SỰ TÍCH CHA PHAOLỒ QUI
In
memoria æterna erit justus (Ps. exi, 7).
Kẻ
lành đặng người ta nhớ muôn đời.
Tối ngày mồng một Aout,
chín giờ rưởi, cha PHAOLÔ QUI đã tạ thế mà về cùng Chúa, tại Nhà trường Latinh
Saigon. Nầy là một tin rất buồn và đáng thương tiếc cho Hội thánh Nam Kỳ: hàng
linh mục phải mất một phần thân thể trọng quới, mất một gương lành rất mực
trong việc chăn, giữ con chiên Chúa; người giáo hữu phải mất một tướng dẫn đàng
minh mẫn rất thông thuộc các nẻo về phần rỗi; các đấng Dòng Sai phải mất một vì
anh danh phụ lực kiên cố tận tình trong việc mở mang nước Chúa giữa kẻ ngoại
giáo. Nói rằng mất, mà ta hết thảy đều trông cậy người đã lìa ta mà lãnh phần
thưởng Chúa dành để cho tôi tớ lương thiện trọng hiếu, mà vào trong sự vui vẻ
Chúa mình, nên chẳng những là chẳng mất, mà lại người càng có thế mà chỉ bảo
và giúp đỡ ta trước mặt Chúa hơn khi còn ở đời nầy, và sách vở người để lại là
lời người hằng nói ra chẳng khi dừng mà an ủi dẫn giải cho những linh hồn ái mộ
đàng lành, khi người còn ở dương thế, ghe kẻ kính vì yêu chuộng, trộm kêu là
ông thánh, ông thánh Phaolồ, mà xin người cầu nguyện, xin người an ủi dạy dỗ;
nay ở gần Chúa, ắt người nguyện đắc lời hơn, mà chẳng quên kẻ có lòng tin cậy,
lại có phương phép hơn mà vừa giúp kẻ ấy.
Trong mấy trang vắn nầy
ta có ý biên lại những điều đại cái trong hạnh người, cho sáng danh Chúa và để
gương lành cho kẻ muốn học đòi bắt chước.
Phaolồ Qui sinh ra tại Đầu
Nước, năm 1855. Cha người là Joakim Vân, làm nghề thầy thuốc, có lòng ngoan đạo,
sốt sắng, theo giúp đỡ cha thầy đang hồi cấm kín; mẹ người kêu là Maria Giàu,
mà nhứt là giàu nhơn đức, chín chắn việc đạo, hay thương giúp người, ân cần việc
gia đạo và dạy dỗ luyện tập xem sóc con cái. Hai ông bà đặng năm trai, hai gái;
Phaolồ ném về thứ năm.
Trẻ nầy đã sớm học đàng
chịu khó, chưa đặng mấy tuổi mà phải lìa quê, vì đang lúc bác loạn cha mẹ người
phải chạy giặc, trôi nổi. Khi trốn xuống tới Cái Nhum gặp nơi tị nạn trú ổn vừa
yên, kế thêm sự đau đớn hơn nữa, là cha người xoang bịnh mà qua đời, bỏ bẩy con
lại cho mẹ người gìn giữ dưỡng nuôi đang thì cô thế.
Bà nầy vững vàng giữa cơn
khốn khó, chẳng nao lòng bê trễ việc bổn phận, kề vai gánh vác một mình, cậy
Chúa nhơn từ chẳng bỏ mẹ goá, con mồ côi. Lần hồi mẹ con dắc nhau qua nương ngụ
tại Chợ Cũ, về tĩnh Định Tường (rày kêu là Mỹ Tho), vì có cậu ruột của Phaolồ,
là Cha Philípphê Phiên, đổi về xem sóc bổn đạo tại đó.
Trẻ Phaolồ hết lòng mến mẹ,
lo giúp đỡ mọi việc trong cữa nhà. tùy sức, mà trong mấy anh em hết thảy, dầu
các anh lớn, thì chẳng ai sánh đặng cùng Phaolồ: từ nhỏ cho đến trót đời, người
hằng chí công tận tình bao lo cho mẹ và cho anh em hết thảy: Chẳng cần có ai
khuyên răn, sai khiến, vừa thấy công chuyện làm, liền ra tay, chẳng quản mệt mỏi,
không lo nặng nề.
Hồi Tây mới lại, nhơn dân
bị giặc giã cơ cẩn lắm; nhà nước thương lo, phát lương phạn, thì Phaolồ, tuy
còn nhỏ, mà hằng ngày cũng xách thúng theo thiên hạ, xuống cầu tàu mà hứng bột
mì nhà nước đổ thí cho dân ăn đỡ đói.
Mùa nước mặn, trong nhà hết
nước uống, thì Phaolô xách ghè xuống mé sông, chờ nước ròng sát, kiếm chỗ có nước
ngọt, móc lỗ mội, múc đầy ghè đem về cho nội nhà thấm giọng.
Chẳng khi nào người than
thân trách phận, lại vui lòng chịu khó, sẵn lòng dưng mình liều công mà giúp mẹ
cùng anh em lớn nhỏ.
Một khi kia, có một anh
người phải giam xa, trên Cai Lậy, thì Phaolồ vưng ý mẹ, bỏ nhà mà đi theo anh hầu
lo nuôi dưỡng hằng ngày trót hai tháng. Phải ở đỗ bạc nhà hai vợ chồng thầy
giáo kia, thì lại thêm lo giúp đỡ trong nhà ấy, quét tước, dọn dẹp, sớm khuya
chẳng nài, cho đặng đền ơn trả thảo. Hai ông bà thấy trẻ Phaolô có lòng thương
anh, hay chịu khó, siêng năng, biết đền ơn ngãi, thì đem lòng mến và khen chẳng
khi đừng.
Độ năm 1867, nhà nước
Langsa đã chiếm cứ Nam Kỳ, và dẹp an đâu đó xong rồi, thì lo việc dạy dỗ con
nhà An Nam học chữ ngãi, nên đã khai trường tại Mỹ Tho, có các thầy dòng Frères
les Ecoles Chré-tiennes lãnh giáo huấn. Phaolồ sở mộ, xin phép mẹ nhập trường
học chữ tây. Bỡi trí sắc, tánh lành, hạnh tốt, thì học mau và đặng thầy trò
thương mến yêu chuộng.
Sang đầu năm 1870, Phaolồ
nghe tiếng Chúa kêu, thì xin cùng cha sở - khi ấy là cha Lũy (Lize) - mà đi Nhà
trường Latinh, cho đặng làm thầy cả như cậu mình. Cha sở biết tánh hạnh ý tứ trẻ
nầy, thì mừng và trông cậy một mai nó sẽ làm sáng danh Chúa và làm ích cho linh
hồn người ta, bèn gởi nó lên Nhà trường tại Sài Gòn. Tới nơi, Phaolồ cứ chăm chỉ
siêng năng lo việc học hành, và ân cần tập luyện bề đức hạnh.
Song ma quỉ sáng ý, nó
dòm xét kỹ cang, bàn sinh lòng lo e, sợ trẻ nầy ngày sau lãnh quờn phép thiêng
liêng mà hại đặng nước nó, cứu nhiều linh hồn ra khỏi tay nó, nên nó làm hết sức
đón ngăn. Trước hết nó dùng kế xác thịt, làm cho trẻ ấy khi mãn kỳ nghỉ mà tựu
trường, thì bắt phiền muộn trong lòng, nhớ nhà, muốn bỏ hết mọi sự mà về; nhiều
lần trong giờ rảnh, thì đứng ôm cột mà khóc. Song nhờ ơn Chúa và lòng mạnh mẽ mẹ
ngăn can, nên đã phá đặng mưu độc ấy, Vì mẹ Phaolồ đã dưng con cho Chúa, chẳng
theo ý xác thịt mà thương mến con trái lẽ, một an ủi con bỏ hết mọi sự, cả lòng
theo chơn Chúa cho trọn; lại thêm lời khẩn khái mà đe rằng: “Mầy bỏ nhà trường
mà về, tao bắt tao câu sấu; tao không để.”. Phải chi bà ấy làm như nhiều cha mẹ,
vừa thấy con chảy một hai giọt nước mắt mà đòi sự gì, liền mau mau theo ý chẳng
kể nên hư, không dám cãi ý nó, sợ nó buồn, nó khóc, ắt là Phaolồ nầy không đến
chức thầy cả đặng; ắt là nhiều linh hồn không đáng nhờ người trong đàng phần rỗi.
Sau lại tưởng ma quỉ cũng
làm, như đã làm với ông Gióp xưa, kèo nài cùng Chúa, mà làm cho trẻ Phaolồ mắc
bệnh hoạn yếu đuối, hết đôi ba phen phải ngưng việc học hành, về nhà dưỡng
bịnh, song mưu quái nó một làm cho nó phải xấu hổ mà chớ; vì trẻ nầy đã chí quyết
tế lễ mình cho Chúa, nên dầu mạnh yếu, sống chết, cũng kiên cố một bề theo Chúa
chẳng sờn; nên vừa khá lại thì trở về nhà trường, chẳng chịu tháo lui.
Mấy năm ở nhà trường,
Phaolồ quyết lo làm thầy cả, theo ơn Chúa gọi, biết cho đặng lãnh chức cực trọng
ấy thì cần kíp phải nên thông thái, và phải thuần thuộc đàng trọn lành, nên đêm
ngày hằng chuyên lo cả hai đều một trật, chẳng rời. Từ khi khỉ sự cho đến cùng,
thì hằng nên gương lành cho anh em học trò trang tác và hậu sinh đặng học đòi bắt
chước. Hàng năm tới kỳ lãnh phần thưởng, thì trò Phaolồ đứng đầu trong lớp về
việc học hành, và về tính hạnh nhơn đức; đặng bề trên bề dưới khen ngợi yêu vì,
song trẻ ấy chẳng lấy đó mà cậy mình kiêu hãnh, một cám ơn Chúa, dưng lại mọi sự
cho Chúa, vì biết là nhờ Chúa ban ơn giúp sức, chẳng phải tại mình mà nên thân:
trong lời ăn tiếng nói cũng cứ giữ một mực vui vẻ, nhu mì, nhỏ nhoi, chơn chất,
đơn sơ luôn.
Đầu năm 1876, Phaolồ lên
lớp cách vật, và tới lễ Đ C T Ba Ngôi (10 Juin) thì đi cởi lốt thế gian mà
lãnh y phục làm tôi cung thánh, cắt tóc trên đầu, làm chứng minh chê bỏ mọi sự
đời là của dư thừa, mà chọn lấy Chúa làm của riêng mình, làm phần gia tài mình.
Từ ấy thầy Phaolồ lại càng thêm lo luyện tập trau giồi lòng trí cùng tánh hạnh,
vì bước vào cung thánh cho đặng trèo lên bàn thờ mà tế lễ Chúa, và hiệp làm một
cùng Chúa mà tế lễ mình, nên hằng ngày làm cho mình nên của lễ xứng đáng mà dưng
làm một cùng Cao Dương Thiên Chúa,
Chẳng những lo cho mình,
lại thêm lo cho anh em nữa. Trong nhà trường khi ấy có đặng mươi người học trò cùng
một quê với thầy Phaolồ, người là anh cả, nên hằng săn sóc, nhắc bảo, ủi an. Mỗi
tuần một lần, tối thứ bảy, đang giờ chơi, thầy Phaolồ kêu mấy anh em Mỹ Tho lại
mà truyện vãn, hỏi thăm về việc học hành, về sự mạnh khỏe, bày về những sự có sức
sinh ích về chuyện linh hồn, về việc học hành, về cách ăn ở với bề trên, với kẻ
lớn người nhỏ, chẳng bỏ qua điều gì mà không chỉ bảo; lấy lời dịu dàng mà răn đe
kẻ lầm lỗi, thôi thúc kẻ lảng lơ, giục lòng ai nấy ân cần tấn tới trong đàng
lành. Thật người là thiên thần giữ mình của mấy học trò Mỹ Tho, và mấy anh em đều
một lòng kính vì yêu chuộng vưng nghe. Nếu có kẻ không đặng vững bền trung tín,
thì chẳng phải tại thầy Phaolồ chẳng ủi an xem sóc và nguyện cầu hôm sớm, là tại
kẻ ấy không biết nghe lời, nên đành lòng bỏ ơn Chúa.
Cũng lối năm ấy, bề trên
giao cho người một việc người lấy làm trọng phước và hết lòng ái mộ ân cần mà
làm. Hồi ấy nhà thờ nhà trường có một bàn thờ mà thôi, không đủ cho các cha làm
lễ, nên trong nhà có một phòng riêng, kêu là oratôriô, có bàn thờ và đủ mọi sự
cần dùng, mỗi ngày có đôi ba cha làm lễ tại đó. Thầy Phaolồ lãnh làm từ oratôriô
nầy một cách khoái lạc hết lòng, vì mỗi ngày đặng phước lo dọn cho đủ đồ tế lễ
Chúa, nhớ rày mình dọn giúp mọi đều, một mai sẽ bước lên bàn thánh. Vì vậy người
lo cho mọi sự sạch sẽ tinh tấn xứng đáng, chẳng những trên bàn thờ, mà lại xung
quanh vách, dưới rầm, nhứt thiết là áo lễ cùng chén thánh... Khỉ sau một lúc
người làm thầy lễ nhạc trong nhà trường, thì cũng một lòng sốt sắng cẩn thận chỉ
bảo tập tành những thầy trò phải giúp lễ nhạc cho trúng phép. (Tưởng người cứ lời
ông thánh Hieronymô kể lại về Nepotianô rằng: Erat ergo sollicitus si
niteret altare, si parietes absque fuligine, si pavimenta tersa, si vela semper
in ostiis, si sacracium mundum, si vasa luculenta, et in omnes cæremonias pia
sollicitudo disposita, non minus, non majus negligebat officium. ( EP. AD
HELIOD.)
Mãn năm cách vật, Phaolồ
học sách đoán, mỗi năm chịu chức thêm. Phần xác thì chẳng đặng mạnh, hay ho,
hay tức, dầu vậy chẳng khi nào trễ bỏ những việc phải làm, có một khi bề trên
khiến dạy, mới ngưng lại mà đi nghỉ và dưỡng binh.
Mấy năm sau hết lại thêm
việc, vì chẳng những phải lo học hành, lại còn phải giúp dạy lớp mới học
latinh, cũng một trật phải coi sóc học trò trường nhỏ trong giờ học, việc nhập
nặng nề, mà người cũng hằng vui lòng làm luôn, chẳng phàn nàn, chẳng tìm bề trao
gánh cho kẻ khác.
Qua năm 1880, ngày 22
Mai, Phaolồ bước vào nằm cung thánh, chết cho thế gian xác thịt, phú mình làm
tôi Chúa trọn đời, lãnh chức thứ năm, buộc mình giữ trinh tiết cho đến lâm
chung, không còn tháo lui đặng. Ai nói được sự vui khoái và lòng sốt sắng thầy
năm mới nầy! vì bấy lâu đã quyết giã từ sự thế, nay mới được khấn hứa trọng thể
trước mặt Hội thánh, mới đặng Giám mục, thay mặt Chúa, thay mặt Hội thánh, giơ
tay nhạm của lễ tế mình dưng,
Năm sau, ngày 12 Juin, lại
lãnh sách thánh Evang, chịu lấy Đ C T T cho mạnh sức mà làm việc thầy phó tế.
Biết nói sao cho được sự lòng người sốt mến, sợ hãi, cung kính, mừng rỡ, khi lần
thứ nhứt người thò tay cầm Mình Thánh Chúa! bấy lâu đã đến gần bàn thờ, nay kề
bên Chúa, đặng phép đả động đến Mình Người, đặng mở cữa nhà tạm, đem Chúa ra
cho bổn đạo thờ lạy... thiên thần quì gối run sợ, mình thẳng gối cầm Chúa trong
tay !
Dầu luật trong Địa Phận
buộc phải đúng ba mươi tuổi mới đặng lãnh quờn chánh tế; song khi Phaolô mới trọn
27 tuổi, thì bề trên kêu, dạy lo dọn mình chịu chức thầy cả. Năm ấy (1882) có sự
ngăn trở không làm lễ phong chức đặng trong tuần bốn mùa tháng Septembre, nên Đức
Cha phải dời lại đến ngày lễ ông tháng Anrê, là 30 Novembre, - Có một mình Chúa
biết thầy Phaolô đã ân cần sốt sắng thế nào mà dọn mình phen nầy cho đặng bước
lên núi thánh Chúa, mà lãnh đồng quờn đồng phép cùng Đ C G, mà nên Khirixitô mới,
Sacerdos alter Christus. Từ đây người chẳng còn thuộc về mình nữa, Chúa đã
bắt lấy người ở giữa thiên hạ mà đặt người thay mặt phàm nhơn, hầu lo những việc
thờ phượng Chúa, cho đặng dưng lễ và vật tế tự vì tội lỗi người ta; bao
nhiêu ơn thánh người đã lãnh khi Giám mục đặt tay trên đầu, thì người tích trử
trót đời trong linh hồn mà dùng cho đặng làm sáng danh Chúa và làm ích cho linh
hồn kẻ khác, chẳng còn biết tới tư lợi, không tưởng đến vinh hoa sung sướng,
không lo về thân xác mình.
Đ C G khi toan lập phép
Thánh Thể, đã làm một việc khiêm nhượng rất lạ, hạ mình xuống rửa chơn cho các
tông đồ. Cha Phaolồ dọn mình làm lễ nhứt, đã muốn bắt chước Quan Thầy mình. Mấy
thầy trò Mỹ Tho tựu riêng với nhau mà mừng anh cả mới lãnh quờn chánh tế, là
vinh hiển nhứt cả và xứ, là trái chiếng họ Mỹ Tho trỗ ra trong vườn Hội Thánh
Nam Kỳ: khi các anh em đang vui mừng, bỗng liền thấy cha mới sấp mình xuống đất
mà hôn chơn chúng em hết thảy, từ lớn tới nhỏ, không một ai tránh đặng, và người
dạy rằng: “Bỡi tôi là trưởng nam, nên phải nhắc lại cho anh em nhớ, ta phải nhớ
Chúa hạ mình khiêm nhượng, mới làm tôi Người cho bền vững được”. Cha mới đã làm
thể ấy mà dọn mình cho đặng làm lễ lần thứ nhứt. Đang khi ấy trong mấy anh em
phần nhiều cầm nước mắt chẳng đậu. Có một người gẫm rằng: “Chúng ta đây hết thảy
là mười hai chẳn: xin đừng có Giuda nào trong ta!” - Một đứa nhỏ hơn hết, còn
khờ, mà cũng nói rằng: “Có phước lắm! hôm nay mình được thấy ông thánh...”
Dễ xét được mẹ già người,
khi thấy con bước lên bàn thờ, khi ríu quì mà chịu phép lành con ban lần thứ nhứt,
thì đặng tràn trề sự vui mừng khoái lạc là dường nào. Bà ấy chẳng còn mơ ước thèm
lạc sự gì ở đời nầy nữa, và đành lòng dứt bỏ thế nầy mà về cùng Chúa, như thánh
Simêon xưa, vì đã đặng phỉ nguyền mọi đàng.
Lãnh chức quờn mới vừa rồi,
đang khi ba cha mới chịu chức một lượt cùng người làm lễ vinh qui và nghỉ ngơi
viếng thăm cha mẹ, bà con, trước khi tra tay lãnh việc xem sóc linh hồn người
ta, thì cha bề trên Thi cầm cha Phaolồ ở lại tại nhà trường, và giao việc cho
người giảng cấm phòng mà dọn một ít con trẻ rước lễ vỡ lòng ngày Đ C Bà chẳng hề
mắc tội tổ tông kế đó. Người vui lòng lãnh việc giúp đở trẻ con, phân phát lại
cho nó những ơn Chúa mới phú giao cho mình. Người tận tình kiệt lực lo giúp, chẳng
phân bì ba anh em kia còn đang nghỉ ngơi thong thả. Người ra sức làm cho trẻ nhỏ
ấy hiểu tỏ phước trọng Chúa toan ban cho nó, giúp nó dọn mình tùy sức, ao ước
cho nó biết lo sốt mến Chúa như mình. - Từ ấy hằng năm người cùng lãnh mà lo việc
rước lễ vở lòng nầy; người ra sức làm lễ nhạc ấy cho trọng thể và rực rỡ bề
ngoài tùy nghi. Vì vậy người chẳng sợ hao tốn mà sắm bông hoa đèn đuốc, và sắp
đặt mọi sự nghiêm trang xứng đáng, làm cho con trẻ thêm vui, thêm mộ, mà dọn
mình sốt sắng hơn.
Chẳng những người chẳng sợ
hao tốn tiền bạc, lại cũng chẳng sợ hao tổn sức lực mình mà giúp linh hồn người
ta, bắt chước thánh Phaolồ là bổn mạng người : Ego autem libentissime
impendam, et superimpendar ipse pro amimabus vestris (II Cor., XII, 15 ). Vì
người dưng mình cho Chúa có một ý làm tôi Chúa, mà làm sáng danh Chúa, bỡi lo
cho linh hồn người ta đặng biết Chúa tường tận hơn, và yêu mến Chúa chí thiết
hơn. Cho đặng giúp người ta mà biết Chúa, thì người phú trót mình mà làm việc bổn
phận, dùng mọi giây phút cả đời mình, dùng mọi tài năng trí lòng mình, dùng mọi
sức lực mình, chẳng trừ ra một phút gì cho mình.
Việc dạy dỗ học trò trong
như trường thì người hằng chăm lo kỷ lưỡng chẳng sót phần nào, chẳng những cho
nó tấn tới trong việc học hành, mà lại an ủi chỉ bảo cho nó biết kính mến Chúa,
biết sợ tội, biết ái mộ tập mình về đàng trọn lành, khi lo xong việc bài vở đoạn
còn dư bao nhiêu giờ, thì người mót máy những giây phút ấy mà làm sách vở, cho
đặng để đời mà giúp cho lâu dài hơn nữa.
Sách người in ra trước hết
là cuốn “Tu sĩ tùy thân”, tóm lại những sự người thường ngày chỉ dẫn nhắc bảo
các con trẻ đang lo học hành mà dọn mình vào cung thánh. Nhưng vậy sách ấy cũng
giúp đặng các linh hồn đạo đức, trong những đứng bực khác, hoặc trong nhà tu,
hoặc ở giữa thế gian, mà có ý mơ ước theo đàng trọn lành, tấn tới trong sự kính
mến Chúa, giữ mình bền vững trong ơn nghĩa Chúa.
Từ ấy người hằng lo chép
sách luôn, dầu người bệnh hoạn yếu đuối song cũng chẳng ngưng tay mà nghỉ ngơi
khi nào, người hay nói rằng: “Chừng chết rồi, mặc sức mà nghỉ.” Chẳng phải bỡi
rảnh rang có nhiều giờ dư mà người viết lách thể ấy, một bỡi siêng năng ân cần
chất lót mót máy ngày giờ, chẳng bỏ qua giây phút nào vô ích. Một mình Chúa biết
người đã lập bao nhiêu công nghiệp trong những giây phút châu báu ấy.
Cha Phaolô đã chép nhiều
sách vở, song những sách ấy vựa lại trong phòng người, thì cũng chẳng ích gì,
cũng như thâu góp bạc vàng mà chôn xuống đất, cũng như thắp đèn mà úp lại dưới
thúng. Làm sách rồi, còn phải in ra, mới sinh ích cho người ta đặng. Đây là một
sự khó, một sự cực lòng, khác nào gai xóc vào mình cha Phaolồ; là thánh giá
bạc nặng và khó vác hơn thánh giá khác. Vì cho đặng in sách ra thì phải có
tiền có bạc mà chịu sở tổn, mà người tay không, thì lấy đâu mà xuất ra đặng? biết
chạy đâu mà kiếm cho ra tiền tổn phí? Kẻ làm sách ghe phen biết sự cực lòng nầy,
mà những kẻ xem sách không mấy ai hiểu, cũng như thể đờn bà chuyến bụng phải
đau đớn bao nhiêu, kẻ khác không rõ thấu được.
Năm 1889, Nhà In Tân Định
đã lãnh chịu tổn phí mà in cuốn Tu sĩ tuỳ thân, qua năm 1901, cũng còn
chịu in Evang ông thánh Gioang.- Evang ông thánh Luca,... và sách Tóm
lại đàng nhơn đức trọn lành. Còn các sách khác thì Nhà In chẳng dám lãnh, âu
là bỡi không sức mà lãnh.
Khi đã mãn nguyệt, con ở
trong bụng muốn ra, mà ra chẳng đặng, biết đau đớn ngằn nào! Nhưng bỡi cha
Phaolô tìm sự sáng danh Chúa và phần ích cho linh hồn người ta trong những sách
vở người chép, chẳng có ý gì khác, nên Chúa đã khiến một hai linh hồn nhơn đức
lo giúp người cho đặng in sách ấy ra. Kẻ ấy cứ lời Chúa chẳng cho tay trái
biết việc tại mặt làm, song tên kẻ ấy Chúa đi biên vào sổ hằng sống, vì việc
lành nầy thật là việc trọng và bền chắc lâu dài, vì sách vở ấy sẽ làm ích
thiêng liêng nhiều đời. Chúa hứa ai tiếp nước tiên tri vì danh tiên tri, thì
sẽ đặng lãnh phần tiên tri ( MATT., x, 4 ), cùng một lẽ ấy kẻ chịu hao tốn
của cải mình mà giúp việc sách vở, làm cho người ta thêm biết và mến Chúa, là
giúp và thông công trong việc tông đồ giảng dạy và soi sáng linh hồn người ta, ất
sẽ đặng thông công phần thưởng tông đồ. Biết là bao nhiêu kẻ đã đặng Chúa đong
cho tiền của dư giã, không biết tính dùng mà làm chuyện hữu ích như vậy! Biết
là mấy tay hào phú tuôn bạc vàng ra, chẳng tiếc, cho đặng sắm đồ đạc trong nhà
ngoài ngỏ cho vển vang lộng thế, cho đặng mua một chút vui giả chóng qua, cho đặng
chơi bời nhiều thế, có khi liều phần rỗi mình nữa, mà chẳng biết dùng của Chúa
ban mà sinh ích lợi bền bỉ thể nầy!- Vậy nhờ chút tiền phụ giúp ấy, (chẳng có
bao nhiêu ), thì cha Phaolồ chắt lót tính tới tính lui mà lần hồi muốn in tặng
một mớ trong những sách người đã chép, in cuốn nẩy rồi bán kiếm vốn lại mà in
cuốn khác.
Sách lớn hơn hết của người
là Sách Gẫm quanh năm, đã in tại Nhà Nadarét, bên cù lao Hồng Công, trót
pho là năm cuốn, in ba năm mới rồi (1898-1900).
Nhà ấy còn in Hạnh ông
thánh Luy Gôndaga, năm 1901, (sau còn in lại một lần nữa) - Sách giảng về
Phép Mình Thánh Chúa, năm 1902;- Giảng về Địa ngục, năm 1903 (sau in
thêm hai lần khác nữa);– Hạnh bà có lộc Magarita Maria, năm 1903 (cũng đã
in lại thêm một lần nữa);- Hạnh ông thánh Stanislao Koska, năm 1905, và hạnh
ông thánh Gioang Bêrêmang, năm 1909.
Người đi in tại Nhà In
Tân Định: Sách Thánh Giáo yếu lý tam giải, năm 1904 (sau người đã cho
Nhà In in lại phiên thứ ha), vì là sách rất tốt, rất cần, cắt nghĩa tỏ rõ mọi đều,
mọi tiếng ta đọc trong Sách Phần Địa phận ta; lẽ thì mỗi nhà trong Địa phận nầy
phải có một bổn sách ấy mà xem đi xem lại cho biết, cho hiểu và cho nhớ mọi lẽ
cần đạo thánh dạy ta phải tin cùng phải giữ cho đặng rỗi linh hồn. Dầu các cha
sở dạy đi dạy lại, thì ta cũng hay quên; có sách ấy ở trong nhà mình mà đọc mỗi
ngày một hai trang, thì làm cho mọi lẽ đạo ghi khắn khắn vào trí ta; làm cho
cha mẹ biết đủ điều mà dạy dỗ con cái về sự đạo theo bổn phận mình. Sách ấy giá
một đồng bạc; có kẻ hao phí bạc chục bạc trăm, cho đặng sắm của vô ích, có khi
mua địa ngục cho mình, thì chẳng tiếc; mà phải xỉa một đồng bạc mà mua sách cần,
mà chuộc phần rỗi mình và phần rỗi con cái mình. thì tiếc của, thì chê mắt! E
cha Phaolồ sẽ cáo nài kẻ ấy nơi tòa phán xét, vì người đã chịu lao lực mà chép,
và chịu hao tổn mà in ra sách ấy: Sách giảng về Thiên đàng, năm 1906 - Sách
dạy về sự tôn kính Rất thánh Nữ Đồng trinh Maria, năm 1907;- Ca ngợi Đ C
Bà, Ông thánh Giude và ngày Rước lễ vở lòng, năm 1912, (người đã rút ra
trong nhiều sách ;- người đã cậy cha Gabriel Long đặt dấu hát những Ca ngợi ấy
rất hay, êm tai, vui lòng, và đang lo tìm thế cho đặng in dấu hát ấy, mà Đức Mẹ
đã cất người đi trước khi thành việc );- và Ca ngợi Rất thánh Trái Tim Đ C G,
năm 1913,
Lối năm 1911, người cũng
đã in Sách giảng về Thiên Thần, tại Làng Sông (Qui Nhơn.)
Còn một ít sách nữa người
đã chép, mà chưa lo in đặng.
Chúa phán cùng Ông thánh
Gioang rằng “Phước cho ai đặng chết ở trong Chúa. Từ rày Đ C T T phán cho kẻ ấy
dứt việc mình làm (mà nghỉ ngơi, vì công việc kẻ ấy theo kẻ ấy chẳng rời” (Apoc.,
XIV, 13.) Thật cha Phaolồ đã ngừng tay lại mà chết trong Chúa, mà nghỉ ngơi,
như người hay nói: “Chết rồi mặc sức mà nghỉ”; việc người đã làm theo người trước
mặt Chúa, mà xin Chúa thưởng người; mà những việc ấy cũng ở tại trên đất nầy,
mà cứ làm ích cho những ai muốn tìm ích cho mình trong ấy; người chết với mà
hãy còn nói, Defunctus adhuc loquitur (HEBR., XI, 4), ai muốn nghe, hãy dở
sách người ra thì còn nghe được.
Lòng ái mộ việc phần rỗi
đã ép người làm ra sách vở thế ấy, thì cũng ép người ân cần trong việc giảng dạy.
Khi lãnh quờn chánh tế thì đã nghe lời Giám mục chỉ bảo việc bổn phận thầy cả
là phải giảng dạy, pradicare, mà người ân cần lo việc ấy trọn đời, cứ lời
thánh bổn mạng người dặn: “Con hãy giảng lời Chúa, hãy cứ giảng mãi khi
trúng thì tiện, cùng khi trái thì...” II TIM., IV, 2. ) Mấy năm người ở nhà
trường, thì cứ theo phiên thứ mình; mà trong tháng nghi, khi người đi họ nọ họ
kia, thì người chẳng hề bỏ qua việc trọng nầy; mà nhứt là người đi làm vậy cho
đặng giúp việc giảng cấm phòng. Khi có cha nào cậy người về sự ấy, thì người chẳng
từ chối bao giờ, dầu mắc trở nhiều công việc, dầu mệt mỏi yếu đuối, thì người
cũng vui lòng mà giùm giúp. Khi người thôi ở nhà trường mà lãnh việc xem sóc bổn
đạo, thì người ân cần hơn nữa mà phân phát lời Chúa là của ăn mà nuôi con chiên
mình: chẳng những người giảng dạy trong những ngày Chúa nhựt, lễ cả mà thôi,
ghe phen ngày thường người cũng giảng thêm, như những ngày thứ sáu đầu tháng,
những ngày hàng trong tháng Đ C Bà, hay là tháng Trái Tim; nhiều khi người kêu
bổn đạo tới mà cấm phòng, thì người lại càng thêm giảng dạy hơn nữa. Phước cho
họ Gia Định, mấy năm đặng đấng Chăn chiên lành, hằng ngày cho chiên ăn của béo
tốt mĩ vì, đặng no nê chan chứa!
Bầy chiên lớn thì người
lo lắng thể ấy, mà bầy chiên nhỏ thì người lại càng ấp yêu cấp dưỡng nhiều đàng
hơn nữa. Người lấy việc dạy sách phần cho trẻ con, lớp lớn, lớp nhỏ, làm việc đại
sự trong bổn phận linh mục. Chẳng những người cẩn quyển việc ấy thường ngày, mà
lại lo tìm phương kiếm thế cho con trẻ ham nghe dạy, cho nó đừng trễ bỏ việc cần dường ấy. Hẳn thật, nếu con trẻ ân cần học và nghe dạy sách phần kỷ luỡng, cho
đặng làu thông các lẽ cần trong đạo thánh, về những sự phải tin phải
làm, thì mới trông cả đời nó giữ đạo nên, hay là ít nửa là giờ sau hết nó biết đàng
ăn năn trở lại; bằng thuở bé bơ thờ, không lo học hành, không lo thông hiểu đạo
lý, thì lấy đâu mà trong nó mai sau biết kính thờ Chúa cùng là việc phần rỗi?
Xưa thánh Phaolồ nói cùng
mấy người truởng thượng họ Ephêsô rằng: “Anh em rõ biết, thầy chẳng bỏ qua đều
gì hữu ích mà chẳng giảng truyền cho anh em, mà dạy dỗ anh em chung hết và từ
nhà, khuyên giục người Giudêu cùng kẻ ngoại giáo ăn năn trở lại cùng Đ C T, và
tin kính Đ C G Khirixitô là Chúa chúng ta” (ACT., XA, 20-21). Cha Phaolồ
cũng bắt chước bổn mạng người mà làm như vậy. Vì sự giảng dạy kẻ lớn người nhỏ
chung trong nhà thờ, thì người chẳng lấy làm đủ, người còn ân cần đi tìm con
chiên lạc, hoặc đến nhà riêng, hoặc gọi nó đến nhà mình, mà an ủi khuyên lơn
cho nó biết lo sợ mà ăn năn trở lại cùng Chúa, mà giữ mọi luật điều cho xứng
đáng kẻ tin kính Đ C G. Những kẻ sồn sồn thì người khuyên lơn, an ủi, thúc giục
cho thêm sốt sắng. Những linh hồn nhơn đức thì người chỉ đàng bày vẽ cho đặng
ái mộ nên trọn lành. Người chẳng bỏ qua một dịp nào, chẳng để sót một linh hồn
nào mà chẳng ân cần lo lắng dìu dắc nó đến cùng Chúa.
Bỡi những lời an ủi dạy dỗ
chung riêng thể ấy, và nhờ lời người cầu nguyện cùng gương tốt người làm, thì
đã làm cho họ Gia Định cách mấy năm mà ra tốt lạ, rất đáng khen, cùng nên gương
lành trong Địa phận. Ta dở sổ ra thì thấy tỏ sự ấy. Người lãnh xem sóc họ nầy
trong năm 1908, nội năm đầu hết người làm phép giải tội dặng 1001 lần, và trao
Mình Thánh Chúa 1576 lần. Năm sau hết thì bổn tạo xưng tội 2473 lần, và ruớc lễ
6308 lần. Nội bảy năm số xưng tội thêm bằng hai rưởi; số rước lễ thêm bằng bốn.
“Thầy hảm phạt xác thầy
và bắt nó làm tôi, kẻo hoặc thầy giảng dạy kẻ khác, mà chính mình phải Chúa từ
bỏ (I Con., IX, 27)” Môn đồ cũng làm
như bổn mạng. Cha Phaolồ càng âu lo việc con chiên, lại càng âu lo linh hồn
mình. Chuông nọ tới giờ thì đánh, ra tiếng vang lừng kêu bổn đạo kẻ xa người gần,
thúc đến nhà thờ mà đọc kinh xem lễ: bổn đạo đến, mà chuông không đi. Cha
Phaolồ bắt chước chuông mà kêu ai nấy đến cùng Chúa, bỡi lời giảng dạy ủi an, cùng
bỡi sách vở người làm; mà người chẳng bắt chước chuông ở ngoài xó nhà thờ, người
vào trước, mà các kẻ khác vào theo. Bao nhiêu đều người dạy dỗ nhắc bảo kẻ
khác, thì người giữ trước mà làm gương chỉ đàng.
Nói sao được lòng người
kính mến Chúa? Người hằng tưởng nhớ Chúa luôn, ra sức cho đặng kết hiệp cùng
chúa càng ngày càng thêm triển trang khao khít vững bền: “dầu ăn, dầu uống, dầu làm việc gì khác, thì
người hằng làm hết thảy mọi sự cho sáng danh Chúa”. Miệng người hay than thở những
lời vắn tắt kêu đến cùng Chúa. Khi gặp đều trắc trở, phải sự cực lòng, thì người
vui mừng mà dưng cho Chúa, bằng lòng theo ý Chúa phân định, cám ơn vì Chúa cho
dịp thông công cùng thánh giá Chúa, và nên giống Chúa hơn. Người ham ở tịch mạc
cho dễ nhớ Chúa, cho khỏi xao lãng; khi phải ra mắt với người ta thì người giữ
tịch mạc trong lòng: khi truyện vãn, thì kiếm dịp mà nói một hai lời nhắc đến
Chúa.
Bỡi kính mến thì người ra
sức cho đặng nên giống Chúa. Cho đặng bắt chước Đ. C. G, thì người hằng lo học
hành cho đặng biết Chúa tường tận hơn. Người học hành thể ấy dưới chơn Đ C G
trong phép Thánh Thể: bao nhiêu giờ người rảnh rang đặng, thì người ở trong nhà
thờ trước nhà tạm. Lại người học hành tánh hạnh Chúa và lời Chúa phán trong
sách Evang: sách thánh nầy chẳng khi rời người, người hằng để trong túi áo
luôn, hầu năng dở ra mà xem đặng bất kỳ giờ nào, bất luận nơi nào. Nói đặng về
người như thánh Cêcilia xưa: “Người hằng đem sách Evang Đ C G trên ngực mình
luôn, và ngày đêm những nói khó cùng Chúa và cầu thguyện chẳng khi dừng: semper
Evangelium Christi gerebat in pectore, et non diebus neque noctibus vacabat a
colloquiis divinis et oratione.” Người chỉ lo cho Đ C G sống trong mình người,
cho đặng nói như thánh Phaolồ rằng: “Tôi sống, mà không phải là tôi, là Đ C
G sống trong tôi mà chớ” (GALAT., II, 20).
Nhứt là khi người tế lễ
và nước lễ thì người hiệp làm một cùng Chúa chí thiết, chẳng có sự gì làm cho
trí lòng người xao lãng đặng. Bề ngoài thì thấy người nghiêm trang, cung kính,
chăm chỉ, khiêm nhượng, sốt sắng, chỉ tỏ tâm tình trong lòng người. Đang khi
tay người giúp việc tế lễ Con Chiên vẹn sạch, thì người dưng trót mình hiệp làm
một của lễ tế cùng Đ C G, như giọt nước pha cùng rượu trong chén calicê, mà dưng
cho Chúa, làm cho mình nên “của lễ sống, thánh và đẹp lòng Chúa” ( Rom,
XII, 1). Bao nhiêu việc người làm, bao nhiêu sự khốn khó người chịu, thảy đều
chỉ về sự tế lễ trong lễ Misa và rước Chúa trong phép Thánh Thể, như lời người
chỉ bảo trong sách dạy về Phép Mình Thánh Chúa, và trong khi người giảng
dạy.
Kính mến Chúa và kính mến
Đức Mẹ là hai sự mến chẳng phân lìa đặng. Cha Phaolồ đã chọn Đ C Bà làm Mẹ
riêng mình từ bé, người hết lòng kính mến, trông cậy mà phú giao linh hồn và
xác cho Đức Mẹ lo liệu và phù hộ. Chính thật Đức Mẹ đã lãnh hiếu tử nầy mà đem
đến cùng Con mình, mà dắc lên bàn thờ. Nhờ Đức Mẹ mà người đã dọn mình cho đặng
chịu các chức thánh xứng đáng, nhờ Đức Mẹ mà người đã tập luyện mình cho nên giống
Đ C G; nhờ Đức Mẹ mà người đi làm trọn các việc bổn phận nặng nề về chức trọng
thầy cả. Người chẳng tra tay làm việc gì, dầu trọng dầu hèn, mà chẳng kêu xin Đức
Mẹ trước; khi gặp sự vui vẻ bằng an, cũng như khi mắc khốn bức cực lực, thì người
hằng chạy đến cùng Đức Mẹ. Bỡi lòng tríu mến cùng biết ơn Mẹ lành, nên trong mỗi
khi giảng dạy, thì người chẳng bỏ qua nói một ít tiếng về Đức Mẹ. Người ước ao
cho ai nấy cũng biết kính mến và trông cậy Đức Mẹ như người, nên hằng dùng mọi
dịp cho đặng giục bảo các linh hồn làm tôi Người chỉ tín tận tình. Người ham dọn
dẹp các ngày lễ Đức Mẹ cho ra trọng thể xứng đáng tùy bực. Hồi người còn làm học
trò, thuở ấy chưa có phép rộng mà năng rước lễ đặng như bây giờ, thì người cũng
lo cho đặng phép rước lễ mỗi ngày thứ bảy và mỗi ngày lễ Đ C Bà, chẳng bỏ qua một
lễ nào. Người lần hột Bảy sự Thương khó Đ C Bà là mỗi tuần ngày thứ bảy, chẳng
sót khi nào, Chuỗi Môi Khôi thì người đọc hằng ngày, áo Đ C Bà về họ Carmêlô và
họ Đ C Bà chẳng hề mắc tội tổ tông, thì năng hôn kính. Tắt một lời, người chẳng
bỏ qua dịp nào, dầu nhỏ mọn, mà tỏ lòng thảo kính Mẹ lành.
Từ ngày người chịu chúc
thầy cả thì người mơ ước cho đặng làm một cuốn sách để đời, mà tỏ lòng kính mến
và biết ơn Đức Mẹ. Người cả lo dọn sách dạy về sự Tôn kính Đ C Bà, cho tới
chừng in đặng sách ấy thì người mới phỉ lòng. Ai xem sách ấy, thì hiểu đặng người
tríu mến Nữ Vương trị lòng người một cách thiết yếu là thế nào.
Bỡi kính mến Đ C G và Đức
Mẹ thì người đã tận mình theo đàng khiêm nhượng cho đặng giống mẫu gương cao trọng
vì dấu yêu dường ấy: chẳng những người cầm mình như không, mà lại người đành
lòng chịu xấu hổ, chịu mắng nhiếc, chẳng giận, chẳng buồn. Một khi kia người di
tàu với học trò, bị một tên nọ chưởi rủa và nói nhiều lời khi thị sỉ nhục; có kẻ
muốn trả lời mà binh, thì người can, để đứa ấy nói sao mặc ý, cho đã nư, mà người
lo nguyện Chúa hay là xem sách, như chẳng nghe, chẳng hiểu. Bỡi khiêm nhượng
thì người chẳng đoán xét việc ai sốt, một chửa lỗi kẻ đã sa ngã, hay là khi khó
kiểm lẽ mà chữa, thì người một lo phận mình, mà rằng: “Phải mà Chúa để cho ta
sa ngã thể ấy, nên gương hầu răn dạy kẻ khác, thì làm sao? Nếu Chúa chẳng gìn
giữ phù hộ, có lẽ ta làm giương xấu quái gở hơn nữa.” Vì vậy người không hề nhắc
lỗi ai, mà làm cho kẻ ấy mắc cỡ, một ở tử tế như không hay biết sự lỗi, trừ ra
khi có thể đặng thì người mở lời an ủi chỉ bảo cho nó đặng chữa lỗi, sửa mình.
Ai làm mất lòng người,
thì người chẳng buồn giận, một giữ sự nhịn nhục, hòa thuận, kiếm dịp mà giữ đức
yêu người, có khi người tới cùng kẻ ấy trước, mà nói lời dịu dàng cho nó bỏ hết
sự cay đắng trong lòng. Dầu là trong đoàn chiên người yêu dấu, có con chiên co
cương cứng đầu, chẳng những không muốn nghe lời người nhủ bảo, lại sinh tâm cự
địch, mắng nhiếc trước mặt, thì người cũng cứ một thế hiền lành nhịn nhục, bắt
chước Quan Thầy mình, thứ tha cho kẻ vô phép khinh mạn, lại thêm thương xót
nguyện cầu cho nó đặng ơn khai quang nhìn lại mà ăn năn thú tội. Bỡi biết nhịn.
thì chẳng những người cứu linh hồn mình, như lời Chúa hứa, In patientia vestra
pos-sidebitis animas vestras (LUC., XXI, 19), mà lại cứu linh hồn kẻ khác,
như sẽ thấy khi người gần qua đời.
Người nhịn nhục kẻ có lỗi,
mà người lại càng nhịn nhục khi gặp sự khốn khó, cả đời người hằng mang bịnh,
không thấy khi nào người khỏe mạnh thiệt: mà người hằng bằng an vui lòng chịu
khó theo ý Chúa luôn, chẳng hề thấy người phiền muộn, chẳng khi nghe người than
thở phàn nàn, mà lại người an ủi kẻ than phận người. Nhứt là trong mấy năm người
phải chịu bịnh mạch lương, đau đớn, nhức nhối, mệt mỏi, cả ngày cả đêm không biết
trở mình phía nào; phải chịu đâm chịu cắt; mỗi ngày hai cử phải nặn mủ đau đớn,
phải thục thuốc rửa ráy rát rao, lại thêm nóng rét. Người chịu thể ấy nhiều
năm, mà cũng không nới công việc bổn phận, cho đến sau hết không làm nổi mới vâng
lời bề trên, vào nằm nhà thương Chợ Quán. Lúc ấy tưởng người cầm không đậu, vì
sức bế yếu quá lẽ. Song Chúa còn muốn cho người sống thêm mà làm cho sáng danh
Chúa dài ngày hơn nữa. Quan thầy Angier đại tài, lo thuốc men cho người, mà thấy
có một thế trông cứu đặng mà thôi, là mổ xẻ mà đào cho tuyệt gốc rễ bịnh ấy,
nên đã ra tay. Người ở tại nhà thương có gần trót năm, bao nhiêu phen phải chịu
cắt, chịu mỗ, chịu nạo thịt cho tới xương, biết đau đớn ngằn nào! Mà người chỉ
nhớ Đ C G giăng tay trên thánh giá, muốn cho người cũng phải đóng vào thánh giá
làm một cùng Chúa, cho nên sức phần xác càng hao kém, thì sức phần hồn càng
thêm đầy dãy. Sự đau đớn ấy làm cho người thêm kết hiệp cùng Chúa, thêm giống
Chúa nhiều hơn; người vui mừng mà chịu khó và những đều còn thiếu trong sự
thương khó Chúa thì người chịu cho đủ trong xác mình (COL., 1, 24).
Người tập mình nên khiêm
nhường nhịn nhục thể ấy, ra như cởi tính mê xác thịt, hằng lo lột lốt người cũ
cho tuyệt. Người chỉ ra sức cứ lời Chúa dặn mà bỏ mình, từ mình cho đặng theo chơn
Chúa. Người không hề a dua xác thịt, không ấp yêu, không thương xót, mà lại kể
nó là đứa thù nghịch, xem bằng tôi loàn con giặc, phải thẳng tay trừng trị. Người
hãm xác nhiệm nhặt, làm cực cho nó nhiều thế, hãm trong lời ăn tiếng nói, hãm
trong cách đi đứng nằm ngồi, bắt nó nhịn đều nầy, bớt đều kia, chẳng thể dung
túng. Người khéo bày cách thế ăn hiếp xác mình, nhứt là trong những chuyện mọn
thường ngày, mà giữ kín đáo, một mình Chúa và cho linh hồn rõ biết mà thôi. Mà
nhứt là người lo hãm mình bề trong, cãi ý xác thịt, chẳng chịu để nó thong dong
làm theo ý nó, bắt lòng thú phụng lịnh lòng thần, chẳng cho toan liệu tự ý, chẳng
cho thương ghét ưa kị theo tư tình, một cứ theo lẽ phải, cứ theo đức tin, theo
lỡ siêu tính. Người chẳng tìm sự đẹp lòng vừa ý mình, lại đóng đinh xác thịt
vào thánh giá làm một cùng các nết xấu tà tình tự dục ( GALAT., Y, 24 ),
Vì vậy người đã giữ sự vưng
lời cho trọn, chẳng lấy ý riêng mà làm hay là bỏ sự gì, một cứ theo ý kẻ phải
xem sóc chỉ dẫn cho người. Dầu khi phải cực khó thì người hằng vưng lời luôn. Mấy
năm người ở nhà trường dọn mình làm thầy cả thì tóm lại đặng trong sự vưng lời.
Vì người hằng theo ý kẻ bề trên, chẳng khi sai chậy, và hằng nắm giữ lề luật
trong hết mọi sự chẳng trừ một mẫy, vì dầu trong những sự nhỏ mọn chút đỉnh thì
người cũng hằng nhìn xem ý Chúa luôn, và chẳng dám mở đàng theo ý riêng trong sự
nhẹ, kẻo xác thịt lấn lướt linh hồn mà sinh lỗi trong đều trọng, nhớ lời Chúa dạy:
Ai trung tín trong sự nhỏ mọn, thì cũng trung tin trong sự trọng (LUC.,
xvi, 10 ).
Người biết chê bỏ ý riêng
mình như vậy, huống chi những sự thế thì người lại càng chê bỏ hơn nữa, câm
nó như phản nhơ, cho đặng lời lãi Chúa Khiriritô ( PHIL., III, 8). Dầu là
tiền bạc, dầu là vật gì khác, thì lòng người cũng chẳng hề dính bén. Lòng người
những yêu sự khó khăn, chẳng hề muốn cho có của gì quí trọng, chẳng sắm vật vì
dư thừa vô ích. Những của che thân thì người dùng đồ thường đơn sơ, lo cho lành
sạch mà thôi. Người chẳng lo tiền bạc dành để hậu thân. Có một khi người lo cho
có tiền, thì người kể là thánh giá nặng, như đã thấy trước nầy, là cho đặng in
sách vở. Thường sự kẻ làm sách cũng té ra chút đỉnh, mà người không để dính tay,
hoặc lo in thêm sách khác, hoặc phân phát trợ kẻ túng ngặt. Người có lòng rộng
rãi thương giúp; ai thiếu thốn chạy đến cùng người, thì chẳng về tay không. Ghe
lần người chẳng đợi kẻ ấy mở lời xin hỏi, người hay biết. thì tự ý phù trợ.
Bỡi người hằng lo chê bỏ
mình trong mọi sự thể ấy, thì người đã bước đặng dài bước mà theo chơn Đ C G,
mà trở nên mùi thơm Chúa Khirixitô. Bề trong hằng kết hiệp cùng Chúa,
thì bề ngoài những nết na đằm thắm nhu mì nghiêm trang dịu dàng dễ thương dễ mến.
Người giữ lời thánh Phaolồ dạy, mà làm cho đức nết na túy ta tỏ rõ trước mắt
ai nấy. Khi còn đi học latinh, chưa mặc áo dòng, thì người đã giữ nết na cho đến
nỗi trong tháng nghỉ, khi người về xứ sở, thì cha mẹ kêu con cái ra ngoài đàng
mà chỉ cho nó coi học trò latinh đi cách nết na là thể nào, và con nít hay rủ
nhau chực ngoài đàng cùng mà xem người đi. Cách nết trò Phaolồ đã làm cho ai nấy
lớn nhỏ đều cung kính yêu chuộng và khen ngợi học trò latinh lắm, và làm cho một
ít con trẻ ước ao cho đặng mai sau bắt chước mà vào nhà tu ấy. Chớ chi các trẻ
đang dọn mình vào cung thánh noi gương lành nầy mà ở xứng đáng bực mình và làm
thơm danh nhà Chúa như vậy!
(sẽ tiếp)
Mátthêu
Đức.
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1914