ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Bảy, 25 tháng 12, 2021

Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1546, ngày 9 tháng 3 năm 1939

Những năm tháng cuối đời của vua Khải Định

 NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI CỦA VUA KHẢI ĐỊNH

Trong 9 năm trị vì ngắn ngủi của mình (1916-1925), vua Khải Định đã có một số việc làm được nhiều người nhắc đến, trong đó có chuyến Bắc tuần năm 1918 và cuộc Pháp du rầm rộ năm 1922. Vào quãng thời gian còn lại của đời mình, nhà vua cũng còn kịp tổ chức một lễ tứ tuần đại khánh với những nghi thức long trọng nhất (1924). Song chỉ một năm sau lễ tứ tuần (1925), ông qua đời, lễ tang được hoàng thái tử Vĩnh Thụy và quần thần tổ chức một cách trọng thể.

I) CUỘC PHÁP DU NĂM 1922

Năm 1922, khi hoàng tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại sau này) mới lên 9 tuổi, có lẽ cảm nhận được tình trạng sức khỏe yếu kém của mình, vua Khải Định đã tính đến việc tấn phong Thái tử và đưa con sang Pháp học. Ngày 12 tháng 2 năm Khải Định thứ 7 (10.3.1922), ông ban dụ sách lập Vĩnh Thụy làm Đông cung Thái tử, sau khi tham khảo ý kiến Phủ Tôn nhơn, Viện Cơ mật, Khâm sứ Huế Pasquier và Toàn quyền Đông Dương Maurice Long . Ba ngày sau, 13.3.1922, nhà vua ban một châu dụ dài công bố với thần dân quyết định mở cuộc Âu du sang Pháp với các mục đích chính như sau:

* Chúc mừng sự thắng trận của nước “Đại Pháp” (trong Thế chiến thứ nhất 1914-1918)

* Thăm đài tưởng niệm các binh lính Việt Nam thuộc hàng ngũ quân Pháp tử trận trong thế chiến vừa qua.

* Ký thác Hoàng thái tử Vĩnh Thụy cho Pháp đình “mà học hành để cho được sự quảng kiến văn, may đặng ngày sau có đạt đức thành tài, để trước chủ sưởng tôn miếu, sau nữa trị nước, trị dân cho hiệp thời lúc ấy, mà lại thêm một sự thâm giao với nước Đại Pháp lại càng vững bền lâu dài ra nữa …” (Đồng Khánh – Khải Định chính yếu – NXB Thời Đại – Hà Nội 2010 – tr. 465-476 ; Nam Phong tạp chí số 57 – tháng 2.1922 – tr.238-243)

Ngày 20.5.1922, nhà vua cùng Thái tử Vĩnh Thụy xuống tàu Porthos ở Tourane (Đà Nẵng), về phía Pháp có Khâm sứ Pasquier tháp tùng, về phía Việt có Đông các Đại học sĩ Nguyễn Hữu Bài và một số quan lại, thành viên Phủ Tôn nhơn.

Ngày 21.6.1922, tàu Porthos cập cảng Marseille, nhiều quan chức cao cấp Pháp đã túc trực để đón tiếp: Thượng thư bộ Thuộc địa Albert Sarraut (Toàn quyền Đông Dương những năm 1911-1914 và 1916-1917); Thống sứ Bắc kỳ Garnier, đại diện Toàn quyền Đông Dương Maurice Long; Tổng ủy viên cuộc đấu xảo Marseille Guesde; Thị trưởng Marseille Flaissières …

Ngày 24.6, vua Khải Định tới Paris, ra đón có Thượng thư Bộ Thuộc địa Albert Sarraut, Toàn quyền Đông Dương Maurice Long, Nguyên soái Lasson, đại diện Tổng thống Pháp…

Sau cuộc hội kiến với vua Khải Định, Tổng thống Pháp Millerand đặt tiệc thết đãi nhà vua và đoàn tùy tùng. Chương trình hoạt động sau đó của nhà vua diễn ra đúng dự kiến: hội kiến với Nghị trưởng nguyên lão Nghị viện, Nghị trưởng Thứ dân Nghị viện (tức Thượng viện và Hạ viện theo cách gọi ngày nay), Thủ tướng Pháp, thăm mộ tử sĩ vô danh tại Khải hoàn môn; thăm Nông học Bác vật viện, thăm đền thờ các tử sĩ Việt Nam, xem đua ngựa tại Longchamp cùng Tổng thống Pháp, xem nhạc kịch Faust tại nhà hát Opera … Trong hầu hết các cuộc thăm viếng này đều có sự tháp tùng của Thượng thư bộ Thuộc địa Sarraut, Toàn quyền Đông dương Long, Thống chế Joffre …(Đồng Khánh – Khải Định chính yếu – sđd – tr. 476-484; Nam Phong tạp chí – 1922 – tr. 406, 501-503)

Cuộc viếng thăm nước Pháp của vua Khải Định gây ra một làn sóng công phẫn trong công chúng Việt Nam, nhất là giới trí thức yêu nước. Nhà cách mạng trẻ tuổi Nguyễn Ái Quốc viết vở kịch Con Rồng Tre, nhà cách mạng Phan Châu Trinh viết Thư Thất Điều kể rõ 7 tội của nhà vua, trong đó, tội thứ 7 là tội “Pháp du ám muội”. Cụ Phan đã viết: “…Mượn cớ rằng đưa hoàng tử đi học, hoặc đi điếu quân sĩ nước ta tử trận, và đi xem các thành phố phía Bắc nước Pháp bị tàn phá, thời những việc đó là việc tư của Bệ hạ, không phải việc công của quốc dân ta, lại đó là những việc không cần kíp gì cả.

“ Nếu mượn cớ rằng đi du lịch nước Pháp để khảo sát văn minh của họ rồi về cải cách chính trị trong nước, thời Bệ hạ không phải là tay làm việc ấy được…

Cái bệnh của Bệ hạ là bởi ngu muội, chưa từng đọc lịch sử cách mạng nước Pháp vậy. Nếu một mai biết được thời sẽ gục đầu chán nản, cuốn gói mà về sớm vậy”

(Tây Hồ Phan Chu Trinh - Thư Thất Điều (di cảo) – NXB Anh Minh – Huế 1958, tr. 28,30)

Dù sao, theo dõi hành trình cuộc Pháp du của vua Khải Định, chúng ta có thể nhận thấy rằng tuy là một nước đế quốc, thực dân, cách nay gần 100 năm, nước Pháp cũng đã chứng tỏ được tính văn minh của họ khi đón tiếp nhà vua một nước nhược tiểu, lại là thuộc địa của Pháp, với những nghi thức đầy vẻ trọng thị: đích thân Thượng thư bộ thuộc địa Albert Sarraut túc trực tại bến tàu để chờ chuyến tàu chở nhà vua An Nam cập bến và tháp tùng nhà vua gần như trong suốt các chuyến tham quan (còn tiếp)

Lê Nguyễn

12.9.2021

https://thanhnien.vn/.../nhung-chuyen-hau-cung-vua-thanh...

Thượng thư Bộ thuộc địa Albert Sarraut và các quan chức Pháp chờ đón vua Khải Định tại Cảng Marseille.


