Thứ Bảy, 11 tháng 12, 2021
Lơ ngơ không biết nên dịch sai chăng?
LƠ NGƠ KHÔNG BIẾT NÊN DỊCH SAI CHĂNG?
Mỗi khi Thủ tướng hoặc Chủ tịch nước CHXHCN VN qua
thăm Mỹ, báo chí trong nước đưa tin: "chuyến thăm chính thức cấp nhà nước".
Trong khi đó, quí bạn chú ý, các đời Tổng thống Mỹ khi
mời phái đoàn lãnh đạo của CHXHCN Việt Nam qua thăm, hết thảy đều tiếp đón theo
nghi thức gọi là "Working Visit"; KHÔNG phải nghi thức "State
Visit" (hiểu nghĩa đen là "chuyến thăm nhà nước"), cũng KHÔNG phải
nghi thức "Official Visit" (hiểu nghĩa đen là "chuyến thăm chính
thức")!
Ủa, vậy là sao?
Bên Mỹ có nhiều nghi thức khác nhau mà Tổng thống Mỹ
dành tiếp các phái đoàn ngoại giao đến Bạch Cung (The White House), trong đó có
3 nghi thức chánh yếu: cao nhứt là "State Visit", kế đó là
"Official Visit", rồi "Working Visit".
Ở mức độ thấp hơn "Visit", đó là những
"cuộc gặp gỡ" (Meeting) nhân sự kiện hội nghị quốc tế nào đó diễn ra
trên đất Mỹ, hoặc tiếp xúc "riêng" (Private) bên ngoài Bạch Cung.
Nếu dịch rị mọ theo nghĩa đen, "state" là
nhà nước (quốc gia), "visit" là chuyến thăm, vậy "State
Visit" nghĩa là "chuyến thăm cấp nhà nước", dịch vậy là ... bị hố,
trật lất! Thì đó, bạn đâu thể nào dịch "Secretary of State" là
"Thư ký (bí thư) của quốc gia", mà đều hiểu chữ đó phải dịch là
"Ngoại trưởng" (Bộ trưởng Ngoại giao).
Người Mỹ họ có cách định danh riêng theo cách của họ,
như sau:
1/ STATE VISIT, nghĩa là chuyến thăm mang tính chất Quốc
khách, nghi thức dành cho Quốc khách. Bởi vì "State Visit" là nghi thức
dành cho Quốc khách nên thỉnh thoảng TT Mỹ mới tổ chức.
Nhựt Bổn là đồng minh chí thiết với Mỹ nhưng cho tới
nay, suốt mấy chục năm, mới có 3 lần Mỹ dành nghi thức "State Visit"
mà thôi. Một lần tiếp đón Nhựt hoàng Hirohito hồi năm 1975, một lần với Nhựt
hoàng Akihito năm 1994, và một lần dành cho Thủ tướng Shinzo Abe hồi năm 2015.
Với Thái Lan, cho đến nay cũng chỉ một lần Mỹ dành
nghi thức Quốc khách khi tiếp đón Quốc vương Bhumipol vào năm 1960.
Tân Gia Ba (Singapore) cũng một lần, "State
Visit" dành cho Thủ tướng Lý Hiển Long khi thăm Mỹ hồi năm 2016.
Đối với Việt Nam, nước Mỹ trải qua hai thời kỳ thiết lập
bang giao: với VNCH, sau đó, với CHXHCN VN. Tính chung cả hai thời kỳ cho đến
nay, Mỹ tiếp đón Quốc khách (State Visit) cũng chỉ mới một lần duy nhứt, hồi
năm 1957, dành cho Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Còn "State Visit" đối với giới lãnh đạo Bắc
Kinh?
Lần đầu tiên, Mỹ dành nghi thức Quốc khách cho giới
lãnh đạo bên Tàu là vào năm 1985, khi tiếp Chủ tịch nước Lý Tiên Niệm. Mãi tới
12 năm sau, vào năm 1997 Mỹ mới tiếp tục nghi thức "State Visit", khi
tiếp đón Chủ tịch nước Giang Trạch Dân.
Tuy nhiên, dưới thời TT Barack Obama tại vị, ông Obama
biệt đãi Bắc Kinh tới mức dành nghi thức "Chuyến thăm của Quốc khách"
(State Visit) liên tiếp hai lần! Dành cho ông Hồ Cẩm Đào hồi năm 2011, rồi đến
ông Tập Cận Bình hồi năm 2015.
Trong khi đó Tổng thống Donald Trump, trong suốt nhiệm
kỳ của ông, không tiếp họ Tập bằng "State Visit", thấp hơn chút như
"Official Visit" cũng không. Mà chỉ tiếp đón mang tính chất "riêng
tư" (private) tại tư dinh ở Florida.
2/ OFFICIAL VISIT, theo cách dùng chữ của ngành ngoại
giao Mỹ, được hiểu là chuyến thăm mang tính chất thượng khách, nghi thức dành
cho thượng khách (nhưng chưa tới mức gọi là "Quốc khách" như State
Visit).
3/ WORKING VISIT là chuyến thăm mang tính chất công vụ.
Tóm lại, STATE VISIT là chuyến thăm theo nghi thức Quốc
khách.
OFFICIAL VISIT là chuyến thăm theo nghi thức Thượng
khách.
WORKING VISIT là chuyến thăm theo nghi thức Công vụ.
*&*
* Làm sao biết các nghi thức mà Tổng thống Mỹ dành tiếp
đón giới lãnh đạo các quốc gia?
Dễ lắm, được công khai rõ rành trên website Bộ Ngoại
giao Mỹ (United States Department of State), vào mục "Visit by Foreign
Leaders". Rồi xem theo năm (By Year), ghi chú mỗi năm tiếp đón những
nguyên thủ nào của quốc gia nào, theo nghi thức nào (từ năm 1874 đến nay). Hoặc
xem theo tên quốc gia (By Country), chẳng hạn gõ vào "Vietnam" có ghi
rõ họ tên các nguyên thủ, nghi thức tiếp đón và thời gian của chuyến thăm.
* Những nghi thức nói trên, có gì khác nhau?
Cũng dễ phân biệt, coi hình ảnh mà báo chí đưa lên, để
ý một chút thì biết thôi.
Cả ba nghi thức Quốc khách (State Visit), Thượng khách
(Official Visit), Công vụ (Working Visit) đều có chung hình ảnh là sự xuất hiện
đoàn xe hộ tống (motorcade) đưa đến Bạch Cung. Trên xe có cắm cờ khổ nhỏ của nước
chủ nhà (Mỹ) và cờ của quốc gia khách mời.
Và, dĩ nhiên, có hình ảnh Tổng thống Mỹ hội kiến với
khách mời tại phòng Bầu dục trong Bạch Cung.
Nhưng, nếu bạn KHÔNG thấy hình ảnh khách mời duyệt
hàng quân danh dự (honor guard);
KHÔNG thấy hình ảnh lễ đón chính thức (gọi là
"Arrival Ceremony") tại phía Nam tòa Bạch Cung (South Lawn) với bãi cỏ
xanh mướt mênh mông;
KHÔNG thấy cử bản quốc ca của quốc gia khách mời &
cũng KHÔNG thấy lễ thượng kỳ của lá cờ quốc gia khách mời bay phất phới nơi
khuôn viên Bạch Cung => biết ngay chuyến thăm đó thuộc về chuyến thăm theo
nghi thức Công vụ (Working Visit)!
4 cái KHÔNG nêu trên, nếu trở thành CÓ thì đó là chuyến
thăm theo nghi thức Thượng khách (Official Visit), Quốc khách (State Visit). Ở
cấp Quốc khách (State Visit), Tổng thống Mỹ còn ra tận phi trường để đón.
* Ngoài ra, nếu bạn thấy đăng hình dùng tiệc khoản đãi
khách mời tại trụ sở Bộ Ngoại giao Mỹ, chủ nhà là Phó Tổng thống Mỹ, chắc mẩm
"Working Visit" không sai vào đâu được.
Bởi vì chỉ ở nghi thức "Official Visit",
"State Visit" - yến tiệc (gọi là "State dinner") mới được tổ
chức ngay trong Bạch Cung, và chủ trì bởi Tổng thống Mỹ.
THAY LỜI KẾT
Đã là "Visit" (bất luận "Visit"
nào), tức là qua thăm Mỹ theo lời mời của Tổng thống Mỹ (bởi vì vẫn có nhiều
trường hợp gặp gỡ Tổng thống Mỹ đâu qua nghi thức "Visit"), thảy đều
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bang giao!
Ngay cả nguyên thủ của nước Anh, nước Nhựt... cũng nhiều
lần qua Mỹ được đón tiếp bằng "Working Visit", đâu có gì mà phải sân
si.
Thành thử quí vị làm báo trong nước hãy chịu khó viết
cho chuẩn xác, cái nào ra cái đó, chẳng hạn "Working Visit" thì ghi
rõ "Chuyến thăm công vụ".
Giữa thời đại Internet, mà còn khư khư làm báo kiểu
"hũ nút", nghĩ cũng lạ đời thiệt ./.
-----------------------------------------------------------------
Nguồn: Matthew NChuong
Vài hình ảnh về nghi thức dành cho Quốc khách (State
Visit)
(hình 1): 1957, TT Eisenhower tiếp đón TT
Ngô Đình Diệm.
(hình 2): 1960, TT Eisenhower tiếp đón
vua Thái Lan Bhumipol.
(hình 3): 1982, TT Ronald Reagan tiếp
TT Suharto của Nam Dương (Indonesia).
(hình 4: 2018, TT Donald tiếp TT Pháp
Emmanuel Macron.
(hình 5): 2015, TT Barack Obama tiếp
Chủ tịch Tập Cận Bình.
Thứ Sáu, 10 tháng 12, 2021
Đồng âm dị nghĩa: "sái não" với Hán tự
ĐỒNG ÂM DỊ NGHĨA: “SÁI NÃO” VỚI HÁN TỰ
* Sao, chia tay Hán tự là "làm gãy" truyền
thống văn hóa? Nói năng hồ đồ cỡ vậy mà cũng nói cho bằng được! Kỳ thực đó là sự
đánh tráo khái niệm khi qui hết thảy văn-hóa-người-Việt chúng ta chỉ vào mỗi vốn
liếng chữ Hán mà thôi!
&1&
Khi quí bạn đọc chữ Quốc ngữ, chẳng hạn, “hoàng” thì ắt
phân vân không rõ “hoàng” là màu vàng hay “hoàng” là ông hoàng (vua), hoặc
“hoàng” trong kinh hoàng…? Phe cổ súy Hán tự có dịp công kích ngay: đó, nếu viết
/ biết chữ Hán thì đâu rơi vào sự mờ mịt do viết chữ Quốc ngữ!
Lập luận khá phổ biến của những người ủng hộ chữ Hán
là rứa đó. Thậm chí, họ còn nâng quan điểm cho rằng cắt đứt Hán tự là “gãy”
truyền thống, “đứt đoạn” với truyền thống.
Ai trong chúng ta không biết chữ Hán thì dễ bị hớp hồn
trước lập luận, tưởng họ nói đúng. Tưởng vậy là tưởng bở đó đa!
Đồng âm dị nghĩa, nên nhớ, là hiện tượng bất luận ngôn
ngữ nào cũng có hết; nhưng ở Hán tự thì đồng âm dị nghĩa nhiều tới mức “sái
não”!
Người biết chữ Hán mà lập luận (nêu trên) thì họ đang
lừa bạn, cũng có thể tự lừa chính họ.
&2&
Quí bạn có biết là…có đến 34 chữ Hán viết khác nhau
nhưng đều đọc là “hoàng”! Chẳng hạn, ký tự 皇 “hoàng” là ông vua
(trong “hoàng đế”), ký tự 黃 “hoàng” là màu vàng. Phe
cổ súy Hán tự sẽ reo lên: đó, mỗi ký tự rõ rành, đâu nhầm lẫn “hoàng” là vua
hay màu vàng như khi viết chữ Quốc ngữ.
Sự thực là đây: ký tự 皇 viết khơi khơi, đố ai dám
chắc mang nghĩa “ông hoàng”. Là sao? Vì “ông hoàng”, thực ra, chỉ là 1 trong 14
nghĩa của ký tự 皇 đó đa! Nhiều nghĩa khác nhau cỡ bắn đại bác
không tới, rất “quái”, cùng viết 皇 mà nào nghĩa là “ông hoàng”,
nghĩa là “bầu trời”, rồi lại có nghĩa là “nhà không có bốn vách”, nhà trống hoác,
hoặc có nghĩa là “chỗ trước cửa buồng ngủ”…
Sự thực là đây: ký tự 黃 viết mình ên, đâu ai dám
chắc mang nghĩa “màu vàng”! Bởi ký tự 黃 ngoài nghĩa “màu vàng”,
còn có những nghĩa như ri: “thất bại”, “đồi trụy”, rồi nghĩa là “già lão”…!
Mới liệt kê 2 ký tự (皇, 黃),
trong 34 ký tự đều đọc âm “hoàng”, mà đã lủ khủ nhiều nghĩa.
Khi quí bạn đọc chữ Quốc ngữ “h-o-à-n-g” (mà không có
ngữ cảnh đi kèm), bạn có thể phân vân trước số nghĩa khác nhau đếm trên đầu
ngón tay.
Nhưng nếu chúng ta không có chữ Quốc ngữ, mà học Hán tự
như hàng bao thế kỷ trước kia, nội một ký tự 皇 “hoàng” (không có ngữ cảnh
đi kèm), biết cái chữ này nghĩa gì trong 14 nghĩa? Tổng hợp 34 ký tự (Hán tự) đồng
âm “hoàng”, bét lắm cũng khoảng 100 nghĩa, chẳng phải nhíu mày nhẹ nhàng phân vân
mà là…bóp óc, sái não để tìm ý nghĩa, nặng nề như lãnh búa tạ!
&3&
Thấy gì?
3a) Về ngữ âm: Chữ Hán thích hợp với tiếng Tàu, nhưng
BẤT LỰC trước Tiếng (nói) Việt vì KHÔNG chứa được di sản tiếng “thuần Việt” (tức
"quốc âm").
3b) Về ngữ nghĩa: Chữ Hán xảy ra tình trạng một ký tự
thường có nhiều nghĩa, thậm chí rất nhiều. Điều này gây khó khăn không ít cho
việc “nhận diện” ngữ nghĩa.
&4&
4a) Thời xưa, biết chữ Hán là giới thầy đồ, giới quan
quyền (quan văn, quan võ), vua chúa. Giới bình dân người Việt phần lớn “mù chữ”
về Hán tự, mà do vậy lại càng ít hiểu biết về Hán học. Bước vô chùa, vô đình đền,
những hàng chữ Hán thì họ đâu biết đọc, thảy đều nhờ thầy đồ giải thích.
Vậy, có “gãy” truyền thống văn hóa không? Ắt là không!
Vì nếu “gãy” thì người Việt đã “gãy” từ lâu rồi (đa phần dân chúng đâu biết chữ
Hán), chớ không phải đợi tới thời cận đại, hiện đại.
Không “đứt đoạn” với truyền thống, là bởi vì truyền thống
bao trùm rất rộng – trong nghệ thuật diễn xướng dân gian, trong ca dao tục ngữ
truyền khẩu, trong văn hóa ẩm thực, văn hóa trang phục .v.v… chớ không phải qui
hết thảy văn-hóa-người-Việt vào vốn liếng chữ Hán mà thôi.
4b) Bổn phận, cũng có thể gọi là sứ mạng, trong việc
nghiên cứu di sản Hán tự trong thư tịch lịch sử Việt là nằm ở giới trí thức, đặc
biệt là những chuyên gia ngôn ngữ học.
Nếu “đứt đoạn” gì đó, lỗi – trước hết – nằm ở những
trí thức “đặc hiệu” như rứa, đừng trút trách nhiệm cho bà con người Việt làm đủ
thứ ngành nghề chỉ vì họ… không biết chữ Hán (!?).
Hãy dành thời gian mà chuyên tâm nghiên cứu và phát
triển di sản ngôn ngữ, hỡi các vị! Đừng suốt ngày rêu rao ngoài miệng, kỳ thực,
là đi làm những trò bung xung, giả nhân giả nghĩa, không hơn không kém! ./.
-----------------------------------------------------------------------
Nguồn: Mattheu NChuong
Hình ảnh: NGUYỄN TRƯỜNG TỘ, đau đáu trước "quốc
âm" (tiếng thuần Việt) bị đẩy ra khỏi Hán tự (chỉ có thể đọc âm Việt-Hán,
không đọc âm thuần Việt)!
Thứ Năm, 9 tháng 12, 2021
Trả lại sự công chính cho người công chính
TRẢ LẠI SỰ CÔNG CHÍNH CHO NGƯỜI CÔNG CHÍNH
(14/11 lễ kính "117 Thánh tử vì đạo tại VN";
ngày 24/11 tới đây lễ kính này diễn ra ở qui mô thế giới)
Dù cho trong quí bạn có những người không chia sẻ tín
lý vào việc "tuyên Thánh", cũng rất nên biết lý do bách hại những người
thờ phượng Chúa Jesus là do vua quan vịn vào "tập tục truyền thống".
Oái ăm thay, tín đồ thờ phượng Chúa Jesus bị cho là "tà đạo", rốt cuộc,
đem lại nếp văn minh cho quê hương! Là sao? Mời đọc cho tỏ tường:
/1/ Cần giải ảo, trước hết, về việc tử-vì-Đạo không
liên hệ đến chánh trị thực dân:
Vẫn dai dẳng cái lối biện luận cho rằng những người bị
bách hại là vì... có liên hệ với thực dân Pháp (?). Cái này là "gắp lửa bỏ
tay người", ác đức hết sức, gieo oan không thể tưởng!
Quí bạn có biết, chỉ trong vòng gần một thế kỳ rưỡi (từ
năm 1740 đến năm 1883) ước khoảng 130.000 người cho đến 300.000 người bị bách hại,
tử hình chỉ vì "tội" theo đạo Công giáo! Con số tàn sát phải nói là
khủng khiếp!
Trong số đó, chỉ mới có 117 vị được tuyên hiển Thánh tử
vì đạo (bởi Giáo hội Công giáo hoàn vũ), bị giết trong các đời vua chúa sau
đây:
2 vị dưới thời chúa Trịnh Doanh (1740-1767)
2 vị dưới thời chúa Trịnh Sâm (1767-1782)
2 vị do sắc lệnh của vua Cảnh Thịnh (1782-1802)
58 vị dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841)
3 vị dưới thời vua Thiệu Trị (1841-1847)
50 vị dưới thời vua Tự Đức (1847-1883)
Hết thảy các đời từ chúa Trịnh Doanh, chúa Trịnh Sâm,
vua Cảnh Thịnh, vua Minh Mạng cho đến vua Thiệu Trị bách hại đạo Công giáo đều
xảy ra TRƯỚC khi người Pháp nổ súng xâm lấn nước Việt (1858)!
Không lẽ những người Công giáo bị giết dưới đời chúa
Trịnh Doanh hồi năm 1740 là vì mắc tội... "hiện hồn về, bắt tay" với
quân Pháp mà mãi hơn một thế kỷ sau mới xuất hiện (1858)?
Không lẽ tín hữu Công giáo bị sát hại bởi sắc lịnh của
vua Minh Mạng (1820-1841) là do có thuật "chết rồi, sống lại để... giao
du" với Pháp sau đó những hơn ba mươi năm?
Mà ngay cả dưới đời vua Tự Đức (1847-1883), trong tất
cả các chiếu, dụ của vua bách hại người theo Công giáo đều không có nội dung
nào dính dấp đến chống đối luật nước. Thậm chí ngược lại, như vào năm 1864
ngưng bách hại, vua Tự Đức hạ Dụ rằng: "sự trung thành của người Công giáo
đối với đạo và luật nước đã làm trẫm hết sức khâm phục"!
Chính nhà vua Tự Đức tán dương người Công giáo là
"trung thành với luật nước", tức luật của triều đình.
(đời sau bỗng dưng có đám người đi ... nhét chữ vào miệng
vua Tự Đức khi cho rằng vua sát hại người Công giáo vì họ chống đối luật nước
?!)
/2/ Vậy, vua quan sát hại những người thờ phượng Chúa
Jesus là bởi lý do nào? Hoàn toàn thuộc về sự khác biệt trong quan niệm tin ngưỡng,
tập tục "truyền thống".
Các vua quan bắt tín đồ thờ phượng Chúa Jesus phải bước
qua cây Thập giá: tuân lịnh thì sống, trái lịnh thì chết.
Thấy gì? Rõ rành đây thuần túy là sự bách hại về mặt
tín ngưỡng tôn giáo.
Các đời vua quan hồi đó chưa biết đến, nói thẳng là
"hủ lậu", về quyền tự do lựa chọn tôn giáo căn bản & chính đáng
trong quảng đại quần chúng.
Học giả Trần Trọng Kim, trong cuốn "Việt Nam sử
lược", nhận định: "Đã không cho người ngoại quốc vào buôn bán, lại
đem làm tội những người đi giảng đạo. Sức đã không đủ giữ nước mà cứ làm điều
tàn ác!".
/3/ Chỉ vì không thuận theo vài tập tục "truyền
thống" thì bị đấu tố, lôi ra giữa đàng, phải bị giết chết (!). Thật là hủ
lậu, vô nhân đạo đến rợn người.
Ở đây, quí bạn chú ý đến 2 "truyền thống" phổ
biến trong lòng xã hội VN thế kỷ 18, 19. Đó là:
3a) Tín lý của Đạo thờ phượng Chúa tuyên xưng, rằng: từ
người nông dân chân lấm tay bùn cho đến bực vua quan quyền quí đều BÌNH ĐẲNG VỀ
PHẨM GIÁ - bởi vì "mọi người đều mang hình ảnh của Thiên Chúa".
Tín niệm này khiến cho não trạng truyền thống coi
"vua là con Trời" làm sao chấp nhận cho nổi! Giới vua quan triều đình
thì đâu thể ngang hàng về phẩm giá với dân đen!
Đạo Công giáo mang suy nghĩ đó rao giảng cho dân đen ở
nước Việt, có khác nào làm cho sự tôn quí của "con Trời" (thiên tử) mất
uy linh, gây tổn hại đến quyền lực của vua?
3b) Tín niệm thờ phượng Chúa rao giảng hôn nhơn
"một vợ một chồng", quả là HOÀN TOÀN TRÁI NGƯỢC với "truyền thống"
chế độ đa thê trong xã hội VN bấy giờ, vua quan được phép có nhiều vợ chánh thức
cùng lúc.
Dân đen mà càng theo Công giáo thì họ sẽ càng nhận thấy
vua quan đa thê là "lỗi Đạo Chúa"! Vua quan nước Việt thời bấy giờ
làm sao chấp nhận cho nổi họ bị chê trách là "lỗi Đạo"?
Thấy gì? Hôn nhơn "một vợ một chồng" mới thực
là não trạng văn minh! (còn đa thê lại là một truyền thống cần phải bị xóa bỏ,
và quả thật - như chúng ta đang thấy - đã bị hủy bỏ!).
Đem lại phép văn minh trong hôn nhơn, lại bị cho là
"tà đạo", oái ăm vậy đó!
/4/ Theo đạo Công giáo là vì lợi lộc vật chất (?):
Một lần nữa, quí bạn cần gìn giữ cái nhìn khách quan về
lịch sử. Gần một thế kỷ rưỡi bị bách hại, TRONG THẾ KỶ 18 VÀ THẾ KỶ 19, từ chúa
Trịnh Doanh cho đến vua Tự Đức, hễ ai theo Công giáo là rước lấy nguy cơ không
toàn thây, mạng sống bị đe dọa.
"Lợi lộc" nào ở đây, ngoài cái chết?
Trong rất nhiều cuộc bách hại, tín hữu Công giáo nào
mà chấp nhận bước qua thập giá, chẳng những không bị giết chết lại còn được thưởng
nén bạc nén vàng. Ta nói, từ bỏ đạo Công giáo thì mới có lợi lộc đó đa!
Hồ đồ đến vậy ("theo Công giáo thì được cơm ăn, lợi
lộc") mà cũng ráng tuyên truyền lếu láo cho bằng được.
TẠM THAY LỜI KẾT
Hàng trăm ngàn người VN theo đạo Công giáo bị bách hại,
đó đã là một thảm trạng khủng khiếp dành cho người công chính.
Đã vậy còn bị gán cho đủ thứ tội tình bởi tâm địa kích
động thù hằn. Người công chính bị gieo rắc oan khiên.
Ta nói, quí bạn bất luận theo tôn giáo nào mà MANG TÂM
ĐẠO CHƠN CHÁNH, ắt quí bạn hiểu CẦN THÁO GỠ MỌI OAN KHIÊN (*).
Có làm như vậy thì mới khỏe khoắn cho tâm trí lẫn tâm hồn
./.
---------------------------------------------------------------
Nguồn: Mattheu NChuong
Tên gọi "Thăng Long" ("Rồng Bay") tồn tại chính thức bao lâu? Không lâu như thơ ca thường thêu dệt...
TÊN GỌI "THĂNG LONG" ("RỒNG BAY") TỒN TẠI CHÍNH THỨC BAO LÂU? KHÔNG LÂU NHƯ THƠ CA THƯỜNG THÊU DỆT...
Tên gọi "Thăng Long" xuất hiện cách đây ngàn
năm thì rõ rồi (vào năm 1010), nhưng "xuất-hiện-cách-đây" hoàn toàn
KHÁC với thời gian tồn tại chính thức của danh xưng này!
1) THĂNG LONG 昇龍 (nghĩa là "rồng
bay"), do Lý Thái Tổ mở đầu triều Lý đặt tên cho kinh đô, vào năm 1010.
2) Trần Thái Tông mở đầu triều Trần, vào năm 1243 đã đổi
tên kinh đô là LONG PHƯỢNG 龍 鳳
3) Hồ Quý Ly dựng nên triều Hồ (kế tiếp triều Trần),
1397 đổi tên là ĐÔNG ĐÔ 東都
4) Đến Lê Thái Tổ mở đầu triều Hậu Lê, năm 1430 đổi
tên kinh đô là ĐÔNG KINH 東京.
Chú ý: tên gọi "Đông Kinh" được dùng chính
thức suốt triều Lê Trung Hưng kế tiếp (vua Lê - chúa Trịnh), khi đất nước phân
chia Đàng Ngoài / Đàng Trong. Người phương Tây khi giao thương với Đàng Ngoài,
do kinh đô được gọi là "ĐÔNG KINH" (không còn gọi "Thăng
Long"), họ cũng dựa vào đó mà gọi là "Tonkin"!
Sau này khi Pháp đặt chế độ bảo hộ, họ dựa theo tên gọi
"Tonkin" đã quen thuộc với phương Tây (nhắc lại: có nghĩa là
"Đông Kinh") mà đặt tên cho toàn vùng Bắc Kỳ là "TONKIN"
(còn tên gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ là do vua Minh Mạng đặt ra vào năm 1831
trước hơn nửa thế kỷ khi người Pháp xâm lược).
Họ cũng gọi tên vùng biển phía Bắc (trong nước gọi
"Vịnh Bắc bộ") là: "Gulf of TONKIN" (vịnh Đông Kinh) - tên
gọi vịnh như rứa vẫn còn đang dùng trên bản đồ thế giới hiện nay.
5) Qua triều Nguyễn, vua Gia Long vào năm 1805 đổi tên
từ "Đông Kinh" sang "Thăng Long" - NHƯNG "Thăng
Long" 昇隆
này chỉ đồng âm mà KHÁC nghĩa hoàn toàn, KHÔNG phải "rồng bay" mà
mang nghĩa "hưng thịnh vươn lên".
Đến năm 1831, vua Minh Mạng đổi tên là HÀ NỘI 河 內,
được dùng cho đến hiện nay.
* Thấy gì? Dựa theo danh xưng CHÍNH THỨC do các triều
đại đặt tên, thì "THĂNG LONG" (mang nghĩa "Rồng bay") tồn tại
từ năm 1010 đến năm 1243, té ra là ... 233 năm, chưa đầy hai thế kỷ rưỡi!
Có những người bỗng quên béng "Thăng Long"
đã đổi sang tên khác dưới triều Trần. Thôi thì... cho tồn tại tới đầu đời Hồ là
dứt (không cách gì bôi xóa được dữ kiện này) => "Thăng Long" từ
1010 đến 1397, vị chi 387 năm thôi (chớ kiếm đâu ra "ngàn năm tồn tại danh
xưng Thăng Long"?).
*&*
Ta nói ký ức thì đâu bị "buộc" phải theo văn
bản, tồn tại miết, thành thử "Thăng Long" với nghĩa "rồng
bay" được nhắc đi nhắc lại.
Chẳng hạn, tên gọi "Sài Gòn" về mặt văn bản
thì đã dứt vào tháng 7 năm 1976. Nhưng, đến nay đã 45 năm trôi qua, ký ức vẫn gọi
tên là SÀI GÒN đó đa!
--------------------------------------------------------
Nguồn: Mattheu NChuong
(Hình ảnh: "Thăng Long", tên gọi của một thời
không quá dài)
Thứ Tư, 8 tháng 12, 2021
Quảng Nam - Đà Nẵng ghi dấu Công Giáo, Tin Lành
QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG GHI DẤU CÔNG GIÁO, TIN LÀNH
* Hội thánh Tin Lành tự trị đầu tiên được truyền giảng
vào nước VN từ năm 1911, tại Hội An. Và nhà thờ Tin Lành do chính người VN dựng
là "Nhà thờ Tin Lành Hội An" cất vào năm 1929.
* Giáo xứ xưa nhứt của Công giáo VN là giáo xứ Hội An,
nhà thờ của giáo xứ này xây cất vào năm 1615.
1/ Phan Khôi, nhà nghiên cứu và nhà thơ nổi tiếng (bài
"Tình già"), đã sử dụng bản chữ Hán đối chiếu với bản chữ Pháp để dịch
Kinh Thánh sang tiếng Việt (Kinh Thánh Tin Lành).
Đấng Christ, viết bằng chữ Hán là 基督,
âm Việt của hai chữ Hán này là "Cơ Đốc". Thành thử Cơ Đốc giáo : thờ
phượng Chúa Cơ Đốc, tức Chúa (Jesus) Christ.
Tên gọi của các sứ đồ, được phiên âm từ tiếng Pháp.
Như Matthieu => Ma-thi-ơ, Jean => Giăng, Marc => Mác, Pierre =>
Phi-e-rơ, rồi Joseph => Giô-dép ...
2/ Trong khi đó, nhiều danh xưng bên Công giáo được
phiên âm từ tiếng Bô.
Lịch sử truyền giáo vào nước Việt là đầu thế kỷ 17, và
các vị giáo sĩ đa số là người Bồ (có một ít là người Ý). Thành thử rất nhiều
cách gọi trong đạo Công giáo hiện diện tại VN là từ các ngài giáo sĩ dòng Tên
này, từ tiếng Bồ Đào Nha.
Chúa Giê-su Ki-tô <= (tiếng Bồ) Jesus Cristo.
Thánh Gioan <= (tiếng Bồ) João
Thánh Mác-cô <= Marcos.
Thánh Lu-ca <= Lucas.
Thánh Mát-thêu <= Mateus
Rồi, còn nữa:
Ma-ri-a <= (tiếng Bồ) Maria
Giu-se <= José
Phê-rô <= Pedro
Phao-lô <= Paulo ...
* Suốt giai đoạn đầu HÌNH THÀNH CHỮ QUỐC NGỮ, là bởi
các vị người Bồ (chớ không có vị nào quốc tịch Pháp, Anh hết trơn)!
Nổi bật nhứt, công trạng hàng đầu, thuộc về giáo sĩ
người Bồ Francisco de Pina. Ngài đến Đàng Trong vào năm 1617 - đến Quảng Nam và
Qui Nhơn. Ngài Francisco de Pina đã dựa vào hệ thống ký tự Bồ (cũng nằm trong hệ
thống ký tự Latin) để tìm cách ký âm tiếng Việt mà ngài gọi là "chữ viết
cho tiếng An Nam".
Giáo sĩ Alexander Rhodius (Đắc Lộ) học nói tiếng Việt
và học bộ chữ mà sau này chúng ta gọi là "chữ Quốc ngữ" do Francisco
de Pina đặt nền móng. Ngài Đắc Lộ hoàn thiện, và ấn phẩm nối tiếng là "Từ
điển Việt - Bồ - La" (tên nguyên bản "Dictionarium Annamiticum
Lusitanum et Latinum"), xuất bản vào năm 1651.
Ngài Đắc Lộ (1591-1660) sinh quán tại Avignon, nhiều
người nhầm lẫn tưởng ngài là "công dân Pháp quốc". Trật lất!
Ngài là công dân của quốc gia mang tên "Lãnh thổ
của Giáo hội" (The State of the Church, tên Latin là "Status
Ecclesiasticus").
Quê quán Avignon thuộc Lãnh thổ Giáo hội, kéo dài cho
đến cuối thế kỷ 18 sau này lận (năm 1791) thì mới thuộc về nước Pháp.
Thành thử ngài Đắc Lộ soạn từ điển - chú ý - hoàn toàn
không có tiếng Pháp phiếc gì ráo, mà là tiếng Latin (ngôn ngữ của Lãnh thổ Giáo
hội Công giáo), tiếng Bồ.
----------------------------------------------------
Nguồn: Mattheu NChuong
Hinh ảnh (hàng trên): Nhà thờ Tin Lành Hội An nay, được
xây mới trên nền của nhà thờ ban đầu cất vào năm 1929.
Hình ảnh (hàng dưới) Nhà thờ Công giáo Hội An xưa và
nay.
Thứ Ba, 7 tháng 12, 2021
Thứ Hai, 6 tháng 12, 2021
"Biển Đông Nam Á" ("Southeast Asia Sea"): Yes or No?
"BIỂN ĐÔNG NAM Á" ("SOUTHEAST ASIA SEA"): YES or NO?
Chúng ta, ở trong nước, ghi "Biển Đông"
(East Sea); nhưng chỉ cần bước ra khỏi VN, trên thế giới chẳng có nơi đâu ghi
"East Vietnam Sea" hết! Cũng vậy, người Phi khi ra khỏi lãnh thổ nước
họ, chẳng có nơi nào ghi "West Philippines Sea". Bản đồ thế giới toàn
ghi "South China Sea".
Thành thử cũng phải tìm hiểu cớ sao thế giới họ ghi
"South China Sea". Xin diễn giải dưới đây, để nghĩ "lối ra"
cho việc định danh.
&1&
Khi các bản đồ trên thế giới ghi "South China
Sea" (biển Nam Trung Hoa), điều này không hề mang ý nghĩa đây là vùng biển
thuộc chủ quyền của Trung Hoa. Thì đó, "Ấn Độ dương" (Indian Ocean),
đâu ai ngớ ngẩn cho rằng cả một đại dương bao la này là thuộc chủ quyền của Ấn
Độ?
"Vịnh Mexico" (Gulf of Mexico), có chữ
"of" ("của") hẳn hòi, nhưng đâu phải là vùng biển thuộc Mễ
Tây Cơ (Mexico), mà lãnh hải ở vùng biển này còn liên can đến Mỹ, đến Cổ Ba
(Cuba).
Nữa, "Vịnh Thái Lan" (Gulf of Thailand) đâu
thuộc sở hữu cho mỗi Thái Lan, mà còn có phần của Cao Miên (Cambodia), Việt
Nam.
&2&
Mỹ họ không bận tâm phải đổi tên "Vịnh
Mexico" thành "Vịnh USA", cho dù Mỹ dư sức lấn lướt ở vùng biển
này. Mà nói đâu xa, "Vịnh Thái Lan" có phần của VN nhưng chúng ta đâu
phải bận tâm để nghĩ ra một cái tên thay vào cụm chữ "vịnh Thái Lan".
Vậy, cớ sự nào khiến cho chúng ta đau đáu về danh xưng
của vùng biển nằm về phía đông nước VN? Là bởi vì Bắc Kinh hung hăng, đòi nuốt
trọn. Họ cho rằng khi gọi "South China Sea" tức... đây là vùng biển
phía nam của họ (?).
Cái lập luận rất "rừng rú" (mặc dù đang nói
về... biển) của Bắc Kinh, sai lè lè về mặt luật pháp quốc tế, đã khiến các nước
quanh vùng như Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương (Indonesia) chỉ muốn đổi
phứt cái tên "South China Sea" cho khỏi ngứa mắt!
&3&
VN gọi "East Sea" thì dễ gì Phi Luật Tân chịu.
Đến lượt Phi gọi "West Philippines Sea" thì VN rồi Nam Dương đâu nghe
lọt lỗ nhĩ. Nam Dương cũng đâu chịu ngồi im, họ đổi tên gọi vùng biển này là
"North Natuna Sea" (biển Bắc quần đảo Natuna thuộc Nam Dương).
Thành thử, cho tới giờ phút này, gọi "East
Sea" cho mát mặt VN chúng ta, gọi "West Philippines Sea" thì người
Phi hài lòng, gọi "North Natuna Sea" thì Nam Dương mãn nguyện.
Nhưng, cũng bởi vì mạnh ai nấy gọi, chỉ có hiệu lực
trong nội bộ mỗi nước mà thôi, để rồi... khi ngó ra các bản đồ của thế giới, vẫn
cứ rành rành dòng chữ: "South China Sea"!
&4&
Theo Adam Bray, trong bài "The Cham: Descendants
of Ancient Rulers of South China Sea Watch Maritime Dispute From
Sidelines", cho biết: "Trước thế kỷ 16, giới hàng hải khắp châu Á biết
đến vùng này với tên gọi "CHAMPA SEA" (Biển Chàm), được đặt theo tên
của một vương quốc từng kiểm soát toàn bộ miền trung VN hiện nay, từ biên giới
phía bắc của tỉnh Quảng Bình cho đến gần biên giới phía Nam của tỉnh Bình Thuận"
(bản dịch của Ánh Hiền).
Đến thế kỷ 16, người Bồ Đào Nha trong việc giao thương
hàng hải đã gọi vùng biển [mà VN quen gọi là "biển Đông"] là
"China Sea" ("Mare da China": biển Trung Hoa), về sau để
phân biệt những vùng biển lân cận nên người phương Tây gọi là "South China
Sea".
&5&
"South China Sea", vậy là do mấy ông Tây đặt,
đâu phải Tàu.
Nếu cứ sóng yên biển lặng thì cái tên gọi "South
China Sea", cũng hệt như cái tên "Gulf of Mexico", "Gulf of
Thailand"..., đâu chết ai!
Ngặt là có sự tranh chấp, có Tàu Bắc Kinh nổi hung, thấy
có chữ "China" trong cái tên - do Tây đặt - thì đòi sở hữu vùng biển
này.
* Ở đây, cần tham khảo kinh nghiệm đặt tên "Địa
Trung Hải" (Mediterranean Sea).
Các nước quanh vùng, tỉ như Ý gọi "Sea of
Sicily" (gọi tên theo hòn đảo thuộc Ý), Hy Lạp đặt tên vùng biển là
"Sea of Crete".v.v... Cuối cùng, các nước này ĐỒNG THUẬN NGỒI LẠI HỌP
BÀN với Tổ chức Thủy văn quốc tế (IHO: International Hydrographic
Organization), để cùng thống nhứt gọi tên vùng biển là: "Địa Trung Hải",
không dính tên bất cứ quốc gia nào trong vùng hết, khỏi đôi co nữa!
Vậy, gọi vùng biển (mà VN gọi "biển Đông") bằng
cái tên chung: "Biển Đông Nam Á" (Southeast Asia Sea) cũng là một đề
xuất rất hợp lý. Không dính tên bất cứ quốc gia nào ở trỏng, khỏi sân si gì
ráo.
&6&
NHƯNG, các nước quanh vùng đâu chịu ngồi chung họp bàn
cùng với Tổ chức IHO (để thống nhứt một cái tên chung).
Thành thử trong những hội nghị quốc tế do Liên Hiệp quốc
chủ trì, ngay cả khi chỉ trích "China" của chế độ Bắc Kinh làm bậy đi
nữa, thì trên bản đồ & trong văn bản vẫn ghi vùng biển nơi đây là:
"South China Sea".
Vậy đó.
--------------------------------------------------------------------
Nguồn:
Đồng Âm Dị Nghĩa: "sái não" với Hán tự
ĐỒNG ÂM DỊ NGHĨA: “SÁI NÃO” VỚI HÁN TỰ
* Sao, chia tay Hán tự là "làm gãy" truyền
thống văn hóa? Nói năng hồ đồ cỡ vậy mà cũng nói cho bằng được! Kỳ thực đó là sự
đánh tráo khái niệm khi qui hết thảy văn-hóa-người-Việt chúng ta chỉ vào mỗi vốn
liếng chữ Hán mà thôi!
&1&
Khi quí bạn đọc chữ Quốc ngữ, chẳng hạn, “hoàng” thì ắt
phân vân không rõ “hoàng” là màu vàng hay “hoàng” là ông hoàng (vua), hoặc
“hoàng” trong kinh hoàng…? Phe cổ súy Hán tự có dịp công kích ngay: đó, nếu viết
/ biết chữ Hán thì đâu rơi vào sự mờ mịt do viết chữ Quốc ngữ!
Lập luận khá phổ biến của những người ủng hộ chữ Hán
là rứa đó. Thậm chí, họ còn nâng quan điểm cho rằng cắt đứt Hán tự là “gãy”
truyền thống, “đứt đoạn” với truyền thống.
Ai trong chúng ta không biết chữ Hán thì dễ bị hớp hồn
trước lập luận, tưởng họ nói đúng. Tưởng vậy là tưởng bở đó đa!
Đồng âm dị nghĩa, nên nhớ, là hiện tượng bất luận ngôn
ngữ nào cũng có hết; nhưng ở Hán tự thì đồng âm dị nghĩa nhiều tới mức “sái
não”!
Người biết chữ Hán mà lập luận (nêu trên) thì họ đang
lừa bạn, cũng có thể tự lừa chính họ.
&2&
Quí bạn có biết là…có đến 34 chữ Hán viết khác nhau
nhưng đều đọc là “hoàng”! Chẳng hạn, ký tự 皇 “hoàng” là ông vua
(trong “hoàng đế”), ký tự 黃 “hoàng” là màu vàng. Phe
cổ súy Hán tự sẽ reo lên: đó, mỗi ký tự rõ rành, đâu nhầm lẫn “hoàng” là vua
hay màu vàng như khi viết chữ Quốc ngữ.
Sự thực là đây: ký tự 皇 viết khơi khơi, đố ai dám
chắc mang nghĩa “ông hoàng”. Là sao? Vì “ông hoàng”, thực ra, chỉ là 1 trong 14
nghĩa của ký tự 皇 đó đa! Nhiều nghĩa khác nhau cỡ bắn đại bác
không tới, rất “quái”, cùng viết 皇 mà nào nghĩa là “ông hoàng”,
nghĩa là “bầu trời”, rồi lại có nghĩa là “nhà không có bốn vách”, nhà trống hoác,
hoặc có nghĩa là “chỗ trước cửa buồng ngủ”…
Sự thực là đây: ký tự 黃 viết mình ên, đâu ai dám
chắc mang nghĩa “màu vàng”! Bởi ký tự 黃 ngoài nghĩa “màu vàng”,
còn có những nghĩa như ri: “thất bại”, “đồi trụy”, rồi nghĩa là “già lão”…!
Mới liệt kê 2 ký tự (皇, 黃),
trong 34 ký tự đều đọc âm “hoàng”, mà đã lủ khủ nhiều nghĩa.
Khi quí bạn đọc chữ Quốc ngữ “h-o-à-n-g” (mà không có
ngữ cảnh đi kèm), bạn có thể phân vân trước số nghĩa khác nhau đếm trên đầu
ngón tay.
Nhưng nếu chúng ta không có chữ Quốc ngữ, mà học Hán tự
như hàng bao thế kỷ trước kia, nội một ký tự 皇 “hoàng” (không có ngữ cảnh
đi kèm), biết cái chữ này nghĩa gì trong 14 nghĩa? Tổng hợp 34 ký tự (Hán tự) đồng
âm “hoàng”, bét lắm cũng khoảng 100 nghĩa, chẳng phải nhíu mày nhẹ nhàng phân
vân mà là…bóp óc, sái não để tìm ý nghĩa, nặng nề như lãnh búa tạ!
&3&
Thấy gì?
3a) Về ngữ âm: Chữ Hán thích hợp với tiếng Tàu, nhưng
BẤT LỰC trước Tiếng (nói) Việt vì KHÔNG chứa được di sản tiếng “thuần Việt” (tức
"quốc âm").
3b) Về ngữ nghĩa: Chữ Hán xảy ra tình trạng một ký tự
thường có nhiều nghĩa, thậm chí rất nhiều. Điều này gây khó khăn không ít cho
việc “nhận diện” ngữ nghĩa.
&4&
4a) Thời xưa, biết chữ Hán là giới thầy đồ, giới quan
quyền (quan văn, quan võ), vua chúa. Giới bình dân người Việt phần lớn “mù chữ”
về Hán tự, mà do vậy lại càng ít hiểu biết về Hán học. Bước vô chùa, vô đình đền,
những hàng chữ Hán thì họ đâu biết đọc, thảy đều nhờ thầy đồ giải thích.
Vậy, có “gãy” truyền thống văn hóa không? Ắt là không!
Vì nếu “gãy” thì người Việt đã “gãy” từ lâu rồi (đa phần dân chúng đâu biết chữ
Hán), chớ không phải đợi tới thời cận đại, hiện đại.
Không “đứt đoạn” với truyền thống, là bởi vì truyền thống
bao trùm rất rộng – trong nghệ thuật diễn xướng dân gian, trong ca dao tục ngữ
truyền khẩu, trong văn hóa ẩm thực, văn hóa trang phục .v.v… chớ không phải qui
hết thảy văn-hóa-người-Việt vào vốn liếng chữ Hán mà thôi.
4b) Bổn phận, cũng có thể gọi là sứ mạng, trong việc
nghiên cứu di sản Hán tự trong thư tịch lịch sử Việt là nằm ở giới trí thức, đặc
biệt là những chuyên gia ngôn ngữ học.
Nếu “đứt đoạn” gì đó, lỗi – trước hết – nằm ở những
trí thức “đặc hiệu” như rứa, đừng trút trách nhiệm cho bà con người Việt làm đủ
thứ ngành nghề chỉ vì họ… không biết chữ Hán (!?).
Hãy dành thời gian mà chuyên tâm nghiên cứu và phát
triển di sản ngôn ngữ, hỡi các vị! Đừng suốt ngày rêu rao ngoài miệng, kỳ thực,
là đi làm những trò bung xung, giả nhân giả nghĩa, không hơn không kém! ./.
-----------------------------------------------------------------------
Nguồn: Mattheu NChuong
Hình ảnh: NGUYỄN TRƯỜNG TỘ, đau đáu trước "quốc
âm" (tiếng thuần Việt) bị đẩy ra khỏi Hán tự (chỉ có thể đọc âm Việt-Hán,
không đọc âm thuần Việt)!