Thứ Bảy, 19 tháng 6, 2021
Thứ Sáu, 18 tháng 6, 2021
Một bài trên Kiến thức ngày nay, số 104, trang 47-51, có dùng từ “mặc khải”. Từ này không thấy có trong từ điển của cụ Đào Duy Anh và của ông Nguyễn Văn Khôn. Từ “mặc khải” có liên quan gì đến thuyết linh ứng bên đạo Thiên Chúa không?
ĐỘC GIẢ: Một bài trên Kiến thức ngày nay, số 104, trang 47-51, có dùng từ “mặc khải”. Từ này không thấy có trong từ điển của cụ Đào Duy Anh và của ông Nguyễn Văn Khôn. Từ “mặc khải” có liên quan gì đến thuyết linh ứng bên đạo Thiên Chúa không?
AN
CHI:
Mặc khải là một từ Hán Việt mà người
ta đã dùng để dịch danh từ Révélation của tiếng Pháp (tiếng Anh: Revelation) với
tính cách là một thuật ngữ tôn giáo. Danh từ thần học và triết học của
Ban giáo sư Đại chủng viện Bùi Chu do Trí-đức-thư-xã
(Hà Nội) xuất bản năm 1952 đã ghi như sau:
“Révélation:
Mặc khải, Révélation divine: Mặc-khải
Thiên-Chúa. Révélation formelle: Mặc-khải mô-thức. Révélation primitive: Mặc-khải sơ-khai
(…). Đồng nghĩa với mặc khải là mặc thị mà người Nhật đọc thành mokuji. Họ dùng từ này để dịch tên sách Apocalypse (là sách cuối cùng trong Kinh
Thánh, phần Tân ước) thành Mokuji roku
(Mặc thị lục). Kinh Thánh bản tiếng Việt của Thánh-Kinh Hội tại Việt Nam, in
năm 1975 cũng dùng từ này, chẳng hạn “Sự mặc-thị của Đức Chúa Jêsus-Christ”
(sách khải-huyền,1: 1). Nhưng bản tiếng việt của Hội Ghi-đê-ôn Quốc-tế năm 1965
thì lại dùng từ khải thị, chẳng hạn “Sự khải-thị của Jésus-Christ” (Sách Khải-thị
của Giăng, 1: 1). Danh từ thần học và triết học dã dịch Révélation thành mặc khải
và dịch Apocalypse thành Khải huyền thư. Thực ra, nghĩa của apocalypse cũng là
Révélation vì đó là dạng tiếng Pháp – và cả tiếng Anh – của tiếng Hy Lạp
apokalupsis, có nghĩa là… Révélation, tức mặc thị, mặc khải, khải thị hoặc khải
huyền. Đây đều là những từ đồng nghĩa. Từ điển của Đào Duy Anh và của Nguyễn
Văn Khôn không ghi nhận từ mặc khải một phần vì đây không phải là một từ thông
dụng, một phần vì đó cũng không phải là từ điển cỡ lớn. Đầy đủ hơn nhiều như Từ hải cũng chỉ ghi nhận có khải thị mà không có mặc khải, mặc thị hoặc khải huyền.
Trong bài ông đã nêu, tác giả chỉ dùng từ mặc khải theo nghĩa thông thường là bộc
lộ, biểu lộ…mà thôi.
Kiến
thức ngày nay, số 141, ngày 15-6-1994
Thứ Năm, 17 tháng 6, 2021
Thứ Tư, 16 tháng 6, 2021
Người Việt cần hiểu Sử Việt: Thăng Long quen thói toa rập, nhượng lãnh thổ cho ngoại bang
Người Việt cần hiểu Sử Việt:
THĂNG LONG QUEN THÓI TOA RẬP, NHƯỢNG LÃNH THỔ CHO NGOẠI
BANG
Đây không nói về vua Lê Chiêu Thống vì quyền lợi dòng
tộc mà toa rập với ngoại bang. Mà nói về một dữ kiện tồi tệ hơn nhiều: trước đó
một thế kỷ, chúa Trịnh Tráng cũng chỉ vì mưu lợi cho thể chế (triều đình Thăng
Long) mà ký mật ước nhượng lãnh thổ cho ngoại bang, "nội công ngoại
kích" nhằm cưỡng chiếm Đàng Trong!
