SỰ SA CƠ CỦA VUA HÀM NGHI VÀ CÁI CHẾT ANH HÙNG
CỦA HAI CON TRAI PHỤ CHÁNH TÔN THẤT THUYẾT
Như đã trình bày ở một bài trước, từ năm 1887, các lực
lượng kháng chiến Cần vương gặp nhiều khó khăn do quân Pháp dưới quyền Đại úy
Mouteaux đóng ở đồn Minh Cầm chặn các ngả đường liên lạc giữa vùng hạ nguồn và
thượng nguồn sông Gianh. Nhà vua cùng một số tùy tùng phải đi lần lên phía thượng
nguồn để tránh những cuộc truy lùng của quân Pháp.
Hầu cận nhà vua vào thời điểm này, ngoài người con
trai của Phụ chánh Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Thiệp, còn có Trương Quang Ngọc,
một người thiểu số ở địa phương rất giỏi tài bắn cung, được phong làm Lãnh
binh, và Nguyễn Định Trình (tài liệu của Delvaux và Gosselin ghi là Nguyen Tinh
Dinh), đi theo vua từ năm 1885.
(Delvaux: Quelques précisions sur une période troublée
de l’histoire d’Annam – BAVH No3/1941 – Gosselin: L’Empire d’Annam – Paris
1905)
Cuối mùa Hè năm 1888, Trình đến đầu thú với Pháp tại đồn
Đồng Cả và khai báo nhiều chi tiết quan trọng về vua Hàm Nghi. Theo y, Trương
Quang Ngọc cũng đã rời bỏ nhà vua từ 6 tháng trước, ý cũng muốn đầu thú và có
thể giao nộp nhà vua nếu được hứa ban thưởng. Nơi trú ngụ của nhà vua ở cạnh bờ
khe Tả Bảo, một phụ lưu của sông Gianh nằm trong tỉnh Quảng Bình. Ngôi nhà nằm
giữa một khu vườn được ra công chăm sóc kỹ lưỡng, giữa nhà có trải một chiếc
chiếu hoa. Đồ ăn thức uống của nhà vua do những người dân tộc Mường tại địa
phương cung đốn, chủ yếu chỉ có gạo và muối. Ông ăn mặc rất nghèo nàn, chỉ có một
bộ quần áo bằng vải nâu. Ông cùng các thuộc hạ thường bị bệnh sốt hành hạ, di
chuyển thường phải nhờ những người Mường cõng đi.
Đầu tháng 9.1888, Đại úy Pháp Boulangier gửi cho
Trương Quang Ngọc một lá thư kêu gọi y ra đầu thú nhưng không nhận được hồi âm.
Tuy nhiên, sau lá thư thứ hai của Boulangier, Ngọc ra đầu thú với Trung úy Pháp
Lagarrue. Chiều ngày 1.11.1888 (Delvaux ghi là ngày 2.11), Trương Quang Ngọc,
Nguyễn Định Trình dẫn theo khoảng 20 người dân địa phương trang bị giáo mác,
cung tên, hướng về nơi ẩn lánh của vua Hàm Nghi. Chúng được lệnh của Pháp là phải
bảo toàn mạng sống nhà vua, có thể sát hại bất cứ ai khác nếu họ chống cự.
10 giờ đêm, bọn chúng đến nơi, một ngôi nhà dựng bằng
tre và gỗ, lợp tranh, giữa nhà là một chiếc chõng tre phủ chiếu hoa, nhà vua nằm
ngủ trên đó. Nghe có tiếng động lạ, Thống chế Nguyễn Thùy và con trai xách gươm
nhảy ra thì bị Trương Quang Ngọc dùng giáo đâm chết. Tôn Thất Thiệp cũng chịu
chung số phận, dưới ngọn giáo của Cao Viết Lượng, một người Mường ở làng Thanh
Cuộc.
