ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2021

Sự sa cơ của vua Hàm Nghi và cái chết anh hùng của hai con trai Phụ chánh Tôn Thất Thuyết

 SỰ SA CƠ CỦA VUA HÀM NGHI VÀ CÁI CHẾT ANH HÙNG

CỦA HAI CON TRAI PHỤ CHÁNH TÔN THẤT THUYẾT

Như đã trình bày ở một bài trước, từ năm 1887, các lực lượng kháng chiến Cần vương gặp nhiều khó khăn do quân Pháp dưới quyền Đại úy Mouteaux đóng ở đồn Minh Cầm chặn các ngả đường liên lạc giữa vùng hạ nguồn và thượng nguồn sông Gianh. Nhà vua cùng một số tùy tùng phải đi lần lên phía thượng nguồn để tránh những cuộc truy lùng của quân Pháp.

Hầu cận nhà vua vào thời điểm này, ngoài người con trai của Phụ chánh Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Thiệp, còn có Trương Quang Ngọc, một người thiểu số ở địa phương rất giỏi tài bắn cung, được phong làm Lãnh binh, và Nguyễn Định Trình (tài liệu của Delvaux và Gosselin ghi là Nguyen Tinh Dinh), đi theo vua từ năm 1885.

(Delvaux: Quelques précisions sur une période troublée de l’histoire d’Annam – BAVH No3/1941 – Gosselin: L’Empire d’Annam – Paris 1905)

Cuối mùa Hè năm 1888, Trình đến đầu thú với Pháp tại đồn Đồng Cả và khai báo nhiều chi tiết quan trọng về vua Hàm Nghi. Theo y, Trương Quang Ngọc cũng đã rời bỏ nhà vua từ 6 tháng trước, ý cũng muốn đầu thú và có thể giao nộp nhà vua nếu được hứa ban thưởng. Nơi trú ngụ của nhà vua ở cạnh bờ khe Tả Bảo, một phụ lưu của sông Gianh nằm trong tỉnh Quảng Bình. Ngôi nhà nằm giữa một khu vườn được ra công chăm sóc kỹ lưỡng, giữa nhà có trải một chiếc chiếu hoa. Đồ ăn thức uống của nhà vua do những người dân tộc Mường tại địa phương cung đốn, chủ yếu chỉ có gạo và muối. Ông ăn mặc rất nghèo nàn, chỉ có một bộ quần áo bằng vải nâu. Ông cùng các thuộc hạ thường bị bệnh sốt hành hạ, di chuyển thường phải nhờ những người Mường cõng đi.

Đầu tháng 9.1888, Đại úy Pháp Boulangier gửi cho Trương Quang Ngọc một lá thư kêu gọi y ra đầu thú nhưng không nhận được hồi âm. Tuy nhiên, sau lá thư thứ hai của Boulangier, Ngọc ra đầu thú với Trung úy Pháp Lagarrue. Chiều ngày 1.11.1888 (Delvaux ghi là ngày 2.11), Trương Quang Ngọc, Nguyễn Định Trình dẫn theo khoảng 20 người dân địa phương trang bị giáo mác, cung tên, hướng về nơi ẩn lánh của vua Hàm Nghi. Chúng được lệnh của Pháp là phải bảo toàn mạng sống nhà vua, có thể sát hại bất cứ ai khác nếu họ chống cự.

10 giờ đêm, bọn chúng đến nơi, một ngôi nhà dựng bằng tre và gỗ, lợp tranh, giữa nhà là một chiếc chõng tre phủ chiếu hoa, nhà vua nằm ngủ trên đó. Nghe có tiếng động lạ, Thống chế Nguyễn Thùy và con trai xách gươm nhảy ra thì bị Trương Quang Ngọc dùng giáo đâm chết. Tôn Thất Thiệp cũng chịu chung số phận, dưới ngọn giáo của Cao Viết Lượng, một người Mường ở làng Thanh Cuộc.

Nhà vua biết mình bị phản bội, cầm gươm chỉ vào Trương Quang Ngọc:”Mày giết tao đi, còn hơn là mang tao nộp cho Pháp”. Ngay sau đó, ông bị một tên Mường từng là hầu cận ôm ngang thắt lưng, giật lấy gươm. Sau khi đèn đuốc được thắp lên, một người trong bọn Ngọc quỳ xuống đất đọc lá thư của Đại úy Boulangier mời nhà vua trở về Huế. Im lặng hồi lâu, vua Hàm Nghi thở dài và nói:” Ta đã bị phản bội. Ta phải tuân theo mệnh Trời, ta sẽ đi theo các ngươi”.

Sáng sớm ngày hôm sau, nhà vua được đưa về đồn Chà Mạc (có tài liệu ghi là Tha-Mạc), nơi đây đã có Đại úy Boulangier đợi sẵn. Trên đường đi, ngồi trên chiếc võng tồi tàn có người khiêng, ông không ngớt miệng lẩm bẩm:”ý Trời đã định!”.

Tại đồn Chà Mạc, Boulangier bố trí đội quân danh dự bồng súng chào, kèn trỗi lên điệu quân nhạc. Nhà vua bước đi, không buồn quay đầu lại, ông lấy chéo khăn lau gương mặt đã đầm đìa nước mắt. Nước mắt của vì vua trẻ tuổi từng trải qua những năm tháng sống giữa rừng thiêng nước độc, nay bất lực trước cảnh nước mất nhà tan, đã gây một xúc động lớn cho những ai có mặt vào buổi sáng hôm đó. Mọi người khá ngạc nhiên là gian khổ như vậy mà nhà vua vẫn còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, đồng thời khăng khăng bảo rằng mình không phải là cựu hoàng Hàm Nghi.

Ngày 6.11, khi nhà vua sắp sửa rời Thanh Lạng, một giáo sĩ Việt Nam tên Trung ở Làng Truông đến dâng cho ông một chiếc kiệu khá đẹp, vây màn kín để tránh những con mắt tò mò của người đi đường, với hơn 10 giáo dân đi theo để khiêng kiệu. Vua Hàm Nghi hỏi tên ông giáo sĩ, sau đó đã nói:” Ngày xưa, ta cũng có học đôi chữ Hán, ta chỉ nhắc mình một chữ duy nhất: chữ Trung – Xin cảm ơn!”

Một bữa nọ, nhà vua nhác thấy bóng dáng người thầy học cũ của mình trong đám đông, ông nghiêng mình kính cẩn chào, từ đó, ông tự để lộ “chân tướng”, không còn phủ nhận mình từng là vua Hàm Nghi nữa. Đoàn người phải lưu lại Đồng Cả hơn một tuần lễ để chờ chỉ thị của chính phủ Pháp ở Paris. Cuối cùng một thông báo của Bộ thuộc địa chỉ định nơi cư trú của nhà vua là Alger, nơi có “một khí hậu êm dịu, để Ngài sớm bình phục sau những mệt nhọc của cuộc sống lang bạt chốn núi rừng” (điện tín của Bộ này).

Ngày 13.11, Pháp đưa vua Hàm Nghi rời Đồng Cả, xuống thuyền đến Quảng Khê rồi sau đó theo đường quan lộ đến trạm Thừa Hóa. Tổng trú sứ Rheinart đã đến Thừa Nông thăm nhà vua, hỏi ông có cần nói điều gì với người anh là vua Đồng Khánh hay một thân nhân nào khác hay không. Nhà vua đã trả lời là ông không có một người quen nào ở Huế cả.

Nhân cuộc gặp gỡ này, một sĩ quan Pháp chụp một số bức ảnh nhà vua và sau đó phổ biến rộng rãi cho mọi người biết là vua Hàm Nghi, linh hồn của cuộc kháng chiến Cần vương, nay đã là một tù nhân.Trước thái độ khăng khăng từ chối trở về Huế của nhà vua, thực dân Pháp đã đưa ông từ Thừa Hóa đến lạch Tư Hiền, từ đây, chiếc tàu Comète đã chờ sẵn để chuyển ông vào Sài Gòn. Không lâu sau, chuyến tàu Biên Hòa đưa ông đi Alger, khởi đầu cuộc sống lưu đày.