&1&
Trong biên khảo về xứ Đàng Trong thế kỷ 17 & 18,
Tiến sĩ sử học Li Tana đưa ra một bức thư của chúa Trịnh Tráng gửi cho Hòa Lan
vào năm 1637, xin cầu viện với mục tiêu đánh chiếm Đàng Trong. Trong đó có đoạn:
"Sau khi chiến thắng chúng tôi sẽ ban tặng cho binh lính các ông 20.000 tới
30.000 lạng bạc. Về phần các ông, chúng tôi sẽ trao xứ Quảng Nam cho các ông
cai trị"!
TRIỀU ĐÌNH THĂNG LONG, chỉ vì mưu lợi cho ngai vàng,
đã sẵn sàng NHƯỢNG ĐẤT CHO NGOẠI BANG miễn giúp họ chiếm được Đàng Trong.
Ồ, Quảng Nam bấy giờ thuộc thẩm quyền quản lý của triều
đình Phú Xuân, đâu thuộc thẩm quyền của triều đình Thăng Long mà Thăng Long có
quyền ký giấy nhượng đất? Văn thư của chúa Trịnh, do vậy, là... vô giá trị (?).
Lập luận kiểu đó, về thực chất, là chạy tội cho triều đình Thăng Long không hơn
không kém!
Bởi vì, nên nhớ, mật ước nhượng đất có hiệu lực ràng
buộc phải thi hành một khi triều đình Thăng Long trở thành chủ nhân của Đàng
Trong.
&2&
Sau mật ước năm 1637, Hòa Lan đã đưa 5 tàu chiến dưới
sự chỉ huy của Van Liesvelt thẳng tiến đến Đà Nẵng. Cuộc chiến xảy ra năm 1642,
diễn ra cả trên biển lẫn trên bộ, Van Liesvelt cùng nhiều binh sĩ bị tử trận.
Không chịu thua, năm 1643, Hòa Lan lại tiếp tục đưa
tàu chiến trong khi đó, chúa Trịnh cử binh từ Thăng Long xuôi về phía Nam, cùng
phối hợp "nội công, ngoại kích"!
Tàu chiến của Hòa Lan được trang bị trọng pháo tối tân
lúc bấy giờ, dương dương tự đắc. Nào dè, quân dân Đàng Trong dưới sự chỉ huy của
Thế tử Nguyễn Phước Tần (sau này trở thành Chúa Hiền) đã dùng nhiều chiến thuyền
nhỏ áp sát vào đội tàu Hòa Lan khiến cho thuyền trưởng Pieter Baeck quýnh
quáng. Đội tàu Hòa Lan vỡ trận, Pieter Baeck tử trận.
Sự kiện tàu chiến hùng hậu của phương Tây, vào thế kỷ
17, bị một xứ sở ở châu Á đánh bại được xem là một BẤT NGỜ LỚN trong lịch sử.
Quân lực của Đàng Trong hồi đó mạnh mẽ tới mức giúp
cho Cao Miên đánh thắng quân Xiêm La (Thái Lan), từ đó được Cao Miên tạo thuận
lợi cho việc mở đường di dân vô Thủy Chân Lạp (sau này trở thành Nam Kỳ).
&3&
Mật ước của Trịnh Tráng - toa rập với ngoại bang tới mức
sẵn sàng nhượng đất nhượng biển - đã trở thành một vết nhơ "lưu xú vạn
niên" của chế độ nắm quyền tại Thăng Long.
Sau này Thăng Long tiếp tục toa rập với ngoại bang (thời
vua Lê Chiêu Thống, lần này là giặc Tàu) nhưng đã bị Nguyễn Huệ cử binh từ Đàng
Trong ra đánh cho sập tiệm.
Định mệnh lịch sử thiệt khéo sắp đặt: Chúa Hiền rồi
Nguyễn Huệ của ĐÀNG TRONG đã lần lượt phá sập mưu hèn kế bẩn của triều đình ở
Đàng Ngoài cầu viện ngoại bang!
Chuyện gì xảy ra nếu không thể đánh sập mưu kế của
Đàng Ngoài? Người dân VN rơi vào nỗi bất hạnh kinh hoàng là cái chắc.
--------------------------------------------------------------------
- Tàu chiến Hà Lan vào năm 1643;
- Biên khảo của Tiến sĩ Li Tana.
Nguồn: Nguyễn - Chương Mt
Thứ Ba, 15 tháng 6, 2021
Thứ Hai, 14 tháng 6, 2021
Xin cho biết chữ Nho và chữ Hán có khác nhau không? Thứ chữ này ra đời và chấm dứt từ lúc nào?
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết chữ Nho và chữ Hán có khác nhau không? Thứ chữ này ra đời và chấm dứt từ lúc nào?
AN
CHI:
Chữ Hán và Chữ Nho là hai tên gọi khác nhau của cùng một thứ chữ. Ngày xưa
người ta gọi đó là chữ Nho vì nó được
dùng để chuyển tải nội dung của Nho giáo
và Nho học. Đó là thứ chữ mà nhà Nho
phải nắm vững để có thể thông hiểu sách vở và đạo lý của thánh hiền. Khi người
Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ ngàn năm của phong kiến phương Bắc để xây dựng quốc
gia độc lập, đặc biệt là từ nhà Lý (1010-1225) trở đi thì Nho giáo và Nho học
cũng trở thành chính thống tại quốc gia Đại Việt. Chữ Nho do đó cũng trở thành
“quốc gia văn tự” của người Việt Nam. Vì vậy mà người nước ta còn gọi nó là “chữ
ta”. Thứ chữ này đã tồn tại và đã được sử dụng ở Việt Nam trong vòng 900 năm (nếu
chỉ kể từ nhà Lý) cho đến khi nước ta bị Pháp đô hộ và nền Nho học bị bãi bỏ.
Còn trên thực tế thì người Việt Nam đã biết đến chữ Nho từ rất sớm, ít nhất
cũng là từ đời Sĩ Nhiếp. Ngày nay người ta không gọi thứ chữ đang xét là chữ
Nho nữa mà gọi đó là chữ Hán, vì đó mới là cách gọi chính xác và hợp lý. Đây
cũng là cách gọi của chính người Trung Hoa: họ tự nhận là Hán tộc nên chữ của họ là Hán
tự (chữ Hán), tiếng của họ là Hán ngữ,
và văn của họ là Hán văn. Theo truyền
thuyết thì Thương Hiệt là người đã sáng chế ra chữ Hán nhưng điều này không có
căn cứ thực tế. Chữ Hán chắc chắn không do một cá nhân sáng chế ra mà là kết quả
của một sự thừa kế có cải tiến của nhiều người, thậm chí của nhiều thế hệ cho đến
một thời điểm mà nó được xem là đã định hình. Đó là vào đời nhà Thương và thứ
chữ được xem như đã định hình đó là giáp cốt văn (văn ở đây có nghĩa là chữ) tức
là thứ chữ khắc trên yếm rùa và xương thú. Thứ chữ này đã được dùng để ghi chép
những lời nói toán gọi là bốc từ. Nhờ những lời bốc từ này mà người ta có thể
biết rõ xã hội Trung Hoa đời nhà Thương về nhiều phương diện. Đặc biệt bảng đế
hệ đời Thương xác lập được qua những lời bốc từ nói chung khá phù hợp với truyền
thuyết. Chính vì thế mà người ta mới có căn cứ cụ thể và chắc chắn để khẳng định
rằng nhà Thương là một giai đoạn có thật trong lịch sử của Trung Hoa. Rất nhiều
chữ giáp cốt là những chữ tượng hình đích thực, nhưng trãi qua nhiều thay đổi,
ngày nay mỗi chữ Hán đã trở thành một khối vuông (phương khối tự) riêng biệt cấu
tạo bằng một số nét (như chấm, phẩy, mác, vv.) nhất định.
Tóm lại, thời điểm ra dời của chữ Hán, tức chữ Nho là
vào đời nhà Thương, còn thời điểm chấm dứt của nó thì chưa thể biết được vì đến
nay vẫn còn được dùng tại Công hòa Nhân dân Trung Hoa, tại Đài Loan, và trong
các cộng đồng người Hoa ở nước ngoài. Chẳng những như thế, chữ Hán ngày nay vẫn
còn tiếp tục được nhiều người nước ngoài trau dồi và nghiên cứu.
Kiến
thức ngày nay, số 141, ngày 15-6-1994