Mừng lễ vàng hai cha gia quí danh là: Anrê Lê phước Bửu và Phêrô
Đoàn Công Triệu tại trường Latinh Saigon ngày 11 Juillet 1925.
Trước 7 giờ ban mai ít phút, thì các cha tây nam đã tề tựu nơi
phòng khách được 91 đấng, còn các bà phước và bổn đạo gần xa thì đứng trước cữa
nhà thờ. Cha Anrê cha Phêrô mặc áo lễ vàng tay cầm đèn sáp lớn có kết những
bông vàng lá bạc tủa sum sê; đoạn các đấng sắp hàng hai theo thánh giá mà rước
thẳng vào nhà thờ. Đang lúc khởi hành thì có bọn Fanfare Thủ-ngữ trổi bản
Marche Pontificale hỉ hoan khoái lạc. Tới bàn thờ cha Anrê làm lễ nhứt, cả mùa
lễ thì đờn ca cung giọng dịu dàng, các cha thảy rập ràng xướng hát. Bỡi một
lòng sốt sắng, một dạ mến yêu, nên làm cho lòng giáo hữu càng thêm khoái lạc
khắp khởi. Lễ nhứt gần rồi thì các cha xướng kinh Magnificat, dứt kinh đoạn thì
cha J.B Nguyễn-bá-Tòng là chánh sở Bàrịa bước lên cấp bên hữu bàn
thờ mà dưng một bài chúc Ngũ tuần chánh tế hai cha.
Giảng rồi cha Phêrô bước lên bàn thánh làm lễ nhì tạ ơn Chúa, có
cha Phaolồ Đạt và Phaolồ Xuân là hai cháu giúp lễ. Đang buổi lễ các cha cũng
đờn ca xướng hát. Lễ tạ an bài các cha liền xướng kinh Te Deum lẫy lừng mà cám tạ
đội ơn Chúa.
Lễ rồi ai nấy tề tựu tại nhà chơi các thầy, bọn Farfare trổi bản
Đại-triều Pháp quấc, các cha tây nam mừng chúc hai cha, bọn nhạc cũng tiếp thêm
hai bản là: Les jeunes musiciens (Pas redoublé) và La Reine mab (Petite
fantaisie).
9 giờ thì các cha dự tiệc, đang buổi tiệc bọn nhạc cũng tiếp luôn
11 bản nửa. Khi tiệc đã gần mảng thì cha Bề trên địa phận nói ít lời chúc mừng
hai cha chánh tế ngũ tuần. Cha Anrê đáp lời tạ ơn, rồi cha Abonnel tiếp đôi lời
hiệp vui cùng hai cha.
NOCES D'OR DES PP. BỬU ET TRIỆU
----------------------------
“Gratias Deo, super inenarrabili dono ejus.” (2 Cor. 9, 15
).
Ta hãy tạ ơn Đ. C. T vì ơn Chúa châu báu không lưỡi nào kể xiết.
Lạy Cha Bề Trên, kính cha Anrê, cha Phêrô cùng các cha.
Sự cám ơn Đ. C. T là việc bổn phận ta phải làm mỗi ngày, cùng là
nợ ta phải trả cho Chúa hằng giây hằng phút, vì hằng giây hằng phút ta hằng
chịu ơn Chúa chẳng khi đường. “In ipso enim vivimus, et movemur et sumus”
( Act, 17, 28 ) tay Đ. C. T đã tạo thành cùng gìn giữ ta luôn luôn; hồn xác,
tài năng trí huệ, mạng sống cùng sức mạnh, mọi sự trong ngoài thảy đều bỡi lòng
rộng rãi Chúa ban.
Nhứt thiết là ơn Chúa chọn ta làm thầy cả, thật là donum
inenarrabili chức thầy cả cứu ta khỏi biết bao nhiêu đều lầm lạc hiểm
nghèo! chức thầy cả làm cho ta khỏi biết bao nhiêu nổi éo le phần rỗi!
Đã hay Chúa dùng thầy cả mà ban phát ơn Chúa cho loài người, song
ơn Chúa châu lưu cho thâu linh hồn giáo hữu, thì đã đầm thấm linh hồn thầy cả
biết là bao nhiêu, như lời Đ C T T phán rằng: Tao sẽ xối ban ơn thánh tràn trề
cho linh hồn đạo đức say no, và dân tao sẽ đặng phước lành phu phỉ. “Inebriabo
animam sacerdotum pinguedine, et populus meus bonis meis adimplebis tur.”
Còn việc bổn phận ta làm mà giúp linh hồn kẻ khác, thì lại sinh ơn
phước cho ta kể chẳng xiết. Ta làm cho kẻ có tội trở lại, thì ta được Chúa khỏa
lấp tiên khiên. “ Qui concerti fecesit peccatorem... operit
multitudinem peccatorum” (lac, 5, 20 ). Ta dạy dỗ người biết đàng rỗi,
cùng dõi theo đàng công chánh, thì ta lại đặng phần thưởng riêng trên đất hằng
sống: “Qui ad justitiam crudiunt multos, fulgebunt quasi stello in perpetuas
æternitates” ( Dan. 12, 3 ). Thiệt ơn Chúa xuống cho hàng đạc đức là
hằng hà sa số.
Vì vậy cho nên Hội thánh dạy ta mỗi ngày mỗi giờ mọi nơi mọi chỗ,
hằng phải hết lòng cám tạ: Semper et ubique gratias agere. Nhứt là
ngày hôm nay, Chúa dủ lòng thương hai thầy cả, là trưởng thượng, là thầy cùng
là anh cả ta, là quan tướng cầm binh Đ C T trong trận ba thù, đã 50 năm vẹn
toàn hồn xác, lẽ nào ta chẳng chung tình vui mừng cám tạ.
Vậy cho đặng giục lòng ta cảm mến ơn Chúa, thì ta hiệp nhau trong
nhà thánh nầy, là nơi sinh hàng đạc đức, mà gẫm ít đều về quyền cao chức trọng
đấng làm thầy cả, là Thần sứ, là đấng tế lễ, - cùng
là kẻ giúp việc Đ C T. - Đó là phương Chúa dùng mà xuống muôn
vàn ơn phước cho cả và thế gian, đó là ơn trọng vô giá Chúa ban cho ta là tôi
tá Chúa.
I
Hàng linh mục là Thần sứ Đ C T đã đặt, liên giao
thông loài người với Chúa: “Pro hominibus constituitur”, lại lo việc
Chúa với loài người: “constituitur in his quæ sunt ad Deum”. Chúa ở trên
trời, loài người dưới đất, chính phần trách nhậm đấng làm thầy là ở giữa. Phải
lên phải xuống mà giao hảo hai đàng, cũng như các thánh thiên thần ông Giacób
đã thấy xưa, lớp lên lớp xuống nơi thang mầu nhiệm, thì hàng đạc đức cùng một
thế ấy. Xuống, hầu xem biết chỗ con chiên mình thiếu thốn; lên, cho đặng mở
lượng nhơn từ lân mẫn. Xuống, hầu lãnh lời giáo hữu khẩn cầu; lên, cho đặng tâu
thưa cùng Chúa,.
Thầy cả là máng Đ C T dùng, mà tuôn xuống cho thiên hạ mọi ơn phần
rỗi, cho đến đỗi ông thánh Gioan kim khẩu quả quyết rằng: Sine
sacerdotibus, salutis compotes fieri non possumus, không có thầy cả,
ắt ta rỗi linh hồn chẳng đặng,
Bỡi Chúa đã chọn thầy cả làm khâm sứ Chúa, thì lời thầy cả đặng sức
hiệu nghiệm phi thường. Những ơn lành Chúa tuôn xuống hằng hà trong Hội thánh,
cũng nhờ lời thầy cả cầu nguyện, Xem ra như Đ C T chẳng từ rảy đặng lời thầy
cả, vì lời thầy cả cầu nguyện chẳng phải là lời riêng một người thường, song là
lời chung nhơn danh Hội thánh, nhơn danh các kẻ lành là phần thân thể xác mầu
nhiệm Chúa Kirixitô.
Nói tắt một lời, bỡi quyền chánh tế, thì thầy cả nên một cùng Đ C
G, thì lẽ nào Đ C Cha từ rảy lời Kirixitô Chúa? Bỡi có một chánh tế là Chúa
Kirixitô: “Unus Dei et hominum mediator” thì lời thầy cả là
lời Chúa Kirixitô, là đấng hằng sống mà cầu bàu cho ta: “Semper vivens ad
interpellandum pro nobis”, cho nên chẳng có lẽ nào Chúa chẳng nhậm lời, mà
tuôn mọi ơn mọi phước cho thiên hạ.
Nhơn vì lẽ ấy, biết là bao nhiêu ơn lạ lùng Chúa xuống, vì lời
thầy cả cầu nguyện, Có kẻ đắm sa đàng tội lỗi, hư hốt đến đỗi ta tưởng hết
phương hối cải, mà thoát chút đặng ơn ăn năn trở lại, và bền đỗ trong đàng lành
cho đến chết. Có kẻ hằng làm nghịch cùng đạo thánh, mất đức tin, đến đỗi lấy sự
gian tà làm vinh hiển, bỗng đâu cải dữ về lành, cùng dõi noi đàng phước đức cho
đến trọn đời..
Những ơn lạ lùng thể ấy là bỡi đâu? Thật đó là sự kín nhiệm, con
mắt thế gian không thấy đặng, Song hàng đạc đức Chúa đã chọn, hầu tỏ ra những
đều kín nhiệm về nước Đ C T, thì dễ hiểu nguồn cơn. Bỡi kẻ chăn thấy đoàn chiên
phải miệng muông sói, thấy linh hồn Chúa đã kí thác cho mình bị xiềng tỏa buộc
cầm, người hiều mưu sức kẻ thù là bao nhiêu, người biết cơn hiểm nguy khúc ngặt
là dường nào người rõ nhơn lực và phương cứu chữa, nên vào cung thánh, sấp mình
trước bàn thờ Chúa mà than van kêu khóc: Inter vestibulum et altare
plorabunt sacerdotes, dicentes: Parce Domine! Parce! Lạy Chúa, nầy
linh hồn Chúa đã tìm kiếm rất trọng công linh, xin đừng uổng phí! Nầy là giá
máu thánh Chúa, xin Chúa chớ để hư mất đời đời! Xin Chúa nhớ lòng lân mẫn Chúa,
là lân mẫn vô cùng vô tận! Chúa liền nhậm lời thầy cả kêu van, mà ban ơn thống
hối. Đó là nguồn cơn nhưng ơn lạ lùng mắt ta thường thấy.
Ta nhớ truyện một thầy cả trong sấm Truyền: Anania biết Phaolồ lên
ngựa thẳng tới Đamascô mà bắt bớ giáo hữu, người liền vào phòng vắng vẻ mà khóc
lóc kêu xin Chúa mở lòng lân mẫn, đón đàng Đamascô, xô Phaolồ ngã xuống, làm
cho kẻ bắt đạo trở nên đấng giảng rao đạo thánh ở “Vas electionis”, làm
cho lupus rapax trở nên Apostolus et doctor gentium!
Kìa Hêbêrêu ô đô phản tặc, Chúa toan tiêu diệt hết, cho đặng tẩy
trừ tội lỗi. Song Moisen và Aaron là thầy cả cứ cầu khẩn kêu van, mà ngăn cơn
thịnh nộ. Có lần Chúa năn nỉ, xin đừng cầu cho lũ ngỗ nghịch ô đô, để Chúa tra
tay giáng phạt. Song hai ông ấy cứ một mực kêu nài, nên Chúa phải mở lòng nhơn
từ tha thứ, thiệt Chúa chẳng từ rảy đặng lời thầy cả Chúa,
Vậy ta hãy dùng phương linh nghiệm ấy, mà ngăn đón cơn thạnh nộ Đ
C T, hãy nương thế sứ thần Chúa ban mà bàu chữa đoàn chiên Chúa, cùng giúp đỡ
Hội thánh trong mọi cơn gian nan khốn khó đời tạm nầy.
Ấy là những ơn lạ lùng, Chúa nhậm lời thầy cả cầu nguyện mà ban
cho Hội thánh, còn biết bao nhiêu ơn bỡi quyền chánh tế mà tuôn xuống cho cả và
thiên hạ,
II
Hàng linh mục là đấng tế lễ. Trong đạo cũ xưa, mỗi
ngày thầy cả dưng bánh cùng hi sinh, mà tế lễ và cầu chúc phước lành cho dân
Chúa. Hằng năm thầy cả thượng phẩm đem máu chiên bò vào nơi cực thánh, mà khẩn
xin Chúa khấng xá tội lỗi dân tình.
Song lời giao kết cũ đã măn, Đ C T chẳng còn nhậm lễ hi sinh cầm
thú, một đòi của lễ thanh tịnh tiến hiến mọi nơi mọi giờ. “Ab ortu solis
usque ad occasum, in omni loco sacrificatur nomini meo oblatio munda”
(Malach. 1, 11).
Lễ châu báu vô giá ấy rất đẹp lòng Đ C Cha, đã tế trên núi
Calavariô rồi. Song công linh cứu chuộc và ơn thánh để giúp rỗi, còn phải có phương
mà chân lưu tới mỗi một linh hồn cho đến rốt đời. Vì vậy Đ C G đã lập lễ Misa
cùng truyền chức thầy cả, hầu tiếp lễ Chúa dưng mình xưa, cho đến tận thế, lễ
trên bàn thờ nay và lễ trên Calavariô xưa cũng là một lễ: Una eademque
hostia; đấng chánh tế cũng là một đấng: dem offerens.
Hàng linh mục, bỡi quyền chánh tế, nên một cùng Đ C G, mỗi ngày
người cũng vào nơi cung thánh, song chẳng phải lấy máu chiên bò, một cầm máu
cao dương thiên Chúa, mà tế lễ cùng cầu khẩn khấn thay mặt Đ C G.
Biết bao nhiêu ơn thánh, Đ C G xuống nơi tay thầy cả, mà thông lưu
cho cả và thiên hạ, khi người đứng trên bàn thờ mà dưng lễ Misa. Cả và trời
đất, cả và Hội thánh, cả nước thiên đàng, cả nơi luyện tội đều nhờ ơn thầy cả
dưng lễ Misa, theo lời sách Gương Phước rằng: Quando Sacerdos celebrat,
Deum honorat, angelos lotificat, Ecclesiam ædificat, vivos adjuvat, defunctis
requiem prostat. (Lil. IV, C. V, n° 3).
Vì vậy khi thầy cả tế lễ trên bàn thờ, thì làm cho trên trời dưới
đất cùng luyện tội vui mừng. Trên trời vui mừng, Deum honorat, angelos
latificat, vì lễ Misa thờ phượng Đ C T, cám tạ và phạt tạ Đ C T một cách
xứng đáng vô cùng, Cho nên nếu chẳng có thầy cả, nếu không có lễ Misa, thì Đ C
T mất phần vinh hiển dường như vô cùng. Lại thần thánh mất phần khoái lạc thanh
nhân, vì sự vui mừng các thánh thiên thần là nhìn xem chầu chực Đ C G: “in
quem desiderant angeli prospicere”. Ông thánh Gioan kim khẩu nói: Khi thầy cả
làm lễ, thì các thánh thiên thần vui mừng chầu chực xung quanh bàn thờ, mà hát
mừng thờ lạy. và cảm tạ kính mến Đ C G ẩn tính oai linh trong phép nhiệm mầu
dường ấy,
Luyện tội vui mừng: defunctis requiem præstat, vì
lễ Misa cứu các đấng khỏi nơi khốn khó, hoặc giảm bớt phần phạt nặng nề các
đấng phải chịu. Trong các phương giúp các đấng, chẳng có phương nào thần hiệu
bằng lễ Misa. Cho nên các đấng yêu chuộng 1ễ Misa hết lòng hết sức, và khao
khát chực giờ thầy cả làm lễ, cho mình đặng nhẹ phần đền tội. Nếu chẳng có thầy
cả, nếu không có lễ Misa thì các đấng buồn rầu than khóc, càng lấy làm vô phước
khốn cực là dường nào !
Dưới đất vui mừng: Ecclesiam ædificat, visos ladjuvat.
Hội thánh và kẻ còn đang hỗn chiến vui mừng, vì lễ Misa là kho tàng tích trữ
mọi ơn mọi phước. Hội thánh nhờ có thầy cả mới có Mình Thánh Chúa, mới đặng Bạn
chí thánh ở cùng mình cho đến tận thế. Nhờ có thầy cả mới có juge
sacrificium, cho đặng xin Đ C T ban ơn tha phạt cho con cái Hội thánh. Ông
thánh Léonard hỏi rằng: Bỡi đâu đời nay Đ C T chẳng làm lụt đại hồng thủy, mà
hủy hoại thế gian như đời ông Noe? Tại đâu Chúa chẳng cho lửa trên trời xuống
đốt nhiều xứ nhiều thành như đời ông Loth sao? Có phải vì nay kém tội hơn xưa
sao? Có phải đời ta ít trêu chọc cơn giận Đ C T hơn đời ông Noe cùng đời ông
Loth sao? Ông thánh Léonard trả lời rằng: Thế gian này còn đứng vững đến rày,
là nhờ có lễ Misa. Giá như chẳng có thầy cả hàng ngày dưng lễ giao hòa, ắt thế
gian đã phải tiêu tan.
Ông Albuquerque vượt biển, trong cơn bị bão tố dữ dằn gần chìm tàu
ông ấy chết điến, ông bồng một đứa nhỏ dưng lên, xin Chúa vì lòng tinh sạch trẻ
nầy, mà cứu tàu khỏi cơn đắm đuối. Chúa bèn nhậm lời. Tàu Hội thánh vượt biển
hiểm thế nầy, biết mấy trận phong ba bão bùng! Nhờ thầy cả dâng lễ thanh sạch
vô cùng mà ngăn đón cơn thanh nộ Đ C T cùng xin Chúa duông thứ tội lỗi muôn
dân!
