KỂ LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ
ĐỊA
PHẬN NAM KỲ
-------------------
ĐỊA
SỞ HỌ VĨNH LONG
-------------------
HỌ
VĨNH LONG
------------------
Gốc
lập họ.
Họ Vĩnh Long thuở đời cựu
trào thì không có, mới lập sau đây, là khi binh Langsa lấy thành Vĩnh Long
trong năm 1862..
Tĩnh nầy khi trước kêu là
Long Hồ, ở gần bờ một cánh đại giang Mékong, và cái sông Long Hồ, là đàng sông
đi lên nước Cao Mên và nước Lào, cho nên là nơi chận đường binh nghịch cùng là
đầu mối đàng về thương mãi. Bỡi vậy trong mấy đời hoàng đế cai trị nước An Nam,
đều có lập thành lớn và nhiều đồn lũy mà cố thủ tại đó, và là nơi quan tổng đốc
trấn nhậm, như chúa cai quản mấy tĩnh về miệt dưới.
Vì cớ ấy cho nên tại châu
thành Vĩnh Long đời cựu trào không có bổn đạo ở, vì sợ quan quân bắt bớ; những
họ mà đã có đời trước, thì là lập trong mấy chốn xa tĩnh thành, nơi khuất tịch,
không cho các quan biết, hầu cho khỏi tra xét bắt bớ cùng đặng dễ bề giữ đạo,
Cũng như mấy họ là Cái Mơn, Cái Nhum và Bãi Xan, v. v.
Dầu vậy chớ cũng có một
ít người có đạo ở tại Vĩnh Long, hoặc là dân dã hoặc trong lính tráng và trong
các quan nữa; lại người ta đã biết đặng hai quan lớn danh tiếng có đạo dòng: Một
là ông Trần văn Triệu, làm quan lớn cai binh đời vua Gia Long. Ông nầy gốc ở
Cái Nhum, đã theo phò vua Gia Long lúc ngài trốn lánh tị nạn, đến sau chừng
ngài tức vị hoàng đế, thì đã thưởng công trả ơn cho ông ấy, đặt người làm quan
tổng đốc trấn tĩnh Vĩnh Long. Chừng quan nầy qua đời, thì đã đem xác người về
Cái Nhum là xứ sở mà mai táng, nhà nước An Nam đã xây bia mồ người tốt lành, mồ
nầy bây giờ hãy còn, ở trong khoảnh đất Nhà Dòng Cái Nhum. Những con cháu quan
lớn nầy chắc đã ở luôn tại Vĩnh Long, và bây giờ còn một người cháu gái tên là
Trần thị Ngàn.
Quan thứ hai là một ông
danh sư lương y, các quan và dân sự ai nấy đều yêu chuộng, dầu mà đang lúc bắt
bớ, người hằng cứ vững bền trung tín giữ đạo. Mà hai quan nầy và ít kẻ có đạo
khác tuy là trung tín giữ đạo chớ cũng phải giấu lắm, vì nếu vua quan hay được
thì không tha tù rạc và hình khổ đâu.
Theo sắc chỉ vua đã ra, dạy
các quan phải can tâm bắt cho hết những kẻ giữ đạo ở trong tĩnh; nhứt là các
cha, cùng phải cầm ngục tại khám đường; bỡi đó tại Vĩnh Long có nhiều đấng xưng
đạo và nhiều thánh tử đạo.
Trong những quan có lòng
độc dữ bắt bớ bổn đạo nhặt nhiệm hơn, thì có ông Trương văn Huyện, là tổng đốc
Vĩnh Long, đang quyền hành lúc binh Langsa qua Nam Kỳ. Chẳng những quan nầy bắt
bớ làm khổ sở cho con nhà có đạo, mà lại người là kẻ nghịch ghen ghét người Langsa
lắm, hằng giục bảo dân sự dấy ngụy làm loạn; cho nên Vĩnh Long nên như chính chỗ
tập lập quân ngụy, trử nhiều súng ống thuốc đạn, và rãi ra kéo đi đánh phá các
nơi.
Khi ấy quan thủy sư Bonard
là quan cai binh Langsa tại Saigon, thấy không thể nào mà để ổ ngụy ấy yên được,
cho nên mới định tấn binh đánh lấy luôn thành Vĩnh Long. Vậy khi lấy Biên Hòa
và Bà Rịa xong rồi, thì quan thuỷ sư đem binh sang tới Vĩnh Long là ngày 20
Mars 1862, kéo binh ngay vô đánh một trận thì hãm thành được, và phen nầy quan
thủy sư biết trước, nên đã lo mau mà cứu các bổn đạo bị cầm nhốt trong ngục tại
thành, không để cho quân nghịch đốt cháy mà phải chết thiêu như nhiều bổn đạo tại
Biên Hòa và Bà Rịa.
Quan thủy sư kéo binh nhập
thành và dạy thả các bổn đạo bị cầm trong ngục ra tức thì, ngài lại đem xuống
tàu theo ngài mà về Saigon hai dì phước ở Cái Mơn, và nhiều quới chức đã phải
gông cùm trăng trói mà xưng đạo Chúa tại khám ấy.
Khi binh Langsa lấy Vĩnh
Long rồi, thì trong các nơi khác người giáo hữu phải lo sợ lắm, vì quan quân cựu
trốn đi và trả thù hà hiếp bắt bớ kẻ có đạo. Cho nên phần nhiều đã bỏ mấy họ
mình ở mà tới trú tại Vĩnh Long đặng gần quan tây binh vực, cho tới chừng lập tờ
giao hòa xong là ngày 5 Juin 1862.
Trong tờ giao hòa nầy thì
nước Langsa chịu để tĩnh Vĩnh Long lại cho nước An Nam, và dân có đạo đặng phép
thong thả mà giữ đạo, không ai đặng hà hiếp bắt buộc sự gì. Vậy trong tĩnh đặng
bằng an lại ít lâu, các bổn đạo đã tới trú tại Vĩnh Long ai nấy đều trở về họ
mình. Mà cũng có phần nhiều thấy bề vững thế và dễ làm ăn hơn. thì đã ở luôn tại
đó. Bỡi vậy cho nên tưởng chắc gốc lập họ Vĩnh Long là khởi sự từ đây.
Truyện
tích trong họ.
Khi binh Langsa lấy đặng
thành Vĩnh Long rồi, thì đóng giữ đó một ít lâu, cho tới chừng khôi phục các
nơi nội tĩnh cho yên hàng. Theo như tích cha Bề trên Quí (P. Gernot) đã kể lại,
khi ấy cha Cordier (sau lên làm Giám mục trị Địa phận Nam Vang,) đã theo giúp
làm phước làm lễ cho các quan và binh lính Langsa, lại cũng làm thông ngôn nữa;
cho nên chính mình cha nầy là kẻ trước hết đã lo lắng cho bổn đạo họ Vĩnh Long
mới lập tại đó. Lúc ấy chưa có nhà thờ, nên cha dạy lấy cái đình làm nhà thờ tạm,
cho có nơi bổn đạo tựu hội xem lễ đọc kinh, chỗ cái đình nầy cũng gần nhà thờ tại
họ bây giờ.
Chừng tờ giao hòa lập
xong, thì binh Langsa rút về Saigon, giao tĩnh Vĩnh Long lại cho Nhà nước An
Nam; thì cha Cordier thuộc về Địa phận Nam Vang, nên đã trở về địa phận mình. Vậy
Đức cha Lefèbvre đã dạy cha Bề trên Guillou ở tại họ Mỹ Tho, coi luôn họ Vĩnh
Long, từ đó cho tới năm 1865, cha Bề trên nầy phải đi ghe qua lại Vĩnh Long, đặng
làm lễ cùng là ban các phép Bí tích cho bổn đạo.
Trong năm 1866, Đức Cha
Gioang (Mgr. Miche) là đấng kế vị cho Đức cha Lefèbvre trở về bên Tây, đã giao
cho cha Quí (P. Gernot) ở tại Cái Mơn, coi luôn họ Vĩnh Long.
Lúc ấy vua Tự Đức đã đặt
một quan lớn có danh tiếng, là ông Phan thanh Giảng làm tổng đốc Vĩnh Long, người
là một trong hai quan sứ thần đã qua nước Langsa mà lập tờ giao hòa. Quan lớn nầy
tánh hạnh thanh liêm, ngài biết người phương Tây văn minh thông thái, cho nên
đã muốn khuyên bảo con nhà An Nam học chữ tây. Quan nầy cai trị công chính lắm,
lo lắng cho dân sự đâu đó đặng yên hàng. Bỡi vậy trong lúc ngài trấn tĩnh Vĩnh
Long, thì các bổn đạo khỏi phải khó lòng sự gì hết, đặng bề giữ đạo thong thả,
các quan không dám hiếp đáp bắt buộc đều chi. Lại mỗi lần hễ khi cha Quí tới viếng
họ, thì quan tổng đốc mời cha đến dùng bữa cùng mình, vì ngài có lòng kính trượng
cha lắm. Và chính mình quan tổng đốc cũng đã đi qua Cái Mơn có quân lính hầu hạ
rần rộ mà viếng thăm cha Quí, cùng nấy phép cho cha đặng xử các việc trong những
người ngoại và có đạo kiện thưa với nhau. Theo trong tờ cha Quí ghi lại, khi ấy
bổn đạo tại Vĩnh Long số tới trăm người.
Dầu mà quan tổng đốc nầy
có lòng tử tế như vậy, song trong mấy tĩnh là Vĩnh Long, Châu Đốc và Hà Tiên,
vì bỡi có mưu sự xúi giục tại triều Huế, cho nên thành ra như ổ ngụy chống nghịch
cùng sự cai trị nhà nước Langsa, lại là như nơi cho những kẻ dấy loàn và trộm
cướp trú ẩn mà đi phá phách các chỗ khác.
Vậy trong một năm, quan
thủy sư de la Grandière đã kêu nài cùng nhà nước An Nam về sự ấy, mà vô ích,
trong mấy tĩnh đó cứ làm loạn cùng nhà nước Langsa luôn; quan thủy sư hết sức
nhịn nhục, và phải lo lắng cho thuộc địa đặng bình an, nên đã định quyết phải
soán hết ba tĩnh dưới mới dứt hậu hoạn. Vậy quan thủy sư đã tin cho các cha ở
các họ đặng hay trước, cùng đem binh tới đánh thình lình; quan quân cựu trào
không dè, lại cũng biết sức lực binh khí Langsa, cho nên bỏ mà chạy hết không
dám đánh cự lại. Trong ngày 19 Juin 1867, binh Langsa đã soán Vĩnh Long, và
chính mình quan tổng đốc Phan thanh Giảng chịu hàng giao thành cho quan cai
binh Langsa, và ở lại trong thành, vì biết không còn phương gì mà cứu xứ sở cho
khỏi tân trào chiếm trị.
Từ đây thì họ Vĩnh Long
đã đặng mở mang thêm ra. Có nhiều thầy là cựu học trò Nhà trường Pinăng, đã tới
ở tại Vĩnh Long, cùng làm thông ngôn cho quan Langsa, nên nhiều người ngoại, thấy
người tây tin và mến kẻ có đạo, thì đã đi vào đạo khá đông. Bỡi vậy cho nên Đức
cha Gioang (Mgr. Miche) đã đặt cha Bernard làm cha sở họ Vĩnh Long cùng giúp
làm phước cho quan lính đóng tại thành, cha đã lo cất một nhà thờ, vì số bổn đạo
càng ngày càng thêm.
Nhà thờ trước hết tại
Vĩnh Long thì lấy cây cột của thành cựu phá ra mà làm, trên lợp lá mà thôi, cất
tại chỗ bây giờ là nhà mồ côi; kế bên nhà thờ cũng có làm một nhà cho cha ở.
Từ đó thì việc thờ phượng
Chúa đặng rỡ ràng hơn, mỗi ngày Chúa nhựt có đủ quan văn, quan võ và lính tráng
Langsa hiệp với bổn đạo An Nam mà xem lễ, cho nên là sự oai nghi tốt lành lắm.
Lúc ấy có ông trùm Chữ làm đầu trong họ, nhờ người phụ giúp cha sở mà lo lắng
các việc, cùng nhờ gương lành người làm, thì bổn đạo trong họ đặng tử tế lắm; đến
sau ông trùm Chữ đã trở về quê quán là Sa Đéc, mà họ nầy khi ấy cũng thuộc về sở
Vĩnh Long.
Cha Bernard coi họ nầy được
chừng một năm mà thôi, qua năm sau là 1868, cha đã qua đời tại họ Biên Hòa.
Đức cha Gioang bèn đặt
cha Lễ (P. Le Mée) ở Saigon, xuống làm cha sở họ Vĩnh Long, và cha cai họ nầy gần
10 năm trọn.
Cha Lễ là kẻ chín chắn mực
thước hẳn hòi lắm, trước hết cha lo lấy sổ bổn đạo cho biết mỗi nhà là mấy người;
cùng lo biên sổ rửa tội, phép hôn phối và kẻ đã qua đời trong một cuốn sổ
riêng.
Năm sau là 1869, cha Lễ
đã xin nhà nước lập trường học, cùng giao cho các thầy Dòng dạy; có nhiều học
trò ngoại tới học tại trường, lần lần đã xin theo đạo, thêm số bổn đạo tại họ.
Trường các thầy Dòng dạy đây khi ấy, số học trò quá 200, và đặng bền vững cho tới
năm 1881, thì nhà nước bãi các thầy Dòng không để cho dạy nữa, nên các thầy phải
trở về Tây.
Cũng trong năm 1869 nhà
nước có cất một nhà thương cho các quan và binh lính, cùng giao cho các bà phước
Dòng ông thánh Phaolồ coi giúp bịnh; qua năm 1871 nhà nước đã bỏ nhà thương nầy,
tới năm 1876 lập lại, và trong năm 1880 nhà nước bãi nhà thương ấy cho tới bây
giờ.
Trong năm 1871 cha Lễ (P.
Le Mée) đã xin cùng bà nhứt Benjamin, cai các bà dòng ông thánh Phaolồ tại
Saigon, lập một nhà mồ côi tại Vĩnh Long, thì trong năm ấy chúc, có các bà đến ở
tại họ. Nhà thờ cột cây cất trước hết đã ra chật hẹp quá, nên cha Lễ phải lo cất
lại một nhà thờ khác, là nơi gần nhà cha sở bây giờ, trước trại lính mả tà.
Nhà thờ nầy cột cũng bằng
cây, song trên lợp ngói; còn nhà thờ cũ và nhà cha ở thì để lại cho các bà làm
nhà mồ côi và nuôi con nít kẻ ngoại cho. Đến sau các bà đã mua mấy miếng đất kế
cận đó và lập nhà bằng ngói gạch, là nhà mồ côi bây giờ; mỗi năm tại nhà nầy
nuôi chừng 50 đứa con nít, và trường họ cũng lập tại đó nữa.
Trong lúc ấy thì đã mở việc
lập mấy họ nhỏ trong Địa Sở, là họ Mỹ Điền, Xuân Sơn và Nhơn Phố, cha Lễ có rửa
tội cho một ít chầu nhưng trong những họ mới ấy, lại cha cũng có rửa tội cho
nhiều người tại Sa Đéc và Cái Bè nữa.
Cha Lễ cai Địa sở Vĩnh
Long trong 9 năm tròn, mỗi Chúa nhựt thì cha làm hai lễ, một lễ tại họ, một lễ
tại nhà thương binh. Khi ấy tại họ tính được 100 nhà có đạo; mà đến sau có nhiều
nhà đã trở về xứ sở mình, là Cái Nhum và Cái Mơng.
Tới năm 1877, cha sở nhà
thờ chánh Saigon là cha Lành (P. de Kerlan) sinh thì; cho nên Đức cha Mỷ (Mgr.
Colombert) dạy cha Lễ về Saigon, và cha Nam (P. Faron) đang làm phó sở tại Cái
Mơng đổi lại coi họ Vĩnh Long.
Cha Nam trong mình yếu, lại
không có cha phó ở giúp, song cha cũng hết lòng lo lắng các việc trong họ chánh
và mấy họ nhỏ, nên cũng có thêm một ít người chầu nhưng tại An Kiệt (bây giờ
kêu là Cai Lộc) và tại Tân Hiệp nữa. Bỡi cha yếu sức nên ở Vĩnh Long làm không
đặng. Trong năm 1880 thì cha đổi lên Thủ Dầu Một, và cha Lủy (P. Lizé) coi họ
Vĩnh Long cho tới ngày cha qua đời là trong năm 1887.
Cha Lủy vừa nhậm họ thì lấy
hết lòng sốt sắng lo cho kẻ ngoại trong Địa sở đặng trở lại, cha đã rửa tội đặng
nhiều. Có cha Phong phụ giúp trong năm 1881, và cách sau đó thì cha Quờn; cho
nên đã lập thêm nhiều họ nhỏ, là Cái Tàu, Hòa Thuận và Phú An, mấy họ nầy ở
phía đông họ Vĩnh Long. Còn phía nam thì giáp với Địa sở Cái Mơng, cha Lủy cũng
có lập đặng nhiều họ.
Vậy trong năm 1882 đã rửa
tội cho 156 người; năm 1883 đặng thêm 265 người; năm 1884 đặng 248 người, năm
1885 thêm 267 người, và trong năm 1887 đặng 170 người nữa. Trong mấy năm đó bất
thuận cho việc mở mang về đạo, vì là lúc nhà nước bãi các thầy Dòng, và bãi tiền
bạc phụ cấp giúp cho Nhà chung bấy lâu. Song lòng sốt sắng cha Lủy không kể đến
các sự ấy, cha hằng đi viếng mấy họ mới cùng giảng dạy, cho nên mới đặng đem
nhiều kẻ ngoại trở lại đạo.
Trong năm 1885, vì các
quan tại triều Huế xúi giục, cho nên ngoài Annam phải quân ngụy nổi dậy đốt phá
khắp nơi, hơn 2000 bổn đạo phải bị giết; những bổn đạo địa phận Bình Định còn sống
thì chạy vào Saigon mà lánh nạn; thì họ Vĩnh Long cũng có chứa nuôi một phần.
Cha Hamon dắc những bổn đạo ấy xuống ngụ tại Vĩnh Long, và ở đó trong 2 năm, chừng
dẹp yên quân ngụy rồi mới đem nhau trở về Bình Định. Trong lúc ấy thì cha Hamon
coi riêng các bổn đạo của mình, và cũng giúp cha Lủy trong việc họ.
Bỡi cha Lủy lắm việc vàn,
vì sốt sắng lo mở mang đạo thánh, cho nên phải mệt yếu. Trong năm 1886 cha đi
dưỡng bịnh bên Hồng Kông, và đã qua đời tại đó ngày 8 Février 1887.
Lúc cha Lủy vắng mặt, thì
cha Hamon thế coi họ trong chừng ít tháng. Chừng cha Lủy qua đời rồi, thì cha
Liễu (P. Lallement) đổi lại làm cha sở Vĩnh Long, là trong tháng Avril 1887,
cha coi họ nầy luôn cho tới chết là trong năm 1908.
Cha Liễu nhậm Địa sở Vĩnh
Long, trước hết cha cũng lo tiếp các việc của cha Lủy, là qui chầu nhưng lập họ
mới. Mỗi năm cha xin ba bốn thầy Nhà trường Latinh tới dạy nhiều chỗ có chầu
nhưng, lo dọn cho những kẻ ấy chịu phép rửa tội. Còn mấy họ nhỏ lập đã thành,
thì có các cha tới ở mà phụ giúp, chia nhau mà lo các việc trong các họ ấy.
Cha Philípphê Quờn ban đầu
ở tại Ngã Tư, sau về ở Hồi Xuân cùng coi mấy họ nhánh về Mâng Thít là: Cái Quá,
Hiếu Hòa, Diên Nhơn, Hồi Luông, Sa Co và Ông Năm. Trong năm 1887 cha Long tới
coi mấy họ phía đông, là Mỹ Điền, Xuân Sơn, Cai Lộc và Cái Muối. Qua năm 1888
cha Havas tới ở tại Ba Kè, nhưng ở đó được một năm mà thôi. Qua năm 1890 cha
Dõng (P. Narp) ở họ Ngã Tư và coi luôn mấy họ Bình Dinh, Bình Quới, và Long Hiệp.
Cũng trong năm ấy có cha Cường coi mấy họ, là Cái Tàu, Hòa Thuận, Phú An và Tân
Hiệp, lúc ấy khắp nơi trong Địa sở có chầu nhưng đông, cho nên tính chung số bổn
đạo hết thảy đặng 2500 người. Cha Liễu hết lòng sốt sắng lo cho các nơi, mỗi
năm nhiều lần phải đi vãng các họ, xem xét các việc, cùng chỉ bảo các sự.
Dầu mà cha Liễu chăm lo về
các họ nhỏ, song cũng hằng lo lắng cho họ chánh Vĩnh Long. Cha đã làm nhà cha sở
lại, như còn thấy bây giờ, rồi cho khởi sự lo làm nhà thờ mới, cho rở ràng việc
đạo và xứng đáng nơi Chúa ngự. Trong họ của chung thì không có gì cho nên cha
phải xin chỗ nầy nơi kia, bổn đạo tại họ và nhiều người ngoại giàu có đều rộng
lòng dưng tiền bạc mà làm. Thầy cai tổng Minh là kẻ có thân thế, hết lòng phụ
giúp cha trong việc nầy. Vậy đã khởi sự xây dựng nhà thờ trong tháng Avril năm
1889, và cho tới năm 1894 thì mới hoàn thành. Các việc hao tổn giá 12.000$.
Nhà thờ mới Vĩnh Long thiệt
là tốt, làm theo kiểu Rôma, bề dài 38 thước, bề ngang 19 thước, bề cao tới 16
thước 7 tấc, kể luôn 2 lầu chuông không có chót tháp. Phía trong thì xem đẹp mắt
lắm, vén khéo tốt lành.
Vậy cha Liễu (P. Lallerment)
đã lo xây dựng nhà thờ mới tốt lành, các việc đặng an bày là trong năm 1894;
nhà thờ thiệt tốt, cha được can tâm toại lòng; song về phần đạo hạnh giáo hữu tại
họ, phần nhiều ra trễ nải lạt lẽo, cùng làm gương chẳng lành, cho nên thì cha
không đặng lòng vui cho trọn.
Trong lúc ấy nhiều cha phó
trong Địa sở đã đổi đi. Trong năm 1893 cha Tân ở tại họ Ngã Tư, sau về lập tại
Tân Hiệp. Trong năm 1898 cha Đặng có giúp trong Địa sở ít năm.
Qua năm 1901, Đức Cha Mão
(Mgr. Mossard) đặt cha Liễu lên làm Bề trên địa phận, nên làm việc vàn, vậy cha
đã để mấy họ nhỏ phía đông là Mỹ Điền, Xuân Sơn lại cho Địa sở họ Cái Mơn, và họ
Cái Muối giao cho họ Cái Nhum.
Từ đó thì Địa sở Vĩnh
long là mấy họ nhỏ xung quanh tĩnh thành, và mấy họ ở phía nam cho tới Mâng
Thít, cùng mấy họ ở phía tây.
Năm 1905 có cha Thiệt tới
giúp cha Quờn ở tại Hồi Xuân. Chừng hai cha đổi đi thì cha Ngãi trong năm 1906,
và cha Lộ (P. Bellocq) trong năm 1907 ở Hồi Xuân cùng coi luôn mấy họ phía nam
tới Mâng Thít; còn cha Tân thì cứ ở Tân Hiệp cùng coi luôn mấy họ là Cái Tàu,
Tân Hạnh, Ngã Tư và Bàu Kiến.
Khi Đức Cha Mão về bên
Tây là trong năm 1905 thì cha Bề trên Liễu phải lên Saigon mà xem sóc các việc
Địa phận, và cha Mẫn (P. Ackerman) thế coi họ Vĩnh Long, trong một năm. Vì khi
Đức Cha trở qua thì cha Liễu vội vã trở về coi họ Vĩnh Long như trước, vì lòng
cha lìa họ nầy không được, dầu mà có nhiều sự làm cho cha phải cực lòng. Vậy
cha coi họ nầy trong ba năm nữa, hằng an ủi khuyên lơn những người trễ nải, cho
nên bổn đạo cũng khá hơn. và ai nấy đều bằng lòng cùng thương mến cha. Chẳng
hay lối cuối năm 1908, cha phải bịnh đau trong gan, làm cho cha không ăn uống
gì được; nên đã lên Saigon vô dưỡng tại nhà thương quan thầy Angier, bịnh không
giảm, và trong ngày áp lễ Sinh Nhựt cha đã sinh thì bằng an.
Trong 33 năm cha đã lo việc
tông đồ mở mang nước Chúa, ở tại họ Vĩnh Long gần 20 năm.
Cha Bề trên Liễu qua đời
rồi thì cha Mẫn (P. Ackermam) làm cha sở họ Vĩnh Long, cho tới khi cha đổi về Bến
Tre thì cha Miêng (P. Bellemim), thế coi họ nầy tới bây giờ.
(sẽ
tiếp)
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1919