Vua Khải Định, Hoàng thái tử Vĩnh Thụy, Thượng thư bộ Thuộc địa Albert Sarraut và hoàng thân Vĩnh Cẩn (bìa phải) ở Marseille.


Vua Khải Định bước vào điện Elysee để hội kiến với Tổng thống Pháp


Vua Khải Định viếng đài tưởng niệm những tử sĩ người Việt trong chiến tranh thế giới nhứ nhất (1914-1918)



Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

Sự sa cơ của vua Hàm Nghi và cái chết anh hùng của hai con trai Phụ chánh Tôn Thất Thuyết

 SỰ SA CƠ CỦA VUA HÀM NGHI VÀ CÁI CHẾT ANH HÙNG

CỦA HAI CON TRAI PHỤ CHÁNH TÔN THẤT THUYẾT

Như đã trình bày ở một bài trước, từ năm 1887, các lực lượng kháng chiến Cần vương gặp nhiều khó khăn do quân Pháp dưới quyền Đại úy Mouteaux đóng ở đồn Minh Cầm chặn các ngả đường liên lạc giữa vùng hạ nguồn và thượng nguồn sông Gianh. Nhà vua cùng một số tùy tùng phải đi lần lên phía thượng nguồn để tránh những cuộc truy lùng của quân Pháp.

Hầu cận nhà vua vào thời điểm này, ngoài người con trai của Phụ chánh Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Thiệp, còn có Trương Quang Ngọc, một người thiểu số ở địa phương rất giỏi tài bắn cung, được phong làm Lãnh binh, và Nguyễn Định Trình (tài liệu của Delvaux và Gosselin ghi là Nguyen Tinh Dinh), đi theo vua từ năm 1885.

(Delvaux: Quelques précisions sur une période troublée de l’histoire d’Annam – BAVH No3/1941 – Gosselin: L’Empire d’Annam – Paris 1905)

Cuối mùa Hè năm 1888, Trình đến đầu thú với Pháp tại đồn Đồng Cả và khai báo nhiều chi tiết quan trọng về vua Hàm Nghi. Theo y, Trương Quang Ngọc cũng đã rời bỏ nhà vua từ 6 tháng trước, ý cũng muốn đầu thú và có thể giao nộp nhà vua nếu được hứa ban thưởng. Nơi trú ngụ của nhà vua ở cạnh bờ khe Tả Bảo, một phụ lưu của sông Gianh nằm trong tỉnh Quảng Bình. Ngôi nhà nằm giữa một khu vườn được ra công chăm sóc kỹ lưỡng, giữa nhà có trải một chiếc chiếu hoa. Đồ ăn thức uống của nhà vua do những người dân tộc Mường tại địa phương cung đốn, chủ yếu chỉ có gạo và muối. Ông ăn mặc rất nghèo nàn, chỉ có một bộ quần áo bằng vải nâu. Ông cùng các thuộc hạ thường bị bệnh sốt hành hạ, di chuyển thường phải nhờ những người Mường cõng đi.

Đầu tháng 9.1888, Đại úy Pháp Boulangier gửi cho Trương Quang Ngọc một lá thư kêu gọi y ra đầu thú nhưng không nhận được hồi âm. Tuy nhiên, sau lá thư thứ hai của Boulangier, Ngọc ra đầu thú với Trung úy Pháp Lagarrue. Chiều ngày 1.11.1888 (Delvaux ghi là ngày 2.11), Trương Quang Ngọc, Nguyễn Định Trình dẫn theo khoảng 20 người dân địa phương trang bị giáo mác, cung tên, hướng về nơi ẩn lánh của vua Hàm Nghi. Chúng được lệnh của Pháp là phải bảo toàn mạng sống nhà vua, có thể sát hại bất cứ ai khác nếu họ chống cự.

10 giờ đêm, bọn chúng đến nơi, một ngôi nhà dựng bằng tre và gỗ, lợp tranh, giữa nhà là một chiếc chõng tre phủ chiếu hoa, nhà vua nằm ngủ trên đó. Nghe có tiếng động lạ, Thống chế Nguyễn Thùy và con trai xách gươm nhảy ra thì bị Trương Quang Ngọc dùng giáo đâm chết. Tôn Thất Thiệp cũng chịu chung số phận, dưới ngọn giáo của Cao Viết Lượng, một người Mường ở làng Thanh Cuộc.

Nhà vua biết mình bị phản bội, cầm gươm chỉ vào Trương Quang Ngọc:”Mày giết tao đi, còn hơn là mang tao nộp cho Pháp”. Ngay sau đó, ông bị một tên Mường từng là hầu cận ôm ngang thắt lưng, giật lấy gươm. Sau khi đèn đuốc được thắp lên, một người trong bọn Ngọc quỳ xuống đất đọc lá thư của Đại úy Boulangier mời nhà vua trở về Huế. Im lặng hồi lâu, vua Hàm Nghi thở dài và nói:” Ta đã bị phản bội. Ta phải tuân theo mệnh Trời, ta sẽ đi theo các ngươi”.

Sáng sớm ngày hôm sau, nhà vua được đưa về đồn Chà Mạc (có tài liệu ghi là Tha-Mạc), nơi đây đã có Đại úy Boulangier đợi sẵn. Trên đường đi, ngồi trên chiếc võng tồi tàn có người khiêng, ông không ngớt miệng lẩm bẩm:”ý Trời đã định!”.

Tại đồn Chà Mạc, Boulangier bố trí đội quân danh dự bồng súng chào, kèn trỗi lên điệu quân nhạc. Nhà vua bước đi, không buồn quay đầu lại, ông lấy chéo khăn lau gương mặt đã đầm đìa nước mắt. Nước mắt của vì vua trẻ tuổi từng trải qua những năm tháng sống giữa rừng thiêng nước độc, nay bất lực trước cảnh nước mất nhà tan, đã gây một xúc động lớn cho những ai có mặt vào buổi sáng hôm đó. Mọi người khá ngạc nhiên là gian khổ như vậy mà nhà vua vẫn còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, đồng thời khăng khăng bảo rằng mình không phải là cựu hoàng Hàm Nghi.

Ngày 6.11, khi nhà vua sắp sửa rời Thanh Lạng, một giáo sĩ Việt Nam tên Trung ở Làng Truông đến dâng cho ông một chiếc kiệu khá đẹp, vây màn kín để tránh những con mắt tò mò của người đi đường, với hơn 10 giáo dân đi theo để khiêng kiệu. Vua Hàm Nghi hỏi tên ông giáo sĩ, sau đó đã nói:” Ngày xưa, ta cũng có học đôi chữ Hán, ta chỉ nhắc mình một chữ duy nhất: chữ Trung – Xin cảm ơn!”

Một bữa nọ, nhà vua nhác thấy bóng dáng người thầy học cũ của mình trong đám đông, ông nghiêng mình kính cẩn chào, từ đó, ông tự để lộ “chân tướng”, không còn phủ nhận mình từng là vua Hàm Nghi nữa. Đoàn người phải lưu lại Đồng Cả hơn một tuần lễ để chờ chỉ thị của chính phủ Pháp ở Paris. Cuối cùng một thông báo của Bộ thuộc địa chỉ định nơi cư trú của nhà vua là Alger, nơi có “một khí hậu êm dịu, để Ngài sớm bình phục sau những mệt nhọc của cuộc sống lang bạt chốn núi rừng” (điện tín của Bộ này).

Ngày 13.11, Pháp đưa vua Hàm Nghi rời Đồng Cả, xuống thuyền đến Quảng Khê rồi sau đó theo đường quan lộ đến trạm Thừa Hóa. Tổng trú sứ Rheinart đã đến Thừa Nông thăm nhà vua, hỏi ông có cần nói điều gì với người anh là vua Đồng Khánh hay một thân nhân nào khác hay không. Nhà vua đã trả lời là ông không có một người quen nào ở Huế cả.

Nhân cuộc gặp gỡ này, một sĩ quan Pháp chụp một số bức ảnh nhà vua và sau đó phổ biến rộng rãi cho mọi người biết là vua Hàm Nghi, linh hồn của cuộc kháng chiến Cần vương, nay đã là một tù nhân.Trước thái độ khăng khăng từ chối trở về Huế của nhà vua, thực dân Pháp đã đưa ông từ Thừa Hóa đến lạch Tư Hiền, từ đây, chiếc tàu Comète đã chờ sẵn để chuyển ông vào Sài Gòn. Không lâu sau, chuyến tàu Biên Hòa đưa ông đi Alger, khởi đầu cuộc sống lưu đày.

***

Trong đêm vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, Tôn Thất Thiệp và hai thủ hạ của nhà vua bị sát hại tại chỗ. Họ đã hi sinh mạng sống để thể hiện lòng trung nghĩa của mình. Người con lớn còn lại của Tôn Thất Thuyết làTôn Thất Đạm lúc bấy giờ đang làm Khâm sai, lãnh nhiệm vụ đi chiêu mộ nghĩa sĩ ở khu vực phía Bắc Quảng Bình (nên người đương thời gọi ông là Khâm Đạm).

Khi hay tin là nhà vua đã lọt vào tay giặc rồi, ông viết ngay một lá thư, cho người mang đến đồn Thuận Bài nhờ chuyển cho nhà vua. Thư có đoạn viết:”Không được gần gủi Hoàng thượng để hộ giá, khi có kẻ phản thần làm việc ám muội, thần mang tội rất nhiều…Các quan văn võ sẽ mang hận ấy suốt đời, vậy xin Hoàng thượng tha thứ cho và thề sẽ hết lòng trung cho đến thác” (Phan Trần Chúc-Vua Hàm Nghi-NXB Thuận Hóa-1995-trang 174).

Tôn Thất Đạm cũng gửi cho Thiếu tá Dabat ở đồn Thuận Bài một lá thư bày tỏ sự hối tiếc đã không ở kề cận nhà vua để bảo vệ, cho dù có chết như người em trai của mình. Thư có đoạn cuối như sau:”Nay chúng tôi bị thua. Cái then của chiến bại đã đến bước cùng. Vậy xin Ngài cho các tướng sĩ được về quê hương an trí làm ăn và không phải ra thờ triều đình mới”.

Trong thư hồi âm của Dabat có câu:”Thay mặt các binh sĩ Pháp, tôi xin nói để Ngài biết rằng các tướng Pháp rất kính phục Ngài. Xin mời Ngài ra đồn Thuận Bài. Tôi xin đoan rằng người Pháp sẽ đãi Ngài một cách trân trọng, xứng đáng với tài đức và địa vị của Ngài trong hoạn giới” (Phan Trần Chúc-Sđd-trang 175).

Sau những bức thư trao đổi ấy, Tôn Thất Đạm tập họp tướng sĩ lại, yêu cầu họ ra hàng và khuyên mọi người về quê làm ăn, không nhận chức tước gì của triều đình mới. Về phần mình, ông nói: ”Còn ta, nếu người Pháp có hỏi, các ngươi cứ bảo họ vào rừng này, tự khắc tìm thấy ta”. Rồi ông một mình đi vào rừng, cỡi chiếc khăn đội đầu, treo cổ trên cành cây mà chết. Khi đi tìm ông và phát hiện ra ông đã chết, tướng sĩ xúm lại, ôm lấy xác chủ tướng mà khóc.

Con người trung nghĩa ấy sống hết lòng vì vua, vì nước, khi chết cũng chọn cái chết anh hùng, không để rơi vào tay giặc. Mấy ngày sau, không thấy ông ra hàng, quân Pháp vào rừng, đã thấy ngôi mộ ông nằm đó, bên cạnh còn có thanh gươm mà ông vẫn dùng lúc sinh thời.

Lê Nguyễn

1.10.2015


Tranh vẽ của người Pháp: cảnh lúc Pháp bắt vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thiệp cầm gươm lên, chưa kịp làm gì thì bị sát hại bằng súng (trái), còn nhà vua trong lúc bất ngờ, vói tay chụp thanh gươm bên cạnh, nhưng không kịp (phải)



Cựu hoàng Hàm Nghi lúc mới bị đày sang Alger - Ảnh báo Journal des voyages



Cựu hoàng Hàm Nghi ở tuổi trung niên



Cựu hoàng Hàm Nghi những năm cuối đời



Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1544, ngày 16 tháng 2 năm 1939

Thứ Tư, 22 tháng 12, 2021

Chút hồi ức về nền Tư Pháp và tổ chức Thanh Tra tại miền Nam trước 1975

 CHÚT HỒI ỨC VỀ NỀN TƯ PHÁP

VÀ TỔ CHỨC THANH TRA TẠI MIỀN NAM TRƯỚC 1975

* Bài viết theo yêu cầu của một số bạn trẻ, tuy nhiên người viết chỉ ghi chép theo ký ức, chắc chắn là không đầy đủ như các tài liệu chính thức đã được công bố.

* TỔ CHỨC TƯ PHÁP

Trong suốt chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), tòa án là hiện thân của quyền thứ ba trong “tam quyền phân lập”: Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp.

Tùy điều kiện về khả năng tổ chức và nhân sự của mỗi thời kỳ mà ngành tư pháp VNCH trước 30.4.1975 có những chuyển biến khác nhau, tạm chia ra 3 giai đoạn: trước 1965, từ 1965 đến 1968, và từ 1968 trở đi. Tuy nhiên, dù ở thời nào thì tòa án ở miền Nam trước 1975 cũng gồm có 4 cấp chính là tòa hòa giải, tòa sơ thẩm, tòa thượng thẩm, và tòa phá án.

Tổ chức tòa án VNCH có mấy điểm đáng chú ý sau:

- Tòa án cấp tỉnh là thấp nhất, không có tòa án Quận (tổ chức chính quyền VNCH không có huyện)

- Tòa án mọi cấp đều độc lập trong xét xử, không có sự thống thuộc giữa tòa cấp thấp (tòa sơ thẩm) với tòa cấp cao hơn (tòa thượng thẩm, tòa phá án). Bản án của tòa sơ thẩm khi bị kháng án, sẽ do tòa thượng thẩm xét xử lại, trong tinh thần coi bản án của tòa sơ thẩm là một bản án độc lập.

- Mỗi tòa thượng thẩm phụ trách một số địa phương trong khu vực. Tòa thượng thẩm Sài gòn và Huế là hai tòa thượng thẩm chính ở VNCH.

-Tòa hòa giải chỉ có ở những địa phương lớn, và như danh xưng đã chỉ rõ, chỉ có thẩm quyền hòa giải những vụ kiện dân sự. Tại các địa phương, các viên chức giữ chức vụ Quận trưởng kiêm cả thẩm phán hòa giải. Họ là các viên chức “hữu thệ”, tức phải ra trước tòa án tuyên thệ khi giữ nhiệm vụ Quận trưởng

Trước năm 1965, ở miền Nam, số thẩm phán có đủ tư cách hành xử quyền tư pháp không nhiều, các tòa sơ thẩm với đầy đủ các thành phần thẩm phán (biện lý, phó biện lý, dự thẩm, chánh án …) chỉ hiện diện ở những tỉnh lớn, vì thế thường thì tòa sơ thẩm tại một tỉnh lớn kiêm quyền tư pháp tại một vài tỉnh nhỏ lân cận. Mặt khác, trước năm 1965, ở một số tỉnh nhỏ, còn tồn tại dạng “Tòa hòa giải rộng quyền”, tức tòa hòa giải có thẩm quyền như một tòa sơ thẩm thu hẹp, ở đó viên chánh án kiêm nhiệm tư cách của các thẩm phán khác …

Từ giữa thập niên 1960, số người có bằng Cử nhân luật khá đông, họ dự kỳ thi tuyển thẩm phán, ai đỗ được đào luyện thêm trong khoảng 2 năm và sau đó, phần lớn được bổ về các tòa sơ thẩm cấp tỉnh. Tại đây, họ được gọi chung là thẩm phán, song với những chức vụ khác nhau, gồm:

- Dự thẩm, là viên chức thẩm tra cao cấp của tòa án

- Biện lý và Phó biện lý, là những viên chức có thẩm quyền luận tội trong các vụ án.

- Chánh án, là người có thẩm quyền tuyên các bản án hình sự (và những bản án dân sự ngoài thẩm quyền các thẩm phán hòa giải).

Thông thường, chánh án được chọn trong số những dự thẩm có thâm niên cao, có ngạch trật tương đối cao trong ngành tư pháp.

Trong tổ chức một tòa án cấp tỉnh, Dự thẩm và Chánh án được xếp vào thành phần “thẩm phán xử án”, gọi nôm na là “thẩm phán ngồi”; còn Biện lý và Phó Biện lý là “thẩm phán công tố”, gọi nôm na là “thẩm phán đứng”. Tất nhiên, những vị này không đứng trong suốt quá trình xét xử, mà chỉ đứng lên trong phần luận tội, buộc tội một hay nhiều bị cáo, nhân danh quyền lợi của xã hội.

Về hệ cấp, trong các buổi lễ chính thức tại địa phương, việc sắp xếp chỗ ngồi cho các thẩm phán dựa theo các chức danh xếp từ trên xuống dưới gồm: chánh án, biện lý, dự thẩm, phó biện lý.

Từ cách gọi “thẩm phán xử án” hay “thẩm phán ngồi” và “thẩm phán công tố” hay “thẩm phán đứng”, việc quản lý và hoạt động của họ cũng khác nhau. Trước 1968, thẩm phán xử án trực thuộc “Thượng hội đồng thẩm phán” là một tổ chức hoạt động độc lập, ngoài sự chi phối của chính quyền hành pháp. Trái lại, thẩm phán công tố chịu sự quản lý của Bộ Tư pháp.

Từ năm 1968 trở đi, Tối Cao Pháp viện ra đời, đại diện cho quyền Tư pháp, các thẩm phán xử án thuộc quyền quản lý của tổ chức này. Chủ tịch Tối cao Pháp viện là nhân vật số 5 của chế độ sau Tổng thống, Phó Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện.

Trong tổ chức tư pháp ở cấp tỉnh, không chỉ có các thẩm phán ở tòa án, mà một số viên chức chính quyền cũng có tư cách “tư pháp cảnh lại” nhằm phối hợp với tòa án trong các vấn đề hình pháp. Cơ quan cảnh sát lúc bấy giờ có hai bộ phận riêng biệt: bộ phận “cảnh sát đặc biệt” phụ trách các vấn đề an ninh, tình báo, và bộ phận “cảnh sát tư pháp” là công cụ đắc lực của tòa án, gửi về tòa án hồ sơ các vụ án sau khi hoàn tất cuộc điều tra, thi hành lệnh điều tra do tòa án gửi xuống … Các Trưởng ty cảnh sát tỉnh, Trưởng chi cảnh sát quận (sau là Chỉ huy trưởng CSQG tỉnh hay quận) là sĩ quan tư pháp cảnh lại, phụ tá Biện lý. Ở cấp quận, Quận trưởng cũng kiêm phụ tá Biện lý, song ít khi hành xử vai trò này.

Một số người còn nhầm lẫn khi cho rằng tòa sơ thẩm, cấp thấp, xử các vụ án tiểu hình, còn tòa thượng thẩm xử các vụ đại hình. Trên thực tế giữa các cấp tòa và mức độ của vụ án không hề có liên quan với nhau. Dù là những vụ án đại hình như giết người, cướp của thì vẫn phải xử ở cấp sơ thẩm trước rồi mới chuyển dần lên cấp thượng thẩm, tòa phá án, khi có sự kháng án của nguyên cáo, bị cáo hay cơ quan công tố (biện lý cuộc).

Nhân tiện cũng xin nhắc sơ về quyền lập pháp và quyền lập quy trong tổ chức chính quyền VNCH, theo mô hình của tổ chức chính quyền Pháp.

* Quyền lập pháp bao gồm việc thảo luận, thông qua bản hiến pháp và các đạo luật chi phối đời sống trong nước. Quyền này thuộc về Quốc Hội

* Quyển lập quy thuộc về ngành hành pháp, dành cho Tổng thống, Thủ tướng, các Bộ trưởng, các Tỉnh trưởng, nhằm định ra quy tắc thi hành các luật lệ do phía lập pháp thông qua.

Trong quyền lập quy:

- sắc lệnh (décret) là cấp cao nhất, chỉ do Tổng thống và Thủ tướng ban hành,

- nghị định (arrêté) được ban hành đến cấp Bộ trưởng,

- quyết định (décision) được ban hành đến cấp Tỉnh trưởng.

Riêng sắc luật (cách gọi tắt của từ “sắc lệnh-luật”: décret-loi) là văn kiện có tính lập pháp do phía hành pháp (tổng thống) ban hành trong trường hợp có chiến tranh, nội loạn… do Quốc hội ủy nhiệm có thời hạn cho tổng thống nhằm đối phó, giải quyết những vấn đề cấp bách nhất.

- Các thông tư, chỉ thị không có tính cách lập quy, do các viên chức từ cấp Tổng giám đốc trở xuống ban hành nhằm chi tiết hóa việc thi hành các sắc lệnh, nghị định của cấp cao hơn cho nội bộ cơ quan của họ.

Xét cho cùng các văn kiện lập quy cùng thông tư, chỉ thị … là một chuỗi nối dài của các văn kiện lập pháp nhằm tạo cho một đạo luật có điều kiện thực thi xuyên suốt từ ngành lập pháp đến ngành hành pháp, xuống tới các cơ quan hành chánh thấp nhất tại địa phương. Chuỗi nối dài đó hình thành trong điều kiện sao cho từ việc ban hành một đạo luật đến việc thực thi đạo luật đó tại cấp cơ sở được diễn ra trong thời gian ngắn nhất.

Đó cũng là lý do mà Học viện Quốc gia Hành chánh thời VNCH, nơi đào tạo các viên chức hành chánh cấp trung-cao, được xem là một trường luật thứ hai, nơi các sinh viên được học hầu hết các bộ luật đang áp dụng trong nước: Dân luật, Hình luật, luật Thương mại, luật Hành chánh, Công pháp quốc tế … Ngày nay, một số cựu sinh viên của Học viện này, dù tuổi đã trên 70, vẫn còn hành nghề luật sư ở Sài Gòn và các nơi khác trong nước.

Xét về nền tư pháp thời VNCH, không thể không nhắc đến một tổ chức xã hội có liên quan mật thiết với các cơ quan tố tụng đương thời, đó là luật sư đoàn. Thông thường một công dân có bằng cử nhân luật muốn hành nghề luật sư phải được một văn phòng luật sư đang hoạt động hợp pháp chấp nhận cho tập sự. Trong thời gian này, họ được sai phái làm nhiều việc liên quan đến nghề nghiệp của họ sau này, trong đó có việc theo dõi các phiên tòa. Đối với một cử nhân luật thời đó, tìm được một văn phòng luật sư chấp nhận cho tập sự là một việc thiên nan vạn nan, vỉ số người có nhu cầu thì cao mà số văn phòng luật sư không nhiều.

Sau khi đã hoàn tất thời gian tập sự, họ được kết nạp vào luật sư đoàn và bắt đầu hành nghề. Luật sư đoàn là một tổ chức hoàn toàn độc lập với bộ máy tư pháp của chính quyền được đặt dưới quyền điều hành của một “Thủ lãnh luật sư đoàn”. Một trong những thủ lãnh luật sư đoàn đầu tiên của tổ chức này là luật sư Vương Quang Nhường, con rể cựu hoàng Thành Thái. Là người rất có uy tín trong chính giới Việt và Pháp, năm 1947, chính ông Nhường đã tác động mạnh đến việc chính quyền Pháp cho cựu hoàng Thành Thái cùng gia đình hồi hương từ hòn đảo lưu đày Réunion.

Trong giới luật sư miền Nam trước 1975, nhiều người nổi tiếng được xã hội biết đến như bà Nguyễn Phước Đại, các ông Nguyễn Văn Chức, Phan Tấn Chức, Vương Văn Bắc… Bà Nguyễn Phước Đại (nhũ danh Nguyễn Thị Quỳnh Anh, sử dụng tên chồng là bác sĩ Nguyễn Phước Đại) vang danh toàn quốc khi cãi trong vụ án “Cô Quờn đốt chồng” (Hồ Thị Quờn) vào đầu thập niên 1950, là Thượng nghị sĩ dưới thời Đệ nhị Cộng hòa.

Luật sư Vương Văn Bắc nguyên giảng sư Học viện QGHC, từng cãi nhiều vụ được báo chí ca ngợi. Một thời gian sau hiệp định Paris 1973, biết rằng đồng minh đã bỏ rơi mình, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tính đến việc vay nợ nước ngoài để mua vũ khí, quân dụng đang ngày càng thiếu thốn và thanh toán lại bằng dầu hỏa khai thác được. Ông đã cử luật sư Vương Văn Bắc làm Ngoại trưởng, dẫn nhiều phái đoàn sang Trung Đông thương thảo việc khai thác dầu hỏa, kết quả đạt được một số thỏa thuận, theo đó, nước chủ nhà (VN) được hưởng 13% trên trị giá số dầu thô khai thác. Song mọi việc đã trễ, đến tháng 4.1975, các thỏa thuận vẫn còn là những văn kiện trên giấy tờ.

TỔ CHỨC THANH TRA THỜI VNCH

Bộ máy nhà nước nào cũng cần có bộ phận thanh tra để giúp cho nó được vận hành suôn sẻ. Ngành này có hai chức năng chánh:

- Thanh tra, kiểm tra – Đây là công việc thường xuyên nhằm sớm phát hiện những bất cập trong việc điều hành một số cơ quan hành chánh trung ương và địa phương, giúp các cơ quan chấn chỉnh và hoàn thiện hoạt động của họ.

- Điều tra – Phụ trách điều tra những vấn đề có sự khiếu nại, tố cáo, của công dân hay dưới sự chỉ đạo của Tổng thống hay Thủ tướng.

Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa (1954-1963), công tác thanh tra chung được giao cho một cơ quan có tên Nha Tổng Thanh tra Hành chánh và Tài chánh trực thuộc Phủ Tổng thống, người đứng đầu là cụ Dương Tấn Tài, một chuyên gia tài chánh hàng đầu lúc bấy giờ (cùng bác sĩ Dương Tấn Tươi, luật sư Dương Tấn Trương là những trí thức nổi tiếng thời đó). Song song với tổ chức thanh tra chung của cả nước, thường thì mỗi bộ có một tổ chức thanh tra riêng cho bộ đó.

Thời Đệ nhị Cộng hòa, công việc thanh tra được giao cho một tổ chức có tên mới là Giám sát viện, song bản chất công việc cũng không có gì thay đổi, thành phần cốt cán vẫn là các viên chức ngạch thanh tra.

Vào thời điểm đó, sự sắp xếp các chức danh trong một buổi lễ chính thức cấp quốc gia được định thứ tự ưu tiên như sau:

- Tổng thống – Phó Tổng thống – Chủ tịch Thượng viện – Chủ tịch Hạ viện – Chủ tịch Tối Cao Pháp viện – Thủ tướng Chính phủ - Chủ tịch Giám sát viện – các Phó Thủ tướng – Tổng, Bộ trưởng.

Khoảng năm 1973-1974, có một cuộc cải tổ tổ chức Giám sát viện, với việc cử nhiệm 18 Giám sát viên theo cách sau: 3 cơ chế gồm Quốc Hội, Tối cao Pháp viện và Chính phủ, mỗi nơi đề cử 6 vị, tổng cộng 18 vị. Các Giám sát viên được xếp ngang hàng Thứ trưởng cấp bộ và điều động các Thanh tra Giám sát viện trong công tác của họ. Trong số 18 Giám sát viên này có hai cựu sinh viên Học viện QGHC – Sài Gòn là các anh Lê Văn Thêm (khóa VI) và Lê Đình Lãm (khóa VIII).

Chi tiết này cũng nhằm trả lời câu hỏi của một bạn về chức danh Giám sát viên thời Đệ nhị Cộng hòa.

Lê Nguyễn

22.11.2021

Ảnh: Pháp đình Sài Gòn thập niên 1890



 

Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1543, ngày 9 tháng 2 năm 1939

Những mẫu chuyện về Kỳ Ngoại Hầu Cường Để & Cựu Hoàng Duy Tân

 KỲ CUỐI) BÍ ẨN VỀ CÁI CHẾT CỦA CỰU HOÀNG DUY TÂN

Những gì De Gaulle viết ra trong tập “Ký ức chiến tranh” về sau cho thấy rõ một chuyển biến quan trọng trong lập trường của người lãnh đạo mới của nước Pháp tự do sau khi Thế chiến kết thúc. Tại Việt Nam, ngày 30.8.1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố thoái vị, trao ấn kiếm lại cho người đại diện chính phủ lâm thời và mặt trận Việt Minh. Vì thế, có lẽ nhận thấy con bài cũ không còn tác dụng, Pháp mưu định đưa ra con bài mới, sáng giá hơn, có lập trường mềm dẻo hơn trong mối quan hệ Pháp-Việt vốn đã trải qua nhiều thăng trầm.

Người ta tự hỏi điều gì đã khiến cho cựu hoàng tin tưởng ở một giải pháp do De Gaulle nghĩ ra, khi mà nền quân chủ không còn đất sống trong một xã hội đang hừng hực khí thế đấu tranh. Có lẽ do ông nhìn thấy ở De Gaulle hình ảnh của một nhà lãnh đạo khả tín và sự hiện diện của một nước Việt Nam tự chủ trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp hay Liên bang Đông Dương là điều khả thi. 30 năm sống trên xứ người ít nhiều đã làm cho nhãn quan của ông thay đổi.

Song chỉ 12 ngày sau cuộc gặp giữa ông với De Gaulle, ngày 26.12.1945, bi kịch đã xảy ra: cựu hoàng Duy Tân tử nạn máy bay trên vùng trời nước Cộng hòa Trung Phi, tại một địa điểm cách thủ đô Bangui 100 km. Cái chết của ông đến nay vẫn còn được xem là ẩn chứa nhiều uẩn khúc chưa được giải tỏa, nhất là khi nó xảy ra chỉ một thời gian ngắn sau cuộc gặp gỡ giữa ông và tướng De Gaulle..

Trước đây, một số sách báo Việt Nam viết rằng cựu hoàng là phi công trong quân đội Pháp và tai nạn xảy ra khi ông tự tay lái máy bay về thăm nhà ở đảo Réunion. Song đến năm 2001, một người con trai của ông là Claude Vĩnh San (Nguyễn Phước Bảo Vàng – 1934-2016) đã xuất bản tại Paris tác phẩm “Duy Tan, empereur d’Annam 1900-1945 – Exilé à l’ile de la Réunion ou Le destin tragique du Prince Vinh San” (Duy Tân, vị hoàng đế nước Việt Nam -1900-1945; Người bị lưu đày sang đảo Réunion – hay số phận bi thảm của ông hoàng Vĩnh San) (Paris, 2001) cho thấy nhiều chi tiết khá rõ ràng về cái chết của cựu hoàng.

Theo tác phẩm này, không có sự liên hệ nào giữa cựu hoàng với ngành không quân Pháp và tai nạn gây ra cái chết của ông như sau:

” Máy bay Lockheed Lodester, kiểu C-60, tên đăng ký F.BALV, được khai thác bởi Mạng lưới các đường hàng không Pháp, tổ chức dịch vụ chính thức trong thời gian diễn ra chiến sự và sau khi chiến tranh kết thúc, đã đảm bảo việc nối liền các đường hàng không Pháp, về dân sự cũng như quân sự, trên có chở ông hoàng Vĩnh San, đã rơi vào ngày 26.12.1945 lúc 18 giờ 30. giờ GMT, gần M’BAIKI thuộc Cộng hòa Trung Phi….” (vinhsan.free.fr. acte 18)

Những chi tiết đó cho thấy chuyến bay Lockheed Lodester trên là một chuyến vận tải hành khách thông thường và cựu hoàng Duy Tân chỉ là một trong những hành khách trên đó, chứ chưa bao giờ ông là phi công hết!

Trước khi tác phẩm của Claude Vĩnh San ra đời, và ngay cả sau khi nó ra đời, vẫn còn tồn tại những “thuyết âm mưu” phủ lên bi kịch cuối đời của cựu hoàng Duy Tân một màn sương huyền hoặc. Giả thuyết phổ biến nhất cho rằng cái chết của cựu hoàng là một cuộc mưu sát vì có những thế lực không muốn ông trở về Việt Nam để nắm giữ cương vị người đứng đầu một nhà nước mới. Song gần đây, với những chi tiết khá rõ nét về tai nạn của chiếc máy bay chở khách Lockheed Lodester, khó có thể tin rằng để giết chết một người, người ta đã phải giết chết toàn bộ phi hành đoàn và hành khách trong một chuyến bay.

Trong những tư liệu mà người viết bài này tìm được, có tờ nhật báo L’aurore (Rạng Đông) số ra ngày thứ sáu 4.1.1946 loan một bản tin vắn tắt có mấy dòng (tạm dịch): “ÔNG HOÀNG VĨNH SAN, CỰU HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM, CÓ MẶT TRÊN CHUYẾN BAY RƠI Ở BANGUI - Ông hoàng Vĩnh San từng trị vì ở Việt Nam từ năm 1907 đến năm 1916 dưới cái tên hoàng đế Duy Tân, có mặt trong số những nạn nhân của tai nạn máy bay xảy ra những ngày qua ở châu Phi, gần Bangui. Ông hoàng thuộc về quân đoàn thứ nhất của nước Pháp, trên đường trở về Réunion, nơi gia đình ông đang sinh sống”.

Tờ France-Soir (nước Pháp buổi chiều) số ra cùng ngày 4.1.1946 đăng trang trọng chân dung cựu hoàng Duy Tân và nhiều thông tin chi tiết hơn. Bài báo có tựa đề in to và đậm nét :”ÔNG HOÀNG VĨNH SAN, CỰU HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM, NGƯỜI BẠN TRUNG THÀNH CỦA NƯỚC PHÁP, ĐÃ QUA ĐỜI”

Nội dung bài báo nhắc qua về những năm đầu cựu hoàng sống ở Réunion, những hoạt động thường nhật, sự gắn bó của ông với lực lượng kháng chiến Pháp, và in đậm nét tiểu mục “Ông muốn bình định Đông Dương” nêu rõ mong muốn của ông hoàng nắm lại quyền hành không phải bằng vũ lực.

Những tờ báo trên công bố sớm sủa cái chết của cựu hoàng Duy Tân, song không gợi ra một ý tưởng nào liên quan đến một “thuyết âm mưu” cả.

Lê Nguyễn

9.11.2021


Cựu hoàng Duy Tân trong quân phục và cấp bậc Thiếu tá - Ảnh gallica.bnf.fr



Ông Yves Claude Vĩnh San (Nguyễn Phước Bảo Vàng – 1934-2016), con trai thứ cựu hoàng Duy Tân



Một mảnh vỡ máy bay rơi ngày 26.12.1945 gần thủ đô Trung Phi (ảnh chụp năm 1987) – Ảnh Claude Vinh San



Bài báo của tờ L’aurore ngày 4.1.1946 thông tin về trường hợp tử nạn máy bay của cựu hoàng Duy Tân - Tư liệu riêng



Bài báo của tờ France-Soir ngày 4.1.1946 với nhiều chi tiết hơn về cái chết của cựu hoàng Duy Tân - Tư liệu riêng





Thứ Ba, 21 tháng 12, 2021

Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1542, ngày 2 tháng 2 năm 1939

Những mẫu chuyện về Kỳ Ngoại Hầu Cường Để & Cựu Hoàng Duy Tân

 KỲ VIII) CỰU HOÀNG DUY TÂN VIẾT GÌ

TRONG BÀN TUYÊN BỐ CHÍNH TRỊ?

Ở bài trước, chúng ta biết rằng vào ngày 29.8.1945, cựu hoàng Duy Tân đã phổ biến một tuyên bố chính trị quan trọng đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ Việt-Pháp trong tình hình mới, khi cuộc thế chiến đã kết thúc. Gần đây, người viết bài này tìm thấy tờ báo Pháp Combat (Chiến đấu) số ra ngày 16.7.1947 có một bài viết dài đề cập đến bản tuyên bố của cựu hoàng, thiển nghĩ đây là một tư liệu quý cần thiết cho người đọc yêu lịch sử và các nhà nghiên cứu.

Bài báo có nhan đề: “Bản tuyên bố chính trị của cựu hoàng Việt Nam Duy Tân, Thiếu tá thuộc lực lượng nước Pháp tự do”, đã trích dẫn nguyên văn nhiều nội dung quan trọng của bản tuyên bố ngày 29.8.1945.

Ngay trong phần đầu văn kiện này, cựu hoàng Duy Tân đã xác định rõ lập trường của mình: “Tôi nghĩ rằng tương lai của Việt Nam, dù là tương lai trước mắt, phải được đặt trên cơ sở tình hữu nghị và quyền lợi chung, chứ không phải trên ý tưởng thống trị …”

Tiếp sau đó, cựu hoàng đặt ra cho nước Pháp một yêu cầu thẳng thắn về sự cần phải loại bỏ ý tưởng “chia để trị”, để chứng tỏ thiện chí đối với nhân dân Việt Nam. Đây là một trong những vấn đề thời sự nổi bật khi vào thời điểm này, chính quyền Pháp đang chuẩn bị cho sự ra đời của một thực thể chính trị gọi là chính thể “Cộng hòa tự trị Nam kỳ”, và cựu hoàng cực lực phản đối việc làm này. Trong bản tuyên bố, ông viết:

“Tôi nghĩ rằng nước Pháp cần phải đưa ra chứng cứ về ý muốn thật sự nhằm giúp đỡ người Việt Nam trong sự phát triển, và như vậy sẽ đạt được sự tin cậy và gắn bó của họ. Chứng cứ ấy là sự triệt tiêu rào cản chia cách Bắc-Trung và Nam kỳ. Dân ba miền kết hợp với nhau, có một lý tưởng chung, gắn bó với lý tưởng đó, và để thực hiện lý tưởng, họ sẽ hợp tác toàn diện với Pháp, là nước có thể đảm bảo sử dụng quân đội để bảo vệ một nền kinh tế quốc gia hình thành nhờ vào sự hỗ trợ về vốn liếng và thiết bị của Pháp”

Với quan niệm cho rằng chế độ bảo hộ đang áp dụng cho Cambodge (Campuchia) là chế độ tốt nhất, cựu hoàng vạch ra một thể chế chính trị theo ông là phù hợp cho Việt Nam:

“ …kết hợp Trung và Bắc kỳ dưới hình thức một sự phục tùng duy nhất. Trao cho cơ cấu trung ương quyền tự chủ toàn diện về kinh tế và nội trị, trong lúc vẫn dành cho quân đội và ngành ngoại giao Pháp sự bảo vệ và mối quan hệ với các quốc gia ngoài nước Pháp. Điều này sẽ diễn ra trong một thời kỳ mà sự kéo dài bao lâu sẽ được xác định tại Paris bởi thỏa hiệp giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Pháp.

Về phương diện kinh tế là sự miễn trừ thuế quan giữa nước Pháp và Đông Dương; lắp đặt ngay các nhà máy để khai thác những nguyên liệu phổ biến nhất ở Đông Dương …”

Cuối cùng, ông tóm lược chủ trương chung của mình như sau:

“Tóm lại, tôi nhắm đến Liên bang Đông Dương như sự kết hợp giữa một quốc gia Việt Nam tự trị với hai nước bảo hộ (ám chỉ Lào và Campuchia – LN), tất cả đặt dưới quyền hành trực tiếp của một toàn quyền sẽ mang danh xưng là cao ủy của nước Cộng hòa Pháp.

Viên cao ủy này sẽ có những quyết định dựa theo các nghị quyết của một hội đồng bao gồm đại diện của ba nước, về những vấn đề liên quan đến quyền lợi chung của Liên bang Đông Dương. Hiển nhiên là thể thức áp dụng hệ thống này phải là đối tượng của một cuộc nghiên cứu sâu xa được thực hiện trước khi có sự giải phóng lãnh thổ, để không bị buộc phải tuân theo những sự ngẫu hứng gây ra hậu quả tai hại”

Như vậy, có thể thấy qua bản tuyên bố này, chủ trương của cựu hoàng Duy Tân vẫn là một liên bang Đông Dương, song nét mới mẻ ở đây là các nước trong liên bang có sự tự trị rộng rãi về kinh tế và nội trị, giao cho chính quốc (Pháp) đảm trách hai lãnh vực quốc phòng và ngoại giao.

Phần cuối tuyên bố của cựu hoàng như những di ngôn dành cho người ở lại:

“ Người Pháp cần phải biết rằng, với tư cách cá nhân, tôi sẵn sàng hi sinh vì họ, và rằng trong mọi hoàn cảnh, tôi sẽ hành động vì sự tốt đẹp của dân tộc tôi, cũng như vì sự tốt đẹp của nước Pháp, vì thế, tôi muốn rằng khi tôi chết đi, người ta có thể ghi trên phần mộ của tôi cái câu đã được ghi bên dưới pho tượng của tướng Foch (*) tại Luân Đôn, chỉ cần thay đổi cái tên:

“Tôi ý thức được rằng phụng sự cho nước Pháp cũng là phụng sự cho chính đất nước của tôi”

(LN trích dịch từ tư liệu riêng, báo Combat số ra ngày 16.7.1947)

* Ferdinand Foch, tướng lãnh, người hùng của nước Pháp trong Thế chiến thứ nhất (1914-1918)

Lê Nguyễn

8.11.2021


Tờ báo Combat số ra ngày 14.7.1947 trích đăng phần lớn tuyên bố chính trị ngày 29.8.1945 của cựu hoàng Duy Tân – Tư liệu riêng



Toàn văn bài báo trích bản tuyên bố của cựu hoàng Duy Tân - Tư liệu riêng



Tướng Ferdinand Foch, người hùng của nước Pháp trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918)





Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2021

Những mẫu chuyện về Kỳ Ngoại Hầu Cường Để & Cựu Hoàng Duy Tân

 KỲ VII) ĐỜI BINH NGHIỆP VÀ CUỘC HỘI KIẾN

VỚI TƯỚNG DE GAULLE

Sau khi liên lạc được với tổ chức giải phóng nước Pháp của tướng De Gaulle qua chiếc tàu phóng ngư lôi Léopard, cựu hoàng Duy Tân tiếp tục gửi cho họ những tin tức trên đảo Réunion, đồng thời mật báo cho những người yêu nước trên đảo tình hình bên ngoài. Việc làm này buộc ông phải trả giá: ngày 7.5.1942, ông bị chính quyền trên đảo bắt và tạm giam trong nhà giam Lazaret ở thủ phủ Saint-Denis. Một tháng sau, ông được trả lại tự do, song các máy móc, thiết bị vô tuyến đều bị tịch thu cả. Ông tiếp tục phục hồi lại những gì đã mất và tiếp tục các liên lạc vô tuyến với tổ chức giải phóng nước Pháp có cái tên France Libre.

Gần cuối năm 1942, xu thế cuộc chiến ngày một thay đổi nhanh chóng. Ngày 27.11.1942, chính quyền đảo Réunion tham gia vào France Libre và cựu hoàng Duy Tân chính thức đứng vào hàng ngũ kháng chiến chống Đức Quốc xã. Ông được thu nhận làm chuyên viên vô tuyến điện trên chính chiếc tàu Léopard từng bắt liên lạc với ông. Tuy nhiên, cơ địa của ông không phù hợp với môi trường sóng nước, ông bị bệnh liên miên, cuối cùng chỉ sau 22 ngày sống trên tàu Léopard, ông phải trở lại đất liền (vinhsan.free.fr, acte 13).

Năm 1943, ông ráo riết tìm lại một chỗ đứng trong hàng ngũ kháng chiến của Pháp song không được toại nguyện. Mãi đến ngày 3.1.1944, ông mới được thu nhận vào trại lính Lambert với tư cách binh nhì. Hơn một tháng sau, ông được thăng hạ sĩ. Qua năm 1945, chức vụ cao nhất ông được giao phó trong quân đội là Tiểu đoàn trưởng, ngang với cấp Thiếu tá. Song mãi đến ngày 29.10.1945, sau khi chiến tranh kết thúc hoàn toàn, tướng De Gaulle mới ban hành sắc lệnh hợp thức hóa các cấp bậc của ông trong quân ngũ, cụ thể như sau:

- Thiếu úy ngày 5.12.1942

- Trung úy ngày 5.12.1943

- Đại úy ngày 5.12.1944

- Tiểu đoàn trưởng (tương đương thiếu tá) ngày 25.9.1945.

(vinhsan.free.fr acte15)

***

Năm 1945 đánh dấu mấy sự kiện quan trọng trong đời lưu đày của cựu hoàng Duy Tân:

* Tháng 3.1945, ông được thưởng huân chương kháng chiến với những dòng vinh danh như sau:

“Bằng thái độ dũng cảm, sự quyết tâm và qua việc giúp cho nhiều thính giả nghe được các đài phát thanh của nước Pháp tự do hoặc của các nước đồng minh, là những đài bị cấm ngặt việc theo dõi, ông hoàng Vĩnh San đã góp phần vào việc duy trì lâu dài trên đảo Réunion lá cờ kháng chiến và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng….” (vinhsan.free.fr acte15)

* Ngày 29.8.1945, trên làn sóng của đài phát thanh Radio-Tananarive, cựu hoàng Duy Tân đọc bản tuyên bố chính trị đầu tiên kể từ ngày ông bị lưu đày. Bản tuyên bố gửi đến nhân dân Việt Nam đang chống lại quân phiệt Nhật, xác định rằng tương lai của đất nước chỉ có thể đạt được bằng mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nước Pháp. Bản tuyên bố chủ trương một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hợp tác với Pháp và tạm thời ủy thác cho nước này hai bộ Ngoại giao và Quốc phòng.

* Phải chăng bản tuyên bố “mềm dẽo” trên đã tác động lên lập trường của tướng De Gaulle về vấn đề Việt Nam, trong cương vị là người lãnh đạo nước Pháp tự do? Dù với lý do gì thì cuộc gặp gỡ giữa vị tướng thắng trận, người hùng của dân tộc Pháp là De Gaulle, với một cựu hoàng đã trải qua gần 30 năm lưu đày, cũng đã diễn ra vào ngày 14.12.1945, để lại nhiều ấn tượng cho chính người trong cuộc, cũng như trong dư luận quốc tế lúc bấy giờ.

Người ta đọc thấy những dòng sau đây trích trong cuốn Mémoires de guerre (Ký ức chiến tranh) của tướng De Gaulle:

”Nhằm những mục tiêu có thể được xem là hữu ích, tôi nuôi một ý định bí mật. Đó là cung cấp cho cựu hoàng đế Duy Tân những phương tiện để tái xuất hiện, nếu người kế tục và người bà con với ông là Bảo Đại cuối cùng rồi cũng bị các biến động vượt qua. Duy Tân bị chính quyền Pháp truất phế vào năm 1916, trở lại với cương vị ông hoàng Vĩnh San và bị đưa đến đảo Réunion, tuy nhiên, trong lúc cuộc chiến này diễn ra, ông đã phục vụ trong quân đội của chúng ta. Ông đã mang cấp bậc thiếu tá. Đó là một nhân cách mạnh mẽ. Khoảng 30 năm lưu đày không xóa nhòa trong tâm hồn dân tộc Việt Nam những kỷ niệm về vị vua này. Ngày 14.12, tôi sẽ tiếp ông để cùng nhau xét xem chúng tôi có thể làm gì với nhau. Nhưng cho dù chính phủ của tôi có tiếp xúc để thỏa hiệp với bất cứ ai, tôi cũng trù định việc gắn chặt họ ở Đông Dương, trong guồng máy trang trọng nhất khi thời cơ đến..”

(Sách đã dẫn, Quyển III, trang 230 – Nhà xuất bản Plon – Paris 1959 - LN tạm dịch).

Về phần cựu hoàng Duy Tân, ông đã viết về cuộc gặp gỡ lịch sử này như sau:

”Điều đó đã quyết, chính phủ Pháp đặt tôi trở lại ngai vàng Annam. De Gaulle sẽ tháp tùng tôi khi tôi trở về. Ông ta dự kiến là vào những ngày đầu tháng 3.1946. Từ đây đến đó, người ta chuẩn bị dư luận, cả ở Pháp lẫn quốc tế và Đông Dương.Cần thiết lập một loạt thỏa hiệp được hai chính phủ thông qua..”

(vinhsan.free.fr. acte 17)

Thế nhưng những dự đoán lạc quan của cựu hoàng đã không tồn tại được lâu!

Lê Nguyễn

7.11.2021

* Xin lặp lại một ý cũ, song không phải là không cần thiết: đây chỉ là những bài báo, những status facebook ngắn gọn, được chọn lọc từ khối tư liệu mà tác giả có được. Nhiều chi tiết được một số bạn “bổ sung” không nằm ngoài khối tư liệu đã có, song vì khuôn khổ bài viết có giới hạn mà người viết chỉ có thể trình bày một số nét tiêu biểu. Mong các bạn thông cảm.


Chiếc tàu Léopard, nơi cựu hoàng Duy Tân từng phụ trách về vô tuyến điện - Ảnh Claude Vĩnh San



Cựu hoàng Duy Tân trong bộ quân phục hạ sĩ - Ảnh Claude Vĩnh San



Tướng De Gaulle đọc lời hiệu triệu dân chúng Pháp tại Luân Đôn - Ảnh Claude Vĩnh San



Tướng De Gaulle năm 1942





Báo Nam Kỳ Địa Phận, số 1540, ngày 19 tháng 1 năm 1939