***

Trong đêm vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, Tôn Thất Thiệp và hai thủ hạ của nhà vua bị sát hại tại chỗ. Họ đã hi sinh mạng sống để thể hiện lòng trung nghĩa của mình. Người con lớn còn lại của Tôn Thất Thuyết làTôn Thất Đạm lúc bấy giờ đang làm Khâm sai, lãnh nhiệm vụ đi chiêu mộ nghĩa sĩ ở khu vực phía Bắc Quảng Bình (nên người đương thời gọi ông là Khâm Đạm).

Khi hay tin là nhà vua đã lọt vào tay giặc rồi, ông viết ngay một lá thư, cho người mang đến đồn Thuận Bài nhờ chuyển cho nhà vua. Thư có đoạn viết:”Không được gần gủi Hoàng thượng để hộ giá, khi có kẻ phản thần làm việc ám muội, thần mang tội rất nhiều…Các quan văn võ sẽ mang hận ấy suốt đời, vậy xin Hoàng thượng tha thứ cho và thề sẽ hết lòng trung cho đến thác” (Phan Trần Chúc-Vua Hàm Nghi-NXB Thuận Hóa-1995-trang 174).

Tôn Thất Đạm cũng gửi cho Thiếu tá Dabat ở đồn Thuận Bài một lá thư bày tỏ sự hối tiếc đã không ở kề cận nhà vua để bảo vệ, cho dù có chết như người em trai của mình. Thư có đoạn cuối như sau:”Nay chúng tôi bị thua. Cái then của chiến bại đã đến bước cùng. Vậy xin Ngài cho các tướng sĩ được về quê hương an trí làm ăn và không phải ra thờ triều đình mới”.

Trong thư hồi âm của Dabat có câu:”Thay mặt các binh sĩ Pháp, tôi xin nói để Ngài biết rằng các tướng Pháp rất kính phục Ngài. Xin mời Ngài ra đồn Thuận Bài. Tôi xin đoan rằng người Pháp sẽ đãi Ngài một cách trân trọng, xứng đáng với tài đức và địa vị của Ngài trong hoạn giới” (Phan Trần Chúc-Sđd-trang 175).

Sau những bức thư trao đổi ấy, Tôn Thất Đạm tập họp tướng sĩ lại, yêu cầu họ ra hàng và khuyên mọi người về quê làm ăn, không nhận chức tước gì của triều đình mới. Về phần mình, ông nói: ”Còn ta, nếu người Pháp có hỏi, các ngươi cứ bảo họ vào rừng này, tự khắc tìm thấy ta”. Rồi ông một mình đi vào rừng, cỡi chiếc khăn đội đầu, treo cổ trên cành cây mà chết. Khi đi tìm ông và phát hiện ra ông đã chết, tướng sĩ xúm lại, ôm lấy xác chủ tướng mà khóc.

Con người trung nghĩa ấy sống hết lòng vì vua, vì nước, khi chết cũng chọn cái chết anh hùng, không để rơi vào tay giặc. Mấy ngày sau, không thấy ông ra hàng, quân Pháp vào rừng, đã thấy ngôi mộ ông nằm đó, bên cạnh còn có thanh gươm mà ông vẫn dùng lúc sinh thời.

Lê Nguyễn

1.10.2015


Tranh vẽ của người Pháp: cảnh lúc Pháp bắt vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thiệp cầm gươm lên, chưa kịp làm gì thì bị sát hại bằng súng (trái), còn nhà vua trong lúc bất ngờ, vói tay chụp thanh gươm bên cạnh, nhưng không kịp (phải)



Cựu hoàng Hàm Nghi lúc mới bị đày sang Alger - Ảnh báo Journal des voyages



Cựu hoàng Hàm Nghi ở tuổi trung niên



Cựu hoàng Hàm Nghi những năm cuối đời



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét