ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2020

Tại sao lại gọi là “con giáp”? Mỗi con giáp có bao nhiêu năm?


ĐỘC GIẢ: Tại sao lại gọi là “con giáp”? Mỗi con giáp có bao nhiêu năm?

AN CHI: Hai tiếng con giáp là một lối nói của phương ngữ Nam Bộ. Trong phương ngữ này con giáp là một chu kỳ 12 năm âm lịch gọi bằng tên của 12 địa chi từ Tý đến Hợi. Nghĩa này đã cho ra một nghĩa rộng là chu kỳ thời gian từ một năm đã cho đến năm cùng một tên chi với nó sau đó 12 năm, chẳng hạn từ năm Nhâm Thìn 1832 đến năm Giáp Thìn 1844, hoặc từ năm Đinh Hợi 1947 đến năm Kỷ Hợi 1959, vv. Do đó mà người sanh năm Nhâm Thìn 1832 lớn hơn người sanh năm Giáp Thìn 1844 một con giáp, còn người sanh năm Kỷ Hợi 1959 thì nhỏ hơn người sanh năm Đinh Hợi 1947 một con giáp. Ngoài ra, trong khẩu ngữ của tiếng địa phương Nam Bộ, con giáp còn có nghĩa là con vật tượng trưng của mỗi chi trong 12 địa chi nữa (chẳng hạn con chuột cho năm Tý, con trâu cho năm Sửu, vv) . Do đó mới có câu “Mười hai con giáp không giống con nào!” 

Vậy tại sao lại gọi con giáp? Nguyên ngày xưa người ta đã theo thứ tự trước sau của thập can và thập nhị chi mà phối hợp các can và các chi với nhau sao cho có được một chu kỳ gồm 60 đơn vị bắt đầu từ Giáp Tý cho đến Quý Hợi, trong đó mỗi đơn vị được gọi bằng một tên kép gồm có một tên can và một tên chi. Chu kỳ được trình bày thành một bảng gồm có 60 ô. Bảng này gọi là hoa giáp. Trong phương ngữ Bắc Bộ, hoa giáp được nói tắt thành giáp. Giáp thoạt đầu vẫn được hiểu là một chu kỳ gồm 60 năm, về sau lại được linh động hiểu thành một chu kỳ 12 năm như cách hiểu thông thường hiện nay. Tuy cũng cùng một cách chuyển nghĩa như trên nhưng trong phương ngữ Nam Bộ thì hoa giáp lại trở thành con giáp vì hai lý do. Một là người ta vẫn bị ám ảnh bởi các con vật tượng trưng cho mỗi chi khi nói đến hoa giáp. Hai là tiếng con vừa có tác dụng nhắc nhở đến các con vật như đã nói ở trên, lại vừa đồng âm với con là một từ chỉ chu kỳ như trong con nước, con trăng, vv. Mà hoa giáp rõ ràng là một chu kỳ. Vì hai lý do đó mà con đã thay thế cho hoa.

Kiến thức ngày nay, số 100, ngày 15-1-1993

Thứ Năm, 11 tháng 6, 2020

Con lân là con gì? Có phải đó cũng là con kỳ lân hay không? Tại sao ngoài Bắc gọi là “múa sư tử” mà trong Nam lại gọi là “múa lân”?


ĐỘC GIẢ: Con lân là con gì? Có phải đó cũng là con kỳ lân hay không? Tại sao ngoài Bắc gọi là “múa sư tử” mà trong Nam lại gọi là “múa lân”?

AN CHI: Con lân cũng gọi là kỳ lân. Nguyên kỳ là tên của con đực còn lân là tên của con cái. Người ta ghép lại mà gọi chung là kỳ lân. Ngày nay lân hoặc kỳ lân chỉ cả con đực lẫn con cái. Tiếng Pháp dịch là licorne, tiếng Anh là unicorn. Lân là con vật đứng hàng thứ hai trong tứ linh: long (rồng), lân, qui (rùa), phụng (phượng hoàng). Nó là một con vật thần thoại thân hươu, móng ngựa, đuôi bò, miêng rộng, mũi to, có một sừng, lông trên lưng thì ngũ sắc mà dưới bụng thì màu vàng. Tục truyền rằng nó là một con vật hiền lành (nhân thú), không đạp lên cỏ tươi và không làm hại các vật sống. Tục còn truyền rằng vì nó là một con thú có nhân như thế cho nên vua chúa ai là người có nhân thì mới được nhìn thấy nó.
Múa lân tức là múa kỳ lân. Sở dĩ trong Nam gọi là múa lân mà ngoài Bắc gọi là múa sư tử là vì nhác trông thì con lân giống con sư tử (Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của cũng giảng lân là một “con thú giống con sư tử). Vì vậy, người ta đã nhầm múa lân thành “múa sư tử” rồi cứ thế mà gọi lâu ngày thành quen. Nhưng cứ nhìn vào cái đầu lân (để múa) với cái miệng rộng, cái mũi to và cái sừng nổi cộm thì biết ngay đó không phải là con sư tử rồi.