Nhà vua biết mình bị phản bội, cầm gươm chỉ vào Trương
Quang Ngọc:”Mày giết tao đi, còn hơn là mang tao nộp cho Pháp”. Ngay sau đó,
ông bị một tên Mường từng là hầu cận ôm ngang thắt lưng, giật lấy gươm. Sau khi
đèn đuốc được thắp lên, một người trong bọn Ngọc quỳ xuống đất đọc lá thư của Đại
úy Boulangier mời nhà vua trở về Huế. Im lặng hồi lâu, vua Hàm Nghi thở dài và
nói:” Ta đã bị phản bội. Ta phải tuân theo mệnh Trời, ta sẽ đi theo các ngươi”.
Sáng sớm ngày hôm sau, nhà vua được đưa về đồn Chà Mạc
(có tài liệu ghi là Tha-Mạc), nơi đây đã có Đại úy Boulangier đợi sẵn. Trên đường
đi, ngồi trên chiếc võng tồi tàn có người khiêng, ông không ngớt miệng lẩm bẩm:”ý
Trời đã định!”.
Tại đồn Chà Mạc, Boulangier bố trí đội quân danh dự bồng
súng chào, kèn trỗi lên điệu quân nhạc. Nhà vua bước đi, không buồn quay đầu lại,
ông lấy chéo khăn lau gương mặt đã đầm đìa nước mắt. Nước mắt của vì vua trẻ tuổi
từng trải qua những năm tháng sống giữa rừng thiêng nước độc, nay bất lực trước
cảnh nước mất nhà tan, đã gây một xúc động lớn cho những ai có mặt vào buổi
sáng hôm đó. Mọi người khá ngạc nhiên là gian khổ như vậy mà nhà vua vẫn còn khỏe
mạnh, nhanh nhẹn, đồng thời khăng khăng bảo rằng mình không phải là cựu hoàng
Hàm Nghi.
Ngày 6.11, khi nhà vua sắp sửa rời Thanh Lạng, một
giáo sĩ Việt Nam tên Trung ở Làng Truông đến dâng cho ông một chiếc kiệu khá đẹp,
vây màn kín để tránh những con mắt tò mò của người đi đường, với hơn 10 giáo
dân đi theo để khiêng kiệu. Vua Hàm Nghi hỏi tên ông giáo sĩ, sau đó đã nói:”
Ngày xưa, ta cũng có học đôi chữ Hán, ta chỉ nhắc mình một chữ duy nhất: chữ
Trung – Xin cảm ơn!”
Một bữa nọ, nhà vua nhác thấy bóng dáng người thầy học
cũ của mình trong đám đông, ông nghiêng mình kính cẩn chào, từ đó, ông tự để lộ
“chân tướng”, không còn phủ nhận mình từng là vua Hàm Nghi nữa. Đoàn người phải
lưu lại Đồng Cả hơn một tuần lễ để chờ chỉ thị của chính phủ Pháp ở Paris. Cuối
cùng một thông báo của Bộ thuộc địa chỉ định nơi cư trú của nhà vua là Alger,
nơi có “một khí hậu êm dịu, để Ngài sớm bình phục sau những mệt nhọc của cuộc sống
lang bạt chốn núi rừng” (điện tín của Bộ này).
Ngày 13.11, Pháp đưa vua Hàm Nghi rời Đồng Cả, xuống
thuyền đến Quảng Khê rồi sau đó theo đường quan lộ đến trạm Thừa Hóa. Tổng trú
sứ Rheinart đã đến Thừa Nông thăm nhà vua, hỏi ông có cần nói điều gì với người
anh là vua Đồng Khánh hay một thân nhân nào khác hay không. Nhà vua đã trả lời
là ông không có một người quen nào ở Huế cả.
Nhân cuộc gặp gỡ này, một sĩ quan Pháp chụp một số bức
ảnh nhà vua và sau đó phổ biến rộng rãi cho mọi người biết là vua Hàm Nghi,
linh hồn của cuộc kháng chiến Cần vương, nay đã là một tù nhân.Trước thái độ
khăng khăng từ chối trở về Huế của nhà vua, thực dân Pháp đã đưa ông từ Thừa
Hóa đến lạch Tư Hiền, từ đây, chiếc tàu Comète đã chờ sẵn để chuyển ông vào Sài
Gòn. Không lâu sau, chuyến tàu Biên Hòa đưa ông đi Alger, khởi đầu cuộc sống
lưu đày.
***
Trong đêm vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, Tôn Thất Thiệp và
hai thủ hạ của nhà vua bị sát hại tại chỗ. Họ đã hi sinh mạng sống để thể hiện
lòng trung nghĩa của mình. Người con lớn còn lại của Tôn Thất Thuyết làTôn Thất
Đạm lúc bấy giờ đang làm Khâm sai, lãnh nhiệm vụ đi chiêu mộ nghĩa sĩ ở khu vực
phía Bắc Quảng Bình (nên người đương thời gọi ông là Khâm Đạm).
Khi hay tin là nhà vua đã lọt vào tay giặc rồi, ông viết
ngay một lá thư, cho người mang đến đồn Thuận Bài nhờ chuyển cho nhà vua. Thư
có đoạn viết:”Không được gần gủi Hoàng thượng để hộ giá, khi có kẻ phản thần
làm việc ám muội, thần mang tội rất nhiều…Các quan văn võ sẽ mang hận ấy suốt đời,
vậy xin Hoàng thượng tha thứ cho và thề sẽ hết lòng trung cho đến thác” (Phan
Trần Chúc-Vua Hàm Nghi-NXB Thuận Hóa-1995-trang 174).
Tôn Thất Đạm cũng gửi cho Thiếu tá Dabat ở đồn Thuận
Bài một lá thư bày tỏ sự hối tiếc đã không ở kề cận nhà vua để bảo vệ, cho dù
có chết như người em trai của mình. Thư có đoạn cuối như sau:”Nay chúng tôi bị
thua. Cái then của chiến bại đã đến bước cùng. Vậy xin Ngài cho các tướng sĩ được
về quê hương an trí làm ăn và không phải ra thờ triều đình mới”.
Trong thư hồi âm của Dabat có câu:”Thay mặt các binh
sĩ Pháp, tôi xin nói để Ngài biết rằng các tướng Pháp rất kính phục Ngài. Xin mời
Ngài ra đồn Thuận Bài. Tôi xin đoan rằng người Pháp sẽ đãi Ngài một cách trân
trọng, xứng đáng với tài đức và địa vị của Ngài trong hoạn giới” (Phan Trần
Chúc-Sđd-trang 175).
Sau những bức thư trao đổi ấy, Tôn Thất Đạm tập họp tướng
sĩ lại, yêu cầu họ ra hàng và khuyên mọi người về quê làm ăn, không nhận chức
tước gì của triều đình mới. Về phần mình, ông nói: ”Còn ta, nếu người Pháp có hỏi,
các ngươi cứ bảo họ vào rừng này, tự khắc tìm thấy ta”. Rồi ông một mình đi vào
rừng, cỡi chiếc khăn đội đầu, treo cổ trên cành cây mà chết. Khi đi tìm ông và
phát hiện ra ông đã chết, tướng sĩ xúm lại, ôm lấy xác chủ tướng mà khóc.
Con người trung nghĩa ấy sống hết lòng vì vua, vì nước,
khi chết cũng chọn cái chết anh hùng, không để rơi vào tay giặc. Mấy ngày sau,
không thấy ông ra hàng, quân Pháp vào rừng, đã thấy ngôi mộ ông nằm đó, bên cạnh
còn có thanh gươm mà ông vẫn dùng lúc sinh thời.
1.10.2015
Tranh vẽ của người Pháp: cảnh lúc Pháp bắt vua Hàm
Nghi, Tôn Thất Thiệp cầm gươm lên, chưa kịp làm gì thì bị sát hại bằng súng
(trái), còn nhà vua trong lúc bất ngờ, vói tay chụp thanh gươm bên cạnh, nhưng
không kịp (phải)
Cựu hoàng Hàm Nghi lúc mới bị đày sang Alger - Ảnh báo
Journal des voyages
Cựu hoàng Hàm Nghi ở tuổi trung niên
Cựu hoàng Hàm Nghi những năm cuối đời
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét