiều cha phó trong Địa sở đã đổi đi. Trong năm 1893 cha Tân ở tại họ Ngã Tư, sau về lập tại Tân Hiệp. Trong năm 1898 cha Đặng có giúp trong Địa sở ít năm.

Qua năm 1901, Đức Cha Mão (Mgr. Mossard) đặt cha Liễu lên làm Bề trên địa phận, nên làm việc vàn, vậy cha đã để mấy họ nhỏ phía đông là Mỹ Điền, Xuân Sơn lại cho Địa sở họ Cái Mơn, và họ Cái Muối giao cho họ Cái Nhum.

Từ đó thì Địa sở Vĩnh long là mấy họ nhỏ xung quanh tĩnh thành, và mấy họ ở phía nam cho tới Mâng Thít, cùng mấy họ ở phía tây.

Năm 1905 có cha Thiệt tới giúp cha Quờn ở tại Hồi Xuân. Chừng hai cha đổi đi thì cha Ngãi trong năm 1906, và cha Lộ (P. Bellocq) trong năm 1907 ở Hồi Xuân cùng coi luôn mấy họ phía nam tới Mâng Thít; còn cha Tân thì cứ ở Tân Hiệp cùng coi luôn mấy họ là Cái Tàu, Tân Hạnh, Ngã Tư và Bàu Kiến.

Khi Đức Cha Mão về bên Tây là trong năm 1905 thì cha Bề trên Liễu phải lên Saigon mà xem sóc các việc Địa phận, và cha Mẫn (P. Ackerman) thế coi họ Vĩnh Long, trong một năm. Vì khi Đức Cha trở qua thì cha Liễu vội vã trở về coi họ Vĩnh Long như trước, vì lòng cha lìa họ nầy không được, dầu mà có nhiều sự làm cho cha phải cực lòng. Vậy cha coi họ nầy trong ba năm nữa, hằng an ủi khuyên lơn những người trễ nải, cho nên bổn đạo cũng khá hơn. và ai nấy đều bằng lòng cùng thương mến cha. Chẳng hay lối cuối năm 1908, cha phải bịnh đau trong gan, làm cho cha không ăn uống gì được; nên đã lên Saigon vô dưỡng tại nhà thương quan thầy Angier, bịnh không giảm, và trong ngày áp lễ Sinh Nhựt cha đã sinh thì bằng an.

Trong 33 năm cha đã lo việc tông đồ mở mang nước Chúa, ở tại họ Vĩnh Long gần 20 năm.

Cha Bề trên Liễu qua đời rồi thì cha Mẫn (P. Ackermam) làm cha sở họ Vĩnh Long, cho tới khi cha đổi về Bến Tre thì cha Miêng (P. Bellemim), thế coi họ nầy tới bây giờ.

(sẽ tiếp)

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1919

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2022

Sự tích Cha Yves-Marie Guillou (Du)

 SỰ TÍCH CHA DU (P. GUILLOU)

------------------


Cha Yves-Marie Guillou (Du)

Cha Yves-Marie Guillou sinh ra ngày 18 Juin năm 1875, tại Kersaint-Plabennec, trong tĩnh Finistère; đã chịu chức thầy cả tại Nhà trường Dòng Sai, đoạn đi qua xứ Nam Kỳ mà giảng đạo, tới Địa phận là ngày 20 Novembre năm 1900.

Trước hết cha ở giúp tại nhà thờ chánh Saigon, đến đầu năm sau là 1901 cha thế coi nhà thương binh Saigon, đoạn đổi lên Đất Đỏ giúp cho Công (P. Combalbert) mà coi họ Láng Lớn, Xuyên Mộc và Bưng Riềng. Qua tháng Mai năm 1903 thì người đổi xuống Cái Quao, coi họ ấy vài tháng rồi đổi lên Chợ Quán; năm sau là 1904 người làm phó sở họ Tha La, và qua năm 1905 lại làm phó sở họ Thủ Thiêm, cũng có thế coi họ Thủ Dầu Một ít lâu. Tới năm 1906 thì làm cha sở họ Tây Ninh, đoạn làm cha sở họ Tha La kể từ tháng Août năm 1907; qua năm 1909 cha đau nên phải về Tây dưỡng bịnh.

Cha ở giúp họ nào thì bốn đạo lớn nhỏ thảy đều thương mến, vì tánh cha hiền lành dịu dàng và có lòng thương lo lắng cho bổn đạo. Trong “Địa sở họ Tây Ninh” có kể lại về cha Du thế nầy: Người tận tâm tận lực, lên đèo xuống ải, trèo non lặn suối vì con chiên, lo thâu góp những người bổn đạo trôi nổi tứ tán đòi nơi, kẻ ở theo chơn núi, người ra ở theo mé sông Vàm Cỏ. Cha hủy thân cũng bằng thí của, để mua lửa mến Chúa, yêu người, mà đốt cho Tây Ninh đặng sốt lại, vì lúc ấy họ Tây Ninh và mấy họ nhánh xem ra nguội lạnh bê trễ quá. – Bỡi cha những liều mình, chẳng kể tấm thân, gội sương chải gió, vì ham phần rỗi con chiên, nên lần hồi sức lực hao mòn, phần xác yếu bịnh; cha phải vưng ý Bề trên từ giả đoàn chiên đi nghỉ dưỡng bên Hồng Kông. Ở đó ít lâu, thấy bịnh không khá, nên cha phải trở về Tây nhờ thanh khí quê nhà, cho đặng thuyên bịnh cùng bổ sức, hầu trờ qua mà lo việc giúp linh hồn cho nong nả nữa.

Vậy cha Du đã trở về Tây dưỡng bịnh trong năm 1909, cho tới tháng Janvier năm 1911 thì người trở lại Nam Kỳ. Đức cha sai người về họ Tân Định, làm phó sở giúp cha Thượng (P. Génibrel), cùng lãnh coi riêng các việc Nhà in. Trong lúc nầy thì cha hằng sức khỏe luôn, mà lo lắng giúp việc họ cùng cai Nhà in; cho tới khi cha Thượng qua đời, là ngày 25 Mai 1914, thì người lên làm cha sở họ Tân Định, và từ đây thì chúng bịnh của người, là đau ruột, đau gan hay trở đi trở lại nhiều lần. - Mấy năm người làm phó sở Tân Định, ai nấy đều thấy rõ người hết lòng giúp đỡ cha Thượng là thế nào, lúc còn mạnh giỏi và nhứt là hồi cha Thượng ngả bịnh phen sau hết cho tới ngày sinh thì; cha Du chẳng nệ nhọc nhằn mỏi mệt mà xem sóc giúp đỡ tận tình, nói được là dường như con hiếu thảo phải lo lắng cho cha vậy. Thật thì cha Thượng rất có phước, vì gặp đặng một cha phó sở rất trung tín trong mấy năm rốt đời mình. Trong cậy ngày nay hai đấng đã gặp nhau và đang hỉ hoan cùng nhau trên nước thiên đàng.

Từ ngày cha Du lãnh làm cha sở họ Tân Định, thì cha hằng tận tâm tận lực mà lo cho đoàn chiên Chúa, kẻ rối rắm, người nguội lạnh, nhờ gương lành cùng lời cha khuyên bảo dạy dỗ, phần nhiều đã đặng trở lại ăn năn cải quá, gỡ rối xong, cùng đặng vui mừng phần hồn phần xác. Ai nấy đều chúc nguyền cho cha đặng sức khỏe sống lâu, và coi họ Tân Định cho đến mãn đời. - Nhưng mà từ khi cha đau lại, thì bịnh hành đi hành lại luôn, năm bảy tháng đau một kỳ, phải nằm nhà thương; sức lực một ngày một bớt, không còn mạnh mẽ chóng vánh mà lo kham các việc họ cho nổi, nên cha phải bằng lòng xin thôi làm cha sở họ Tân Định, là trong tháng Mars năm 1918, cùng lãnh cai Nhà in mà thôi, nhưng cai Nhà in cũng chẳng đặng bao lâu, vì vừa giáp một năm thì cha đã qua đời tốt lành bình an tại nhà thương quan thầy Angier, ngày 7 Mars 1919.

Lúc đau đớn bịnh hoạn cha hết lòng nhịn nhục chịu vì Chúa. Hằng vui mặt chẳng hề phàn nàn năn nỉ bao giờ. Trong mấy giờ sau hết, bịnh hành thân xác người khốn cực lắm; trong chín mười ngày sau hết thì chẳng khi nào người ngủ đặng chút nào, dầu uống thuốc dầu làm cách nào cũng không đặng. Nhứt là đêm sau rốt người phải trở trăn cực lực quá; khi nằm trên giường, khi xuống ghế dài, cứ đổi chỗ như vậy luôn cho đến chết. Trong khi đó người ra sức ép mình chịu khó. Người than rằng: “Tôi phải chết chắc, song xin một đều là cho tôi đặng sức mà chịu cơn bịnh nhọc nhằn nầy cho bằng lòng; tôi sợ một đều là phải đau đớn quá mà mất sự nhịn nhục chăng!”

Người chẳng sợ chết vì đã dọn mình sẵn luôn. Người xin bà phước giúp kẻ liệt, hễ khi biết chắc người sẽ phải chết thì cho người hay hầu người lo chịu đủ các phép bí tích. Vậy cho nên người đã chịu phép xức dầu sớm cùng chịu đủ các phép trước và đặng tỉnh luôn cho đến giờ sau hết.

Hạnh cha Du tóm lại một đều, là thấy người có lòng mến Chúa chí thiết và thương linh hồn người ta. Nói đặng những bịnh hoạn đau ốm làm cho người phải qua đời sớm, là bỡi tại lo lắng đêm ngày một sự, là đam linh hồn người ta trở lại cùng Chúa. Bỡi đó thiên hạ gọi người là ông thánh.

Bổn đạo họ Tân Định thương tiếc cha Du hết sức; khi cha đau ốm thì đam nhau tới thăm viếng, còn khi chết thì ra sức cầu hồn xin lễ nhiều lắm. Kẻ giàu có thì xin lễ mồ lễ hát liên tiếp, kẻ nghèo và con nít học trò cũng đậu tiền với nhau mà xin lễ cho cha.

Đám xác cha thật rất lớn, có Đức cha Quinton, cha Bề trên Delignon và các cha tây xa gần đều tới. Còn bổn đạo tây nam đều đi đưa hết. - Xác ở nhà thương Angier đem về để trong nhà thờ Tân Định buổi chiều mồng 7 Mars, sáng làm lễ hát. Cả và họ đều tựu đến chật nhà thờ như ngày lễ cả, lễ hát đoạn đưa xác người lên lăng chôn một nơi cùng các cha tây tại lăng Đức cha Vêrô trên Chí Hòa, là ngày mồng 8 Mars. Chưa thấy đám xác cha nào tại Saigon lớn bằng.

Đây là một hai lời vắn tắt kể qua công khó cha; việc phước đức cha bao nhiêu thì một mình Chúa rõ thấu, chắc nay Chúa đã thưởng cha trên nước thiên đàng rồi. Dầu vậy trong họ hằng thương tiếc và cứ xin lễ cho cha luôn, vì nhứt là cho đặng tỏ lòng hiếu thảo cùng cha.

Rày con cái bổn đạo phải cách mặt cha yêu dấu nhơn lành, xin cho đặng noi bề nhơn đức của cha. Xin cha khi tới nước thiên đàng khấng nhớ đến các con trong họ đang còn ở chốn chiến trường, cầu giúp cho chúng con đặng bền lòng giữ nghĩa Chúa, ngõ sau đặng lên một nơi mà cảm tạ ngợi khen Chúa đời đời với cha.

N. K. Đ. P.

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1919

Thứ Tư, 5 tháng 10, 2022

Họ Cái Bè

 KỂ LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ

ĐỊA PHẬN NAM KỲ

-------------------

ĐỊA SỞ HỌ CÁI BÈ (tiếp theo)

-------------------

HỌ TRÀ TÂN

-------------------

Khi cha Vêrô Nhi tùng cha Thu (P. Tournier) mà coi họ Cái Bè (1869-1871) thì đã mua một miếng đất chưa khai phá chừng 15 mẫu tại làng Trà Tân, hạt Mỹ Tho, đất nầy khi ấy là bụi bờ rậm rạp, là nơi cọp beo trú ẩn, cho nên không có ai ở.

Lúc ấy có một người bổn đạo tên là Quan Lê, ở tại cù lao Ngũ Hiệp, ngang Trà Tân, giúp việc cho một người tây, mà phải thôi nên bỏ chỗ nầy, thì cha Nhi biểu qua ở Trà Tân, cùng hứa giúp cho. Vậy người nầy đã đem gia thất số hết thảy 15 người tới lập nhà cữa tại miếng đất cha mua đó, lại cha cũng kêu vài nhà nữa ở rải rác trong miền Cai Lậy tới ở đó, cùng lo khai phá vỡ đất rừng ra, đuổi cọp hùm đi, cũng có bắt đặng một ít con, cho nên lần lần cọp sợ bỏ đi mất; vài nhà ngoại xung quanh đó tới ở tại đất nầy cùng xin vô số chầu nhưng học đạo, có ý trông nhờ quan phủ Lộc binh vực, vì cha Nhi quen lớn với quan phủ. Vậy vòng đất ấy chứa đặng 15 tới 20 gia thất lập nhà ở, và số bổn đạo tại họ kể về cũ và mới là 50 người, cho tới bây giờ thì cũng cầm mực số ấy.

Mà những bổn đạo ở đó khi ấy, thì bây giờ không còn một ai, họ bỏ đi mất hết; vì mỗi năm thì có vài nhà đi, thì vài nhà đạo mới cùng là vài bổn đạo họ khác tới thế số. Những kẻ đã phải bỏ họ mà đi như vậy thường là bỡi cớ ham bài bạc mà sinh nợ nần, rồi cuốn gói đi mất kẻo bị chúng đòi; chớ không phải là tại cớ nghèo nàn; vì ở đó thì làm đủ ăn, đất ruộng cũng thạnh mậu. Nhưng bỡi bài bạc mà phải thua túng, thì lại vay nợ của người ngoại, cho tiền lời nhiều quá; chừng liệu bề trả không nổi thì đề huề thê tử trốn đi nơi khác cho khỏi nợ; bỡi nội miền ấy thiên hạ đều ham bài bạc lắm, ít ai giữ khỏi.

Những bổn đạo tại họ thì ở trong đất nhà thờ mà thôi, ngoài nơi khác thì không có ai có đạo. Thảy đều là đạo mới, nhiều kẻ ở nơi nầy nơi kia tới ngụ đó.

Họ Trà Tân cách xa họ Cái Bè 15 ngàn thước, tại Cái Bè đi qua đó phải đi ghe mà thôi, nước lớn xuôi chèo thì trong chừng 2 giờ thì tới. Mỗi ba tuần thì có cha ở tại Cái Bè qua làm lễ Chúa nhựt, cùng nương dịp mà thăm viếng dạy dỗ những người lớn, và dạy sách phần cho trẻ nhỏ. Tại họ không có trường học, khi cho đồng nhi rước lễ vỡ lòng thì có cha phó tại Cái Bè hay là thầy Nhà trường Latinh tới ở dạy mà thôi.

Nhà thờ tại họ bây giờ, cha Truyền khi còn làm phó sở cho cha Bính (P. Laurent) tại Cái Bè, đã cất trong năm 1904, kiểu annam, dưới có nền xây bằng đá, trên lợp ngói, vách xung quanh bằng ván; làm nhà thờ nầy tốn gần 1000$, bạc tiền ấy là của bổn đạo ngoại quốc đã dưng.

----------------

HỌ CÁI LÁ

----------------

Họ nầy ở tại rạch Cái Lá, cho nên kêu theo tên như vậy, bổn đạo trong hai làng cận đó là làng Hiệp Hòa và Tân Đức, về tĩnh Mỹ Tho, ở Cái Bè qua đó đi đàng sông hay là đàng bộ cũng được, và cách xa chừng một giờ đồng hồ.

Trong năm 1890, có một người ngoại tên là Nguyễn văn Kế, ở tại Hiệp IIòa, bị làng xóm oán hận sao đó, nên đã tới xin cha Bính (P. Laurent) khi ấy là cha sở Cái Bè binh vực. Vậy cha biểu người đó ở giúp việc tại nhà cha nhiều tháng, và nương dịp ấy cha dạy cả gia thất người học đạo, chừng chuyện làng xóm nguôi ngoai rồi thì cha dạy người trở về nhà, lại có cho thầy Nhà trường tới ở dạy người thêm cùng qui chầu nhưng nữa.

Ban đầu thì có chầu nhưng khá nhiều, mà lần lần có ít kẻ thối lui. Nên phải thử lâu, ai bền chí thật lòng muốn vô đạo thì mới cho chịu phép rửa tội.

Vậy qua tháng Janvier năm 1891, cha Bính đã mời cha Bề trên Thi (P. Thiriet) đến làm phép rửa tội cho mấy chầu nhưng đầu hết tại đó, số là 13 người, trong ba gia thất, là nhà Phanxicô Nguyễn văn Kế, nhà anh người và một nhà nữa ở gần đó, làm phép rửa tội tại nhà thờ tạm cất gần nhà Phanxicô Kế, cũng là nơi thầy ở dạy chầu nhưng.

Cũng trong năm ấy (1891) cha Bính mua đặng một miếng đất tại Hiệp Hòa, và cha đã cất một nhà thờ, như cái nhà vuông, trên lợp lá; cùng đem bổn đạo mới chịu phép rửa tội và một ít chầu nhưng về tại đất ấy. Lại trong làng Tân Đức cận đó, cách làng Hiệp Hòa chừng 20 phút, cha cũng mua đặng nhiều mẫu đất và ruộng mà để cho chầu nhưng ở; sau nữa những người mới trở lại, mà có đất riêng, ai ở đất nấy thì cũng nhiều.

Nhờ có thầy Nhà trường Latinh thay đổi mà dạy tại họ Cái Lá luôn nhiều năm, cho nên chầu nhưng đạo mới dễ bề học đạo, và ai siêng năng nghe dạy học kinh và có dấu vững bền thì mới đặng chịu phép rửa tội. Cho nên trong mấy năm, tám lần số chầu nhưng chịu phép rửa tội là 72 người, thì hết thảy còn bền vững và theo sổ năm 1910, số bổn đạo mới tại họ, thêm đặng tới trăm người.

Mỗi tháng thì có cha ở Cái Bè qua làm lễ Chúa nhựt tại Cái Lá một lần, mấy ngày Chúa nhựt khác thì có nhiều bổn đạo đi qua Cái Bè mà xem lễ, đàng cách xa chừng 5 ngàn thước.

Bổn đạo tại Cái Lá thảy đều nghèo, mấy người có điền viên thì đủ ăn mà thôi. Tại họ không có trường học, khi dạy đồng nhi rước lễ bao đồng cùng là chịu phép Xức trán, hay là khi phải dạy chầu nhưng đạo mới thì cha sở Cái Bè cho thầy Nhà trường tới dạy mà thôi.

----------------

HỌ CÁI THIA

----------------

Họ Cái Thia cách xa họ Cái Bè 10 ngàn thước ở phía tây, tại Cái Bè qua đó phải đi ghe mà thôi, và trong chừng 2 giờ thì tới.

Gốc họ nầy đã có là sau khi binh langsa nhập Saigon, và khi đã lấy đặng Mỹ Tho rồi, thì nhà nước cho một tàu trận tới đậu tại Cái Thia, đặng lo ngữ xung quanh đó mà trừ quân ngụy. Lúc ấy có một người có đạo ở tại Cần Lố, là làng còn thuộc về cựu trào, cho nên con nhà giáo hữu phải hiếp đáp bắt bớ, vậy người ấy dắc thê tử tới trú tại Cái Thia cho đặng bình an, quí danh người là Hai, đến sau đã làm ông trùm tại họ, lại là một bổn đạo trước hết trong họ; lần lần có nhiều nhà bổn đạo khác tới đó ở thêm, vì làng xóm tuy ngoại mà tử tế, để cho bổn đạo ở an, số hết thảy có đạo về đó được chừng 70 người, làng cho phép lập một xóm riêng cất nhà cữa mà ở, là nơi họ Cái Thia bây giờ.

Khi ấy cha Thu (P. Tournier) là cha sở tại Cái Nhum, đã coi sóc họ nầy, số bổn đạo cầm mực dự đó, cho tới chừng cha Vêrô Nhi đến coi họ, thì số bổn đạo mới chóng thêm nhiều, và trong cuối năm 1874 thì tính đặng quá số 250 bổn đạo. Thêm nhiều bổn đạo như vậy là bỡi ở mấy nơi khác tới là phần đông hơn, còn người ngoại ở tại đó vô đạo không bao nhiêu, vì trong sổ rửa tội thì số chầu nhưng chịu phép rửa tội không mấy người. Tưởng họ nầy cũng như mấy họ xung quanh Cái Bè, là lúc ấy nhờ có thân thế và danh tiếng quan phủ Lộc, cho nên bổn đạo tuôn đến ở đông.

Cha Vêrô Nhi có lập một trường dạy chữ quốc ngữ và cất một nhà thờ bằng lá tại họ. Tới năm 1879, cha Lộ (P. Launay) cất một nhà thờ khác tốt hơn bằng gạch lợp ngói, nhà thờ nầy bền vững cho tới năm 1900 thì đã cất lại nhà thờ khác, là nhà thờ tại họ bây giờ.

Trong mấy cha tây và annam coi họ Cái Bè, thì có cha Lộ, cha Hòa (P. Greset) và cha Gia hay ở lâu tại họ Cái Thia; cho tới chừng cha Giude Biểu đổi lại và ở quyết tại Cái Thia, là từ năm 1882 cho tới 1894, và cha đã cất nhà thờ và nhà cha sở tại họ. Từ khi cha Giude Biểu đổi đi rồi, thì cha phó sở tại Cái Bè, mỗi tháng qua Cái Thia làm lễ Chúa nhựt hai lần, chớ không có ở luôn tại họ nữa.

Theo sổ trong năm 1901 thì số bổn đạo họ Cái Thia còn có 180 người, cho nên bớt nhiều; ở giữa lộn lạo với người ngoại, cũng có nhiều kẻ bỏ đạo cùng là trễ nải.

Phần nhiều bổn đạo thì ở trong đất nhà thờ, cho nên việc đạo hạnh thì siêng năng cầm mực, ít ai dám trễ lắm; lại phần nhiều thì cũng nghèo nàn. Có ông trùm họ, là thầy Nhi thì khá, ông nầy đã chịu sở tổn các việc mà lo về trường họ.

Nhà thờ tại họ bây giờ xây bằng gạch, trên lợp ngói, đã cất trong năm 1900, cha Bính (P. Laurent) đã lo lắng làm nhà thờ nầy, các công việc tốn hơn 4000$, thầy Nhi đã chịu phân nửa, còn phân nửa là tiền của Nhà chung. Thầy Tôma Nguyễn Văn Nhi gốc ở Búng, cựu học trò Nhà trường Latinh, phải thôi học vì mang bịnh điếc, thầy có giúp dạy trong Địa sở Cái Bè lâu năm, sau đã cưới vợ là trong năm 1880, bạn người là em quan phủ Lộc; có vợ rồi người qua ở tại Cái Thia, mà coi khai phá làm ruộng nương 300 mẫu đất của Nhà chung khẩn tại Mỹ Lợi, đất ruộng nầy thuộc về Địa sở họ Cái Bè.

---------------

HỌ CÁI BÈO

---------------

Họ Cái Bèo, phần cai trị nhà nước thì thuộc về tĩnh Sa Đéc, còn phần đạo thì tùng Địa Sở Cái Bè, ở tại Cái Bè đi ghe qua đó hết một ngày (là trong 12 giờ).

Người có đạo tới ngụ tại Cái Bèo đầu hết tên là Dinh, gốc ở ngoài Annam (Trung Kỳ), chạy giặc Tây Sơn vô Nam Kỳ, cùng ẩn tại Cái Bèo, chỗ người tới ở là nơi họ bây giờ, khi ấy còn rừng bụi, vậy người đã lo khai phá ra mà ở và làm ăn; và bây giờ trong 20 gia thất bổn đạo họ nầy, thảy là bà con cùng là sui gia với người, cách ba bốn đời sanh con cháu ra, gốc bỡi gia thất ông Dinh ấy.

Hồi đời Đức cha Lefèbvre, thì có Antôn Cữu là cháu ông Dinh đã làm biện tại họ nầy, con cháu người có trình cho cha Bính xem cái bằng cấp bằng chữ annam, và có đóng con dấu Đức cha Lefèbvre. Nhà thờ trước hết lại họ, cha Vêrô Nhi đã cất bằng lá, sau cha Hòa (P. Greset) có làm lại cái khác và cũng đã hư, nên cha Bính đã cất lại cái thứ ba, theo kiểu annam, đóng vách bằng ván, trên lợp ngói.

Từ đầu cho tới năm 1870 thì có nhiều cha annam coi sóc họ nầy; sau hết có cha Giacôbê Lập ở họ Cái Đôi cùng qua lại coi họ nầy; cách đó thì nhập về Địa sở Cái Bè. Số bổn đạo chóng thêm và trong năm 1910 tính đặng 120 bổn đạo..

Họ nầy là đạo dòng, cho nên dễ khuyên bảo dạy dỗ lại ai nấy đều ân cần giữ đạo. Nhưng mà người ngoại ở xung quanh không mấy ai trở lại đạo, trong số bổn đạo tại họ không có ai là đạo mới.

Mỗi tháng thì có cha ở Cái Bè tới viếng họ nầy một lần, cùng ở lại vài bữa mà giảng dạy cho đồng nhi, vì tại họ không có trường học, khi phải dọn bao đồng cùng là Xức trán thì cha cho thầy tới dạy mà thôi.

--------------

HỌ CẦN LỐ

--------------

Họ Cần Lố cũng như họ Cái Bèo, là thuộc về tĩnh Sa Đéc, tại Cái Bèo đi ghe qua đó trong 5 giờ thì tới, lại là ở phía đông họ ấy.

Không rõ gốc họ Cần Lố là thế nào, song biết được, là họ nầy đã có trước cơn bắt đạo vua Minh Mạng, khi ấy là một họ sum lắm, vì số bổn đạo quá 500; người ta còn nhắc lại nơi các bổn đạo đã ở khi đó, và bây giờ người ngoại đã soán lấy hết.

Bỡi họ nầy ở gần Cau Lãnh, đàng đi chừng 2 giờ, cho nên các quan annam tại Cau Lãnh biết có bổn đạo ở tại Cần Lố, thì dạy khổ khắc nhiều việc, lại cũng đã bắt nhiều người mà gia hình nữa. Cho nên bổn đạo đã phải trốn đi tứ tán, và phần nhiều tới trú tại họ Cồn Phước (Cù Lao Gieng) họ Bến Trông và họ Bến Dinh (Cù Lao Tây), bây giờ cũng còn nhiều con cháu của những bổn đạo ấy ở trong mấy họ nầy.

Mà cũng có một hai nhà bổn đạo khi ấy không bỏ mà đi xa, trốn trong một chỗ là nơi họ Cần Lố đời nay, những kẻ ấy là tổ phụ các bổn đạo tại họ bây giờ; theo sổ năm 1910 thì số bổn đạo họ Cần Lố được có 60 người mà thôi.

Trước cha Vêrô Nhi coi họ nầy thì có cha Nhơn về sở Cù Lao Gieng lên xuống coi (tưởng là cha Nhơn đã qua đời trong năm 1867); và khi ấy số bổn đạo chừng 30 người. Những người ngoại tại đó khi xưa cũng như bây giờ, không có ai chịu vô đạo, cho nên số bổn đạo có thêm là tại sinh sản lần lần mà thôi.

Cách chừng 25 năm trước, thì bổn đạo tại họ sốt sắng khá lắm, không thua họ Cái Bèo, vì khi ấy nhờ có gương ba ông biện, là biện Gương, biện Quới và biện Nhuần, cả ba đã qua đời; ba ông nầy đồng chịu bắt bớ trong cơn bắt đạo Tự Đức, sau đã giữ đạo chín chắn hẳn hòi lắm, ba ông là trưởng thượng trong ba gia thất, lại là kẻ làm đầu trong họ, cho nên đã lo lắng và làm gương tốt cho giáo hữu tại họ cần siêng việc đạo, dầu họ không có cha ở thường, mà trong bổn đạo đều tử tế. Chừng ba ông nầy qua đời rồi trong họ không còn ai đứng đầu chỉ dẫn nữa, cho nên bổn đạo không còn đặng như trước.

Mỗi tháng thì có cha ở Cái Bè tới làm lễ Chúa Nhựt một lần. Nhà thờ bằng lá, cất trong đất của một bổn đạo. Khi có thầy ở dạy thì các việc trong họ xem ra khá hơn.

---------------

HỌ BẢI CHÀM

---------------

Trong năm 1867, có Vêrô Nguyễn Văn Quới là ông câu họ Bến Trông, về sở Cù Lao Tây, bỡi sự bất bình với các chức họ ấy, cho nên đi dời nhà cữa qua ở tại Bải Chàm, nơi đất của một người bà con ngoại khi ấy đang làm xã trưởng tại làng. Vậy xã trưởng nầy đã xin ông câu Quới rủ thêm vài ba nhà nữa vô ở cho sum, cùng hứa sẽ lo cho có chỗ ở cùng một nơi đặng lập nhà thờ, vậy ông câu bèn rủ được bảy tám nhà có đạo nữa ở Bến Trông theo qua đó, cho nên số bổn đạo ban đầu được chừng 50 người; ai nấy cất nhà cữa xong rồi thì chung nhau lo cất một nhà thờ, đặng có tựu hội mà đọc kinh chung, nhà thờ nầy làm bằng lá cột tre, như nhà vuông vậy.

Vậy đã thành một họ, mà chưa có cha nào biết tới, vì nơi nầy xa xuôi quá, dầu mà là nơi thuộc về Địa Phận Đức Cha Saigon cai, song các cha không hay không biết; mà ở gần Địa Phận Nam Vang, song lại không thuộc về phần Địa Phận ấy, nên các cha trên ấy không soán tới được. Họ nầy phải lẻ loi như vậy cho tới năm 1869. Lúc ấy cha Garignol coi họ Cù Lao Tây, đã gởi thơ cho cha Nhi mà nói cho biết có bổn đạo ở tại Bải Chàm; cha bèn lên đó mà nhậm nhà thờ và số bổn đạo tại họ, và từ đó cho đến bây giờ thì họ Bải Chàm thuộc về Địa sở Cái Bè, đàng đi cách xa chừng 120 ngàn thước.

Đời cha Thể là phó sở cho cha Thiện (P. Noioberne) tại Cái Bè; cha có lên xuống coi họ nầy, cũng có ở tại họ một ít lâu; tới năm 1890 thì cha Phaolồ Thạnh, trước là phó sở cho cha Bính (P. Laurent) tại Cái Bè, sau lên ở luôn tại họ Bải Chàm. Trong năm 1892 cha Thạnh đã lập một trường đầu hết đặng dạy đồng nhi học chữ quốc ngữ, bây giờ cũng còn, mà mỗi năm dạy trong chừng bốn năm tháng mà thôi, mấy tháng khác thì con trẻ mắc giúp cha mẹ việc mùa màng nên không đi học đặng, trường ấy dạy đồng nhi học chữ quốc ngữ mà học kinh phần mà thôi. Trong năm 1887 cha Hòa (P. Greset ) đã có cất một nhà thờ ngói tại họ, cha Thạnh về đó đã lo sửa sang nhà thờ nầy ra cách vển vang lịch sự, nhà thờ làm theo kiểu Annam mà thôi.

Trong mấy năm buổi ban sơ mới lập họ, thì số bổn đạo cầm mực không thêm bớt, mà từ năm 1873, thì mỗi năm có thêm một ít đạo mới, và theo sổ năm 1910 thì số bổn đạo tại họ Bải Chàm được 245 người, nội họ tính được 37 gia thất; cũng có một ít số bổn đạo họ khác tới đó làm ăn, đi về chớ không ở quyết tại họ. .

Bổn đạo họ nầy thì dễ khuyên bảo dạy dỗ, thảy đều biết vưng phục kính nhường chức việc họ, siêng năng việc giữ đạo, không mấy ai dám bỏ xem lễ Chúa Nhựt lễ cả, cùng mùa Phục Sinh.

Phong thổ dễ ở, mà ít dân cư, cho nên không mấy khi có dịp mà rửa tội cho con kẻ ngoại gần chết. Cha Thạnh có cất một nhà cha sở, coi cũng đẹp theo xứ ấy.

Chung về Địa sở Họ Cái Bè

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1919

 

Thứ Ba, 4 tháng 10, 2022

Họ Cái Bè

 KỂ LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ

ĐỊA PHẬN NAM KỲ

-------------------

ĐỊA SỞ HỌ CÁI BÈ

-------------------

HỌ CÁI BÈ

-------------------

Tích truyện lập Họ.

Họ Cái Bè là chánh sở, có cha tây ở cai nội Địa sở, và có hai cha annam giúp coi mấy họ nhỏ..

Cha Vêrô Nhi, cựu cha sở Cầu Kho, khi trước có làm cha phó sở tại Cái Bè, theo những tích cha đã hỏi thăm và biên ký lại, nói họ nầy đã có trong năm 1828, hồi Đức cha Taberd cai trị Địa phận, trong đời vua Minh Mạng, nhà thờ khi ấy lập lối gần nơi cầu sắt lớn, cho nên cũng gần chỗ nhà thờ họ bây giờ. Mà hồi đó cha nào coi họ, và số bổn đạo bao nhiêu thì không rõ đặng. Cho nên không chắc gốc tích họ phải vậy chăng. Song gốc sau đây thì chắc và rõ hơn, là lối năm 1868, có gia thất ông tổng đốc Emmanuel Trần bá Lộc, tới ở tại Cái Bè, và việc lập họ nầy bắt đầu từ đây.

Ông tổng đốc Lộc gốc ở Cù Lao Gieng, cha người là Giude Trần bá Phước, đạo dòng, đã có chịu tù rạc ngục hình mà xưng đức tin mình ra. Khi gia thất người đang ở tại Cù Lao Gieng nghe tin tại Châu Đốc có lịnh bắt đạo, cho nên người đã đề huề thê tử đi lánh nạn, cùng qua ở tại Mỹ Tho, tĩnh nầy khi ấy đã về tay nước Langsa rồi, lại có cha Marc là cha sở cai họ, và cũng làm quan tham biện cai tĩnh nữa. Vậy một người con ông Trần bá Phước là Emmanuel Lộc đã tùng cơ lính nhà nước mới lập, và bỡi người siêng năng, giỏi giắn và can đảm, cho nên đã đặng ban thưởng nhiều phen; và sau đó nhà nước đặt người làm phủ, cùng sai người đi trấn quận Cái Bè. Người bèn đem hết cả gia thất mình xuống ở tại Cái Bè, hết thảy được chừng 15 người, đó là những bổn đạo trước hết tại họ, và nói đặng, những kẻ nầy là kẻ đã lập nên họ còn cho tới bây giờ.

Khi ấy miền Cái Bè theo phần đạo thì thuộc về cha Cái Nhum cai, cho nên cha qua lại một hai khi mà làm phước cho mấy họ là Cái Mây và Cái Thia. Vậy gia thất ông Giude Trần bá Phước đã đến trình diện cùng cha Thu (P. Tournier) là cha sở tại Cái Nhum, nhơn dịp chầu lễ Sinh Nhựt năm 1868. Ông nầy xin cha lập một họ tại Cái Bè, cùng hứa sẽ ra sức mà giúp lo lắng các việc cho thành tựu. Cha Thu thấy người có lòng tốt, lại gia thất người có danh tiếng đạo đức tử tế, và sự thân thế của ông phủ Lộc, cho nên cha bèn nhậm lời, cùng tức thì cho một thầy sáu là thầy Vêrô Nguyễn đức Nhi (sau là cha Vêrô Nhi) đi qua Cái Bè trong ngày ấy với ông Trần bá Phước, đặng lo nhóm hiệp chầu nhưng mà dạy.

Ban đầu thì thầy ở tại nhà quan phủ Lộc, dạy chầu nhưng cũng tại đó, số hết thảy chừng 50 người, sau lần lần thêm đông, cho nên quan phủ Lộc phải lo cất một nhà thờ tạm gần nhà người, là nơi nhà dây thép bây giờ, và quan phủ cũng lo giúp thầy trong mọi việc, lại gương tốt của gia thất người đã làm cho nhiều người ngoại đặng trở lại đạo. Ông Giude Phước là kẻ đạo đức chín chắn lắm, hằng lo coi sóc dạy dỗ con cái cùng làm gương việc lành phước đức, cho nên dần ông phủ Emmanuel Lộc, đã đặng danh tiếng cùng được thưởng nhiều mày đay, song hằng kính phục vưng nghe, mỗi đều cha người khuyên bảo.

Vậy nương các dịp may mắn nầy, mà họ Cái Bè đã lập thành là cuối năm 1869, và tính được 350 bổn đạo. Trong năm ấy cha Thu đã rửa tội cho 338 chầu nhưng.

Cuối năm nầy thì thầy sáu Nhi đã thăng chức thầy cả, và Đức cha Gioang (Mgr. Miche) đã đặt người làm phó sở họ Cái Bè, cha Nhi giúp họ nầy cho tới năm 1874, ban đầu thì tùng cha sở Cái Nhum, sau thì tùng cha Sĩ (P. Simon) đổi lại làm cha sở họ Cái Bè là năm 1871. Trong lúc ấy có một quan tây thay mặt nhà nước ở tại Cái Bè, bỏ chỗ đã ở tạm trước, giao đất lại cho làng, cùng lập nhà nơi khác, chỗ vàm sông. Quan phủ Lộc đã lo xin cùng nhà nước để lại cho nhà thờ miếng đất ấy, và trong năm 1871 người đã cất một cái nhà thờ theo kiểu annam tại chỗ đó, tiền bạc làm nhà thờ thì quan phủ chịu hết, nhà thờ nầy vững bền cho tới năm 1885, sau thì có nhà thờ khác là nhà thờ còn bây giờ.

Trong bốn năm đầu, là lúc cha Sĩ cai họ cho tới cuối năm 1874, mỗi năm thì đều có thêm số bổn đạo mới, dầu mà không được đông như hồi ban sơ, song cũng đáng thạnh sự, cho nên sổ bổn đạo đã tới 500. Phần nhiều trong những đạo mới nầy là hương chức làng, lại là con đỡ đầu của ông Giude Phước và quan phủ Emmanuel Lộc, cho nên hết thảy đều siêng năng và dễ khuyên bảo dạy dỗ.

Kể tiếp các cha coi họ từ năm 1875 tới bây giờ

Cha Sĩ (P. Simon) coi họ Cái Bè từ năm 1871 cho tới năm 1878 thì đổi đi, và cha Thiện (P. Noioberne) đổi lại; từ khi cha nầy coi họ thì số bổn đạo mỗi năm sụt lần, nhiều đạo mới ban đầu thì ra trễ nải sau bỏ đạo luôn, cũng có nhiều gia thất đi làm ăn ở họ khác, còn người ngoại ở đó thì không có ai vô đạo, cho nên số bổn đạo phải bớt lần là bỡi những cớ ấy; theo sổ trong năm 1913 thì số bổn đạo tại họ còn có 180 người.

Ông Giude Phước đã qua đời trong năm 1876, thật người là nền lập nên họ nầy, và cũng nhờ con người là quan phủ Lộc như cột chống đỡ. Chẳng dè sau khi ông Giude Phước chết rồi, thì quan phủ Lộc không còn ai nhủ bảo, cho nên việc đạo hạnh ra bơ thờ, làm nên gương chẳng lành cho những đạo mới; vì những kẻ nầy xem quan phủ như kẻ đứng đầu trong họ, cho nên dầu cha thầy an ủi khuyên bảo thế nào thì những kẻ ấy cũng ít vưng nghe.

Thật thì quan phủ Lộc đã ra lảng xao về việc đạo, song không phải là nghịch bao giờ; người cũng ăn năn trách mình lắm, mà không lo trở lại chín chắn, vì biết rõ một phen mình có lo xưng tội rước lễ cho hẳn hòi, thì phải bỏ cách ở chẳng lành mà làm gương tốt. Nhưng đức tin người hằng bền vững luôn, và tưởng lương tâm người cũng hằng kêu trách. Bỡi vậy cho nên dầu quan Tổng đốc Lộc khi ấy việc đạo hạnh không đặng tử tế bao nhiêu, mà lúc làm nhà thờ mới trong năm 1885, là nhà thờ tại họ bây giờ, thì chính mình quan lớn chịu hết các tiền bạc mà làm, sở tổn gần 10.000 đồng bạc. Kiểu cách xây dựng phía trong nhà thờ, là của quan lớn bày vẽ, người làm tự ý mà thôi, chớ không chịu hỏi han kẻ thạo công việc bày biểu cho sự gì; dầu vậy, dấu tích nhà thờ nầy là chứng lòng rộng rãi của quan Tổng đốc Lộc kính dưng cho Chúa. Bỡi đó cho nên nhờ ơn Chúa thương xem trả công, là khi quan Tổng đốc ngã bịnh mà qua đời, là trong tháng Octobre năm 1899, đã đặng chịu các phép Bí tích cách sốt sắng tử tế lắm.

Cha Thiện ở Cái Bè từ năm 1875 tới 1880, kế cha Lộ (P. Launay) cai họ trong năm 1880; rồi tới cha Hoà (P. Greset) từ năm 1881 tới 1889. Đoạn cha Bính (P. Laurent) đổi lại từ năm 1889 cho tới năm 1913, kế cha đổi lên Chợ Quán, thì cha Lê (P. Adolphe Keller) coi họ từ năm 1913 tới nay.

---------------------

HỌ CÁI MÂY

---------------------

Họ Cái Mây cách xa họ Cái Bè chừng 3 ngàn thước tây, ở tại Cái Bè đi qua đó có ba đàng khác nhau, một là đàng bộ, phải băng qua ruộng, mà mùa nắng khô ráo mới dễ bề đi đàng nầy; hai là đàng bộ ăn vòng theo bờ sông, đàng nầy xa dài quá, lại phải lội qua nhiều nơi đầy những sỏi lôm chôm, khó bề đi đứng cho người Langsa; ba là đi ghe theo đàng sông lớn, và nhà thờ họ Cái Mây ở gần bờ sông.

Bỡi đàng thông thương khó lui tới, nhứt là đời trước, cho nên mới có bổn đạo qui tựu ẩn ánh tại đây trong cơn bắt bớ, vì họ Cái Mây đã có trong đời vua Minh Mạng, và những bổn đạo tới ở đây trước hết thì gốc ở tại Cái Bè, vì ở Cái Bè sợ phải bị bắt bớ; lại cũng có vài nhà bổn đạo trước ở tại Ba Giồng, gần Mỹ Tho, nghe tại Cái Mây có nhiều bổn đạo trú ẩn, và khỏi lo sợ gì, cho nên đã đề huề thê tử tới đó mà ở cho vững; trong những nhà nầy thì có gia thất ông Anrê Trần văn Đạo nên nhắc lại, vì đã giúp nhà chung nhiều việc, và sau ông nầy đã làm ông trùm họ Cái Mây.

Vậy thuở ban sơ mấy nhà có đạo đến trú tại đây thì ở lẻ loi, không có cha nào tới viếng họ; cho tới chừng binh Langsa nhập thành Mỹ Tho rồi, là lối năm 1861; qua lối năm 1862, cha Quí (P. Gernot) khi ấy ở họ Mỹ Tho, đi qua Cái Bè mà thăm mấy quan tây ở tại đó. Bỡi nhờ dịp nầy cha mới gặp đặng bổn đạo ở họ Cái Mây, và cha lo xem sóc họ nầy đặng một ít lâu, kế sau đó thì giao cho cha Thu (P. Tournier) là cha sở họ Cái Nhum coi họ nầy, vì gần hơn.

Qua năm 1871, thì họ Cái Bè là chánh sở mới lập, thì họ Cái Mây thuộc về cha ở Cái Bè cai. Trong đời cha Vêrô Nhi làm phó sở tại Cái Bè, và khi cha Sĩ (P. Simon) đổi lại coi họ, thì số bổn đạo họ Cái Mây còn hi thiểu; mà từ khi có quan phủ Lộc về Cái Bè, thì kẻ ngoại tại họ vô đạo khá đông, trong vài năm thì đã tính đặng 200 bổn đạo. Mà họ nầy cũng giống như họ Cái Bè, là từ khi cha Thiện (P. Noioberne) đổi về Cái Bè thì số bổn đạo bớt lần; song khá hơn Cái Bè: vì một ít đạo mới đã bỏ đạo, thì lần lần có người ngoại khác xin vào đạo, cho nên thì số bổn đạo cũng cầm mực, không có sụt mất như họ Cái Bè.

Những đạo mới họ Cái Mây đặng vững bền giữ đạo tử tế, thật thì bỡi nhờ gương mấy nhà đạo dòng; nhứt là gương của ông trùm họ là Anrê Trần văn Đạo, người đức tin mạnh bạo, giúp các cha nhiều việc, lại người giàu có thân thế, cùng hằng lo lắng cho những người đạo mới, những kẻ nầy thấy gương lành trước mắt, cùng đặng nhờ cậy phần xác, cho nên vui lòng mà giữ đạo tử tế. Chúa đã ban thưởng ông trùm Anrê Đạo, là trong năm người con của ông trùm còn sống bây giờ, hai người trai đã đặng làm thầy cả là cha Phaolồ Trần hiếu Ngãi, và cha Giude Trần hiếu Lễ, đang coi giúp họ tại địa phận; hai người gái đi nhà phước Cái Mơn, là dì Maria Trần thị An và dì Annà Trần thị Son; còn có một người chị thứ hai ở thế gian mà thôi, và có chồng là ông Vêrô Nguyễn văn Minh, làm ông câu họ Cái Mây.

Khi cha Vêrô Nhi ở Cái Bè thì người có cất một nhà thờ bằng lá tại Cái Mây; đến sau, là trong năm 1880, cha Lộ (P. Launay) đã xin nhà nước một phần cây gạch cái toà bố cũ tại Cái Bè, và cha lấy đó mà làm nhà thờ họ Cái Mây lại, xây vách gạch, còn trên lợp lá mà thôi. Nhà thờ nầy bền vững đặng 20 năm. Tới năm 1904, cha Bính (P. Laurent) đã làm một nhà thờ khác bằng gạch trên lợp ngói chắc chắn lâu dài, bổn đạo phụ lực giúp công, lại có nhờ của bố thí cha xin, và nhờ ông câu Minh chịu 1000$. Công cuộc xây dựng nhà thờ nầy tốn hao hết thảy 3000$. Cha Bính ở Cái Bè từ năm 1889 đến 1913, kể là 24 năm, và công khó cực nhiều mà xây dựng nhà thờ họ Cái mây, nên bổn đạo bây giờ cũng còn thương mến cha lắm.

Bổn đạo họ nầy thì sốt sắng, dễ khuyên bảo dạy dỗ; Chúa nhựt Lễ cả thì đi qua Cái Bè mà xem lễ, còn nhà thờ tại họ thì để tựu lại đọc kinh, làm việc tháng Đ. C. Bà, tháng ông thánh Giude và tháng Môi Khôi. Lại thường gần luôn mỗi tuần, hễ ngày thứ năm, thì có cha ở Cái Bè qua làm lễ tại nhà thờ Cái Mây cùng lo rửa tội cho con nít, và ngồi tòa làm phước cho kẻ bịnh hoạn đi qua Cái Bè không được.

Bổn đạo tại họ thảy đều nghèo, trừ ra có một gia thất ông câu Minh thì khá mà thôi.

(Sẽ tiếp)

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1919

Thứ Hai, 3 tháng 10, 2022

Cha Phêrô Trần Cung Viện

 CHA VÊRÔ TRẦN CUNG VIỆN

(1865-1918)

-------------------

Vêrô Trần cung Viện sinh ra tại họ Mặc Bắc năm 1865. Đến tuổi khôn cha mẹ cho vào Nhà trường Latinh Saigon.

Vêrô từ thuở bé tánh nết chơn chất thật thà, nhứt là có tiếng hiền lành nhịn nhục, ai ai đều thương mến, người giữ một lòng nhơn đức hiền lành như vậy cho đến chết chẳng hề đổi. Việc học hành chẳng thua sút ai. Ở nhà trường mấy năm hằng giồi mài kinh sử cùng đặng tấn tới trong đàng nhơn đức càng ngày càng hơn.

Qua năm 1894 người đã thọ quờn chánh tế và ra làm phó sở họ Tân An. Khi đó Cha sở Tân An là Cha Lựu (P. Benoit). Bỡi người có tánh hiền lành nhơn đức nên Cha sở thương yêu người lắm. Ai cũng biết hai người thiệt tình thương yêu nhau như hai anh em ruột. - Năm 1896 Bề trên dạy người ra coi họ Ba Giồng cũng là thuộc về địa sở Tân An. Đến sau Cha Lựu đổi xuống coi họ Chà Và về hạt Trà Vinh, thì kế đó Cha Viện cũng đổi xuống Giồng Rùm cũng là trong sờ Cha Lựu. - Năm 1915 thì Cha đổi đi Rạch Lọp, khi đó Cha Lựu đã khoản rồi. Cha Viện ở Rạch Lọp cho đến khi mang bịnh nặng thì lên dưỡng bịnh tại Chí Hòa cho đến chết cùng táng xác tại đó.

Tánh hiền lành nhịn nhục là nhơn đức riêng của Cha Vêrô Viện. Lúc người còn sức khỏe mà coi họ thì biết đã gặp bao nhiêu sự nhàm lờn cực khổ. Biết mấy lần đã gặp những kẻ kiêu ngạo cứng cỏi làm cực lòng người. Song Cha Vêrô cứ một lòng nhịn nhục ngậm cay ăn đắng, chẳng hề nghe người phàn nàn than thở một lời. Nhứt là lúc bịnh hoạn người càng làm gương nhơn đức nhịn nhục hơn nửa, Hơn hai năm trường người bị một cái ung độc trong miệng đau đớn nhức nhối lắm. Ăn ngủ chẳng đặng. Người có vóc vạc chắc chắn mạnh mẽ lắm; song khi mang bịnh nầy thì ốm o gầy mòn, đến đỗi dầu là các Cha quen biết, khi đến viếng thăm thì nhìn mặt chẳng đặng nữa. Khi lên dưỡng bịnh tại Chí Hòa thì bịnh đã ra nặng lắm. Người quyết lên đó cho đặng thấy mặt các Cha cho có chút sự an ủi.

Đêm ngày nằm thim thíp trên giường, lâu ngày đau đớn liệt nhược không hề trở trăn đặng. Dầu lúc cực lực đau đớn lắm, song khi có Cha nào đến thăm thì người chấp tay kính chào mà tỏ lòng cám ơn lắm. Một sự làm cho động lòng; là thấy Cha dầu đau đớn mệt nhọc hết sức, song cũng vui cười truyện vãn như thể trong mình không đau đớn bịnh hoạn chút nào hết. Ung độc trong miệng làm cho ăn uống không đặng, tay chơn gầy guộc, mặt thì sưng lên, nhức nhói đau đớn, con mắt bên hữu phải hư, hình dạng đổi khác thường; không ai thấy mà cầm lòng đặng. Dầu vậy thấy Cha vui cười, chẳng nghe than thở rên siết chút nào. – Bịnh cứ dủ nhựt dủ tăng, qua ngày 13 Novembre thì người đi lìa thế!

Ớ Cha rất đáng yêu dấu! Ớ thầy cả rất đáng kính! Thấy Cha nằm đau đớn liệt nhược trên giường thì bắt nhớ Đ. C. G. xưa đang hồi chịu nạn trên thánh giá. Bấy lâu cha coi sóc họ nọ họ kia biết bao nhiêu công lao khó nhọc, biết bao nhiêu ơn lành Cha đã làm cho thiên hạ. Mà nay khi Cha nằm một mình đây, ai viếng thăm giúp đỡ Cha? Thấy có một đệ tử tên Son theo giúp đỡ tới cùng, thật đáng khen cho đệ tử rất có công với thầy mình, xin Chúa trả công. - Ớ thầy cả rất đáng thương mến. Hồi Cha nằm đây vắng vẻ hìu quạnh một mình và phải bịnh hoạn hành hà thân xác cực khổ dường ấy, thì sức nào mà Cha chịu đặng? Âu là có ơn riêng Chúa ban cho Cha, chắc dầu phải lìa mặt cách xa con cái, song lòng Cha chẳng hề quên đâu; ắt Cha chịu đau đớn khốn cực như vậy, cho đặng nên như của lễ thượng tiến dưng cho Chúa, cùng cầu xin cho các con cái các họ Cha xem sóc xưa nay.

Ớ người giáo hữu hãy biết thương những đấng coi sóc linh hồn mình Khi sống bỏ hết mọi sự, đêm ngày hằng lo lắng cho ta đặng ấm no bề phước đức, chẳng quản công lao, chẳng sợ khó nhọc. Lại ghe phen còn phải ngậm cay ăn đắng vì con cái. Sống thì lo cho hết mọi người, chết thì một mình như không còn ai tưởng tới. Chớ chi còn có ai thí cho một đôi lễ Misa thì lớn phước là dường nào!

Ớ Cha Vêrô ôi! Tôi thấy Cha nằm trong một quan tài đơn sơ, có tám người khiêng, hòm trần không rạp, cũng như đám xác một người khó khăn vậy, thì lòng tôi đau đớn lắm! Song thương Cha kính Cha và mừng cho Cha hơn, vì đã sống khó khăn và chết khó khăn. Của cải Cha đã gởi trước về nước thiên đàng. Nay Đức Cha phó và anh em thầy cả chúng tôi đưa cho tới huyệt nầy mà từ giả Cha lần sau hết. Xin Cha tạm nghỉ nơi đây đợi trông ngày sau sống lại vang hiển. Chúng tôi sẽ hết lòng cầu nguyện cho Cha, ngày nào Cha tới nước thiên đàng xin nhớ đến anh em chúng tôi và cầu nguyện cho các con chiên Cha - Công nghiệp Cha bao nhiêu một mình Chúa biết, tôi thật chẳng đáng, song xin dưng đôi lời quê vụng mà trọng kính đưa Cha.

Lôsensô

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1918

Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2022

Hạnh tích Cha Giuse Nguyễn Duy Tân

 HẠNH CHA GIUDE NGUYỄN DUY TÂN

(Qua đời tại Vĩnh Long ngày 21 Août 1913)

1855–1913

---------------

Cha Giude Nguyễn Duy Tân sinh tại Mặc Bắc năm 1855. Cha người là người Mặc Bắc, mẹ người là người Giồng Rùm. Hai ông bà cũng đủ ăn đủ mặc, mà nhứt là phần đạo đức thì trổi hơn. Cha người bổn tánh hiền lành lắm, cha Giude Tân cũng có tánh giống như cha người mọi đàng.

Chúa ban phép lành cho hai ông bà nhơn đức nầy sinh đặng bảy người con; con đầu lòng và con áp út chết khi còn thơ ấu, còn lại năm người; hai trai, ba gái; cha Giude là trai lớn, kể theo thứ trong nhà, người là thứ năm.

Thấy trong hạnh các thánh, thì thánh nào cũng tỏ dấu lành khi còn nhỏ; con trẻ Giule nầy cũng vậy; vừa tới tuổi con nít đang ham chơi, thì trẻ nầy chẳng khi nào đi chơi bời xa nhà cha mẹ; thế thường những con nít con nhà nông phu, thì nó ham theo trâu theo bò; ông già cha Giude cũng làm ruộng, có trâu, có bò, mà người chẳng có ham theo giữ trâu bò, đôi khi cha mẹ có biểu thì người vưng lời mà thôi, một ham đi đọc kinh, xem lễ cùng học hành.

Vừa được 15 tuổi, thì người xin cha mẹ cho ở làm học trò cha Bề Trên Minh (Montmayeur), khi ấy làm cha sở họ Mặc Bắc. Cha mẹ nhơn đức không ham để con ở nhà mà nhờ cậy gì, một bằng lòng cùng vui lòng đem con phú thác cho cha sở hầu học hành cùng giúp lễ.

Qua năm 1872 cha Bề trên Minh cho người vào nhà trường Latinh Sài Gòn cùng một ít trẻ khác, khỏi ít năm, mấy trẻ kia xuất thể hết, còn một mình cha Giude Tân bền đổ luôn cho tới cùng, là bước lên bàn chánh tế.

Người chọn cha Favreau, khi ấy giữ việc nhà trường, làm cha linh hồn. Cha Favreau thấy con trẻ nhơn đức, hiền lành, siêng năng thì thương lắm, khi cha về Tây có chụp hình cha với học trò Giude Tân mà đem theo. Trò Giude dầu mà trí chậm một chút, song bỡi siêng năng thì học hành cũng theo kịp chúng bạn.

Qua năm 1877, ông già người qua đời, khi ấy ai ai cũng tưởng người phải bỏ nhà trường, vì hai chị lớn đã có gia cư, còn bà già đơn chiếc; còn hai em: một em trai thì đi nhà trường Cái Nhum, ở nhà còn một em gái mà thôi, cho nên thiên hạ tưởng người phải về mà lo việc nhà; ấy là một chước cám dỗ lớn lắm, kẻ ở nhà Chúa thường gặp; vậy mà Giude cũng vững vàng thắng lướt, ai nói sao mặc ai. Cha Giude Tân khi ở nhà trường thì đã tỏ ra lòng rộng rãi cùng hết mọi người; có vật gì ai xin cũng cho hết, chẳng những là khi ai xin, mà khi người biết ai thiểu hay là ưa vật gì thì người kiếm cùng để dành mà cho, mà cho tới tay thì người vui cười cách lạ lùng lắm, như thể là được sự mình ước ao rồi.

Tháng nghỉ về nhà cha mẹ, là một học trò nết na nhơn đức biết chừng nào, tôi thấy rõ ràng: lúc ấy là đầu năm 1877, tôi cũng dọn mình vào nhà trường Cái Nhum, mà theo trí nhớ tôi hồi đó, tôi tưởng cha Giude Tân là thiên thần rồi, không phải người ta, cho nên tôi theo người luôn mà không nhàm, người dạy tôi từ đều về cách thể ở nhà trường làm sao,

Từ ấy về sau, tháng nghỉ nào tôi cũng thấy người cứ mực thước luôn; xem lễ rồi, thì về giúp việc trong nhà cùng học hành, hễ tới lối 3 giờ chiều thì người đi viếng Mình Thánh Chúa, đi qua thì kêu tôi, tôi có làm gì thì cũng bỏ mà theo người liền, người chầu Chúa lâu dài, nhiều khi tôi đợi người hết sức đến gần tối mới về. Anh em học trò có mời đi thăm nhau và ăn cơm, thì người cũng đi cho bằng lòng anh em, mà tôi hằng liếc coi người mà học sự nết na; rồi việc thì người kiếu về không chịu rà rề lâu giờ. Tánh người hay mắt cỡ một chút cũng có, mà mắt cỡ là khác, còn sự nết na là khác.

Đến chừng người chịu chức làm thầy thì càng tỏ lòng rộng rãi hơn nữa, nhứt là khi đi dạy trong sở, dầu không có chi cho lắm, mà cũng chất lót đặng giúp chầu nhưng; mấy năm sau hết thì người đi dạy trong sở Vĩnh Long luôn.

Năm 1893, ngày 18 tháng Mars người chịu chức thầy cả một lượt cùng cha Anrê Nuôi và cha Anrê Miều. Khi ấy mẹ người cũng đã qua đời rồi; hai ông bà dưng con cho Chúa, mà ý mầu nhiệm Chúa không cho hai ông bà đặng phước thấy con bước lên bàn thờ mà tế lễ, Đức Cha Mĩ (Colombert) cũng sai người xuống sở Vĩnh Long ở giúp cha Bề Trên Liễu (Lallement) một năm, sau thì coi họ Ngã Tư. Từ đây cha Giude Tân đã thuật lại cho tôi nhiều khúc nỗi cay đắng, mà nhứt là sự nghèo cực thiếu thốn, là tại người rộng rãi thương giúp đạo mới nghèo nàn: có bao nhiêu tiền bạc cũng cho, cũng nuôi chầu nhưng dạo mới hết, ngirời không tích trử dành đề tiền bạc gì cho mình: “Qui post aurum non abiti (ECCLI, XXX, 8): Người chẳng mê theo tiền của,”

Đến sau người đổi về họ Tân Hiệp thế cho cha Đặng, người cũng cứ một mực vậy luôn. Nhiều khi tôi thấy người phải thốn thiếu quá, tôi xin người đi Giồng Rùm, vì bà con bên mẹ người là dòng dõi nhơn đức, có nhiều người đi nhà phước: Nhà phước Tây, nhà phước Cái Mơng, nhà phước Thủ Thiêm cũng có, và cũng khá ăn trong nhà hết, tôi năn nỉ đôi ba phen người mới chịu di, tôi nói với bà con xin giúp cha chút đỉnh. Thật thì bà con cũng sẵn lòng giúp cha; kẻ giúp bạc, người giúp lúa. Chở lúa về ít lâu tôi hỏi lại người còn đủ dùng không, thì người trả lời xui xị mà rằng: “Còn ở đâu, chở về ít bữa hết trơn!” Cũng mảng phân phát cho chầu nhưng đạo mới mà hết theo tay! Đến sau bà con nghe tin vậy, thì có kẻ không bằng lòng, vì cho là cho cha dùng riêng, không phải là cho bao đồng thế giái. Tôi có nói lại mà khuyên người đừng làm vậy, bà con phiền, thì người rằng: “Thôi, từ nẩy về sau, tôi nghe cha.” Nói vậy, chớ tôi tưởng người cũng không nghe, vì thấy người cũng hằng thiếu thốn luôn cho đến chết. Phần thì người coi nhiều họ nhỏ, hằng lo lắng đi luôn, thăm viếng, nuôi con chiên mình phần hồn, phần xác no nê, để một mình cha chịu thiếu thốn mà thôi. Khi nào người làm lễ ngày Chúa Nhựt trong họ chánh, các họ tới xem lễ, thì cha lo cơm nước cho ăn no nê, rồi mới cho về, cũng như Chúa xưa cho dân nghe giảng ăn no nê, rồi mới về.

Bỡi người hằng thiếu thốn hoài cho nên có ai giúp chút đỉnh thì người tỏ lòng vui mừng lắm. Như có một lần kia có một cha ở trong sở Cái Mơng (cha Phaolồ Nhượng) đi thăm người, cha ấy vô nhà, vắng teo, không thấy ai, cha đi luôn ra phía sau gặp cha Giuse Tân đang đắp sửa vườn, vì người hằng chuyên việc luôn. Cha Giude lật đật vô nhà rước cha ấy, chuyện vãn vui vẻ. Cha ấy thấy bề thế người túng rối thiệt, mà mình thì bán lộ có đem chút đỉnh thì cũng nhín mà cho cha Giude Tân. Người mừng rỡ cám ơn cha ấy hết lòng và xưng thật cùng cha ấy rằng: “Cám ơn cha lắm, phải không nhờ cha, thì đến mai tôi không biết làm sao!” Nói vậy, chớ vài bữa thì cha Giude phân phát cũng hết.

Cha Giude Tân liền lành và thương yêu người ta thể ấy, mà cũng không khỏi gặp kẻ phản nghịch cùng người. Chính mình người đã thuật lại cho tôi có một người bổn đạo kia hỏi tiền bạc mà người không có, vì người hằng bố thí ít nhiều theo sức người, chớ có tiền bạc đâu nhiều mà cho vay, cho mượn, tên ấy giận dữ mắng nhiếc người, người cũng làm thinh, đến ngày Chúa Nhựt cha đang giảng, nó đi qua đi lại trước cữa nhà thờ, kêu tên cha mà khinh dễ la lối om sòm rằng: “Ai mà nghe ông cha nầy giảng làm chi!!” Cùng nói nhiều lời sỉ nhục nữa! Cha Giule bằng tịnh, cứ việc giảng cho rồi, làm lễ cầu nguyện cho tên ấy. Cha cũng có bị cáo gian một lần. Thật là ứng nghiệm lời Chúa phán rằng: “Khi người ta mắng nhiếc bay và nói láo xược mà cáo mọi đều gian dối cho bay vì Tao, thì bay là kẻ có phước: Beati estis cùm maledixerint vobis... et dixerint omne malum adversùm vos mentientes propter Me.” ( Math. v. 11.)

Cha Giude thuật lại mấy truyện ấy cho tôi, mà cách người chẳng có phàn nàn oán trách, một nói tiếng nẩy mà thôi: “Cha chả! Người ta khó dàng!” Một lần khác người bị một chuyện rất oan ức, người cũng thuật lại cho tôi, mà rưng rưng nước mắt; mà bỡi người rất hiền lành và vưng lời chịu lụy bề trên mọi đàng, cho nên người cũng qua khỏi được: “Người ở đời bị mọi đều cay đắng khốn khó, mà người càng lướt qua khỏi hết: Omnis perturbationis expertem vitam transiit. » (S. JOAN. CHRYS.)

Hỡi anh em bạn Thầy cả chúng tôi! Trong việc bổn phận chúng tôi, chúng tôi cũng không khỏi gặp những kẻ nghịch mạng cùng những điều cay đắng, chúng tôi hãy noi gương cha Giude Tân đó mà nhịn nhục, thì chúng tôi cũng đặng an lòng.

Cha Giude Tân làm thầy cả được 20 năm và 5 tháng, làm việc bổn phận mình toàn hảo trong sở Vĩnh Long, sau hết người cũng gởi xác người nằm tại Vĩnh Long, đợi ngày sau sống lại vang hiển “In spe resurrectionis gloriosae.”

Người đau chẳng mấy ngày: phát mụt độc nơi môi, sau hết nó hành làm xung, bỡi người yếu chịu chẳng nổi mà linh hồn lìa xác bằng an, ngày 21 tháng Août năm 1913, trong tuần Octava lễ Đ C Bà mông triệu thăng thiên, được 58 tuổi: “Justum deduxit (Dominus) per vias rectas et ostendit illi reynum Dei...honestavit illum in laboribus et complevit labores illius.” (SAP. X. 10.)

P. Viện.

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1913