Kiến thức ngày nay, số 100, ngày 15-1-1993

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2020

Tại sao lại nói “ngày tư ngày tết” và “tư niên” (là quanh năm). Hai tiếng “tư” này có liên quan gì với nhau hay không?


ĐỘC GIẢ: Tại sao lại nói “ngày tư ngày tết” và “tư niên” (là quanh năm). Hai tiếng “tư” này có liên quan gì với nhau hay không?

AN CHI: Hán ngữ có có một từ ghi bằng chữ , mà âm Hán Việt là tư, có nghĩa là năm, là mùa. Mathews’ Chinese-English Dictionary (p. 1023.ch. 6935) giảng là: “A year, a season”. Sách Lã thị xuân thu có câu: “Kim mỹ hòa, lai mỹ mạch” nghĩa là mùa này tốt lúa gạo, mùa tới tốt lúa mì. Vì nó cùng một trường nghĩa với tết nên người ta đã ghép nó với từ này thành tư tết, rồi lại xen ngày vào mà nói thành ngày tư ngày tết.
Còn trong “ tư niên” thì lại không liên quan gì đến trong “ngày tư ngày tết” cả. Nó là trong tư bề, tư mùa, nghĩa là một biến thể ngữ âm của tứ là bốn. Tư bề là bốn bề, nghĩa là mọi phía; tư mùa là suốt bốn mùa, nghĩa là quanh năm. Sự di chuyển tự nhiên và hợp lý từ bốn sang mọi, sang quanh trong nghĩa của tư bề, tư mùa đã dẫn đến cách hiểu sai lệch rằng có nghĩa là quanh, là khắp, là cả, vv. Với cách hiểu sai lệch này, người ta đã nói tư niên mà hiểu là quanh năm.

Kiến thức ngày nay, số 100, ngày 15-1-1993

Thứ Ba, 9 tháng 6, 2020

Tại sao lại gọi là “ông Táo”? “Táo” là gì?


ĐỘC GIẢ: Tại sao lại gọi là “ông Táo”? “Táo” là gì?

AN CHI: Táo là tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt, có nghĩa là bếp. Đại táo là bếp to, nấu cho chiến sĩ (quân đội) hoặc nhân viên (cơ quan) ăn tập thể rất đông người. Trung táo là bếp vừa, nấu cho cán bộ trung cấp. Còn tiểu táo là bếp nhỏ, mấu riêng cho cán bộ cao cấp. Lại còn có đặc táo là bếp nhỏ đặc biệt thượng hảo hạng. Theo tín ngưỡng xưa, bếp có thần bếp gọi là táo quân, táo vương hoặc táo thần, khẩu ngữ còn gọi là táo công. Người Việt Nam đã dịch táo công thành ông táo. Dân gian Việt Nam còn lấy hai tiếng ông táo để chỉ từng hòn trong ba hòn đất dùng để bắc chảo bắc nồi lên mà xào mà nấu. Những hòn đất này thoạt đầu thì cháy nám, rồi lâu ngày dài tháng, trở nên đen thủi đen thui (vì vậy mà trong khẩu ngữ ở Nam Bộ trước đây, người ta còn dùng hai tiếng ông táo để gọi đùa người Ấn Độ, rồi về sau cả linh da đen nữa).

Kiến thức ngày nay, số 100, ngày 15-1-1993

Tiếng Anh đã có từ Christmas để chỉ lễ Giáng sinh, lại còn có cả từ Yule nữa. Xin cho biết xuất xứ của từ này?


ĐỘC GIẢ: Tiếng Anh đã có từ Christmas để chỉ lễ Giáng sinh, lại còn có cả từ Yule nữa. Xin cho biết xuất xứ của từ này?

AN CHI: Yule là hình thái hiện đại bắt nguồn từ tiếng Anh trung đại yol, tiếng Anh cổ đại gẽol, với biến thể geohhol. Đồng nghĩa và cùng gốc với nó hiện nay là tiếng Thụy Điển, tiếng Na Uy và tiếng Đan Mạch jul mà tiếng Phần Lan láng giềng đã mượn và phát âm thành joulu. Theo Eric Patridge, hình thái cổ đại gẽol bắt nguồn từ một hình thái tiền thân là *gẽul, một kiểu hoán vị ngữ âm (metathesis) cùng gốc với tiếng La Tinh gelu, có nghĩa là băng giá. Do đó mà tiếng Anh cổ đại còn có danh từ gẽola để chỉ tháng December (tháng Chạp dương lịch), mà nghĩa từ nguyên là tháng băng giá. Còn gẽol, nay là Yule, là ngày lễ của tháng gẽola, tức là ngày Giáng sinh.

Kiến thức ngày nay, số 99, ngày 1-1-1993

Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2020

Tố Am Nguyễn Toại đã dựa vào thư tịch của Trung Quốc để khẳng định rằng Mạc Đăng Dung không phải là người Việt mà là người Đãn từ Trung Quốc lưu lạc sang. Xin hỏi người phụ trách mục “Chuyện Đông chuyện Tây” nghĩ sao về điều khẳng định này?


ĐỘC GIẢ: Trong bài “Hoàng hậu Hiếu Văn, làng Cổ Trai và đất Minh Linh” đăng trên Cửa Việt số 15, tháng 6-1992, Tố Am Nguyễn Toại đã dựa vào thư tịch của Trung Quốc để khẳng định rằng Mạc Đăng Dung không phải là người Việt mà là người Đãn từ Trung Quốc lưu lạc sang. Xin hỏi người phụ trách mục “Chuyện Đông chuyện Tây” nghĩ sao về điều khẳng định này?

AN CHI: Người đầu tiên phát hiện ra rằng Mạc Đăng Dung thuộc sắc dân Đãn Man là Trần Quốc Vượng tại hội khoa học về Nguyễn Bỉnh Khiêm tổ chức ở Hải Phòng tháng 2-1985. Cứ liệu của ông là một số điều ghi chép trong Minh sử. Bảy năm sau, Tố Am Nguyễn Toại lại tiếp tục khẳng định giống như Trần Quốc Vượng. Ngoài Minh sử ra, ông còn nêu tên sách Đông Hoãn huyện chí của Trần Bá Đào đời Thanh. Chúng tôi cho rằng chẳng qua Trần Bá Đào cũng chỉ viết theo Minh sử mà thôi và rằng những điều mà sách này đã chép về thành phần dân tộc của Mạc Đăng Dung là hoàn toàn không thể tin được.
Chỉ riêng một việc người Đại Minh “biết quá rõ” về lai lịch của Mạc Đăng Dung trong khi chính người Đại Việt thì lại hoàn toàn mù tịt về điều đó, chỉ riêng một việc đó thôi, cũng đã là điều hoàn toàn đáng ngờ rồi. Huống hồ chế độ tuyển cử và chế độ bảo cử quan chức của nước ta vào thời Lê thật chặt chẽ và chu đáo, thì làm sao một tên cha căng chú kiết – nếu quả ông ta là người Đãn Man – như Mạc Đăng Dung lại có thể len lỏi vào làm đô chỉ huy sứ từ năm 1508 để lên ngôi hoàng đế 19 năm sau đó?
Theo truyền thuyết thì Mạc Đăng Dung xuất thân từ nghề đánh cá – còn chúng tôi thì cho rằng bấy giờ ông ta là một Khương Thượng chờ thời – nên Minh sử mới dựa vào đó mà ghi chép một cách hồ đồ rằng ông là người Đãn Man, vì Đãn Man là một sắc dân chuyên sống lưu động trên ghe thuyền để làm nghề đánh cá và có khi cả nghề cướp biển nữa. Hoặc cũng có thể Minh sử đã cố ý ghi chép như thế để gián tiếp nhắn nhủ một cách trịch thượng rằng một tên Đãn Man cũng đủ khả năng để làm vua nước Đại Việt như thường. Dù thế nào mặc lòng, chúng tôi cho rằng người Việt Nam không thể đặt lòng tin tuyệt đối của mình vào sách Tàu được, nhất là sách Tàu mà lại viết những vấn đề lịch sử tế nhị của Việt nam.

Kiến thức ngày nay, số 99, ngày 1-1-1993