Bây giờ ta hãy gẫm thầy cả giúp việc Đ C T càng làm cho thế gian
dường nào hơn nữa.
III
Hàng linh mục là kẻ giúp việc Đ C T: Dei adjutore sumui.
Chính mình Đ C T đã chọn thầy cả cùng phú cho người phần rỗi muôn dân. Khi tạo
thiên lập địa thì một mình Đ C T thuyết lập cơ đồ: In opere creationis
non habuit qui adjuvaret: song trong việc phần rỗi loài người, thì Chúa
định phải có hàng đạc đức giúp lo: In mysterio redemptionis voluit
habere adjutores.
Chúa đã chọn thầy cả; “Ego elegi vos”: cho nên thầy cả cùng
mọi sự của thầy cả: năm tháng ngày giờ, tài năng sức lực, và hồn và xác, thầy
là của Chúa, và Chúa buộc thầy cả phải thi hành việc Chúa ký thác, cho đặng
sinh bông trái thiên liêng trong Hội thánh: “ut fructum afferatis.”
Việc Chúa kí thác cho thầy cả, là lập nước Đ C T trên cả và mặt
đất nầy, là chiếm cứ khôi phục các nước thế gian, về đầu một Chúa, hầu nên một
ràn cùng một kẻ chăn: “Uaws pastor, unum obile!” Sang mộ binh ở
đâu? Dùng khí giái nào, mà làm việc cả thể dường ấy? “Euntes docete omnes
gentes prædicate Evangelium.”
Ớ cha rất yêu dấu, ấy là lời phép tắc thần hiệu vô biên. Song thế
gian kể là lời phi lý. Alexandrô cả, xưa đi đánh nam dẹp bắc, tóm thâu nhiều
nước, khi gần chết thì vời chư tướng thao lược, mà chỉ họa đồ các nước thế
gian, đông tây nam bắc, đoạn nói cùng chư tướng rằng: Digniori hoc
omnia! Ai tài cán hơn thì soán hết đặng! Đó thật là lời khí khái cang
cường!.
Còn quan tướng cả của ta, mới chịu đóng đinh, chịu chết cách rất ô
nhục trên cây hình khổ, chưa đặng mấy ngày Người hội đoàn đệ tử tại Galilêa: “pusillus
grex!” nội vụ 12 tên nhơn nghĩa. Đoạn chỉ quấc phú dân cường bốn phương thế
giái, nào Antiochia, Roma nào Corintho, Athena, “usque ad ultimum terræ,” mà
rằng: Đó là nước Tao cả thảy, mười hai đệ tử lo mà khôi phục.
Dùng khí giái nào mà giao công: Binh cơ trận đồ làm thế nào? Không
phải dùng gươm dao súng ống, 12 người đệ tử chỉ biết cầm chèo bủa lưới mà thôi
. Lấy vàng bạc ngọc ngà đâu mà chọc lòng thiên hạ? không dùng vàng bạc. Mười
hai đệ tử bần cùng tiện hạ, Vậy làm thể nào? “Euntes docete omnes gentes,
prædicate omni creature.”
Sao đặng: Đang đời văn minh lịch lãm, hiền tài quân tử: ariopage,
académie. Phải chi đang giờ thầy cùng đệ tử bàn soạn cơ đồ chiếm cứ thế gian,
mà dùng khí giái như vậy, giả như có người khôn ngoan thao lược đi ngang qua và
nghiêng tai vào nghe được công việc như thế, ắt phải la lên rằng: kia lũ cuồn
tâm; tính điên nói sảng!
Song, ớ các cha rất yêu dấu, không điên cũng không sảng đâu! Eunte
docete là lời phép tắc vô cùng: Mười hai người hèn hạ, dốt nát, bần
cùng, cô thế, phân nhau đi khắp tứ phương, cứ lời thầy dạy, dùng một khí giái
thầy chỉ mà tóm thâu các nước thế gian. Không lịch lãm văn nho, không khoa ngôn
lợi khẩu, mà bất kị, bất cầu (không sợ ai, không cầu ai ), vào synagogues không
ngại, đứng giữa arbopge chẳng ghê, chẳng bao lâu, nào Athêna, nào Rôma cùng các
nước rắc rắc hàng đầu!
Tại sao thể ấy tại tiếng thầy cả giảng là tiếng Đ C T, mà tiếng Đ
C T là tiếng phép tắc, phán một lời liền có: Digit et facta sunt. Tiếng
Đ C T là tiếng làm cho trời đất rúng động, làm cho lim sến Libano gãy nát tan
tành: “Vox Domini confringentis cedros Libani,”
Từ ngày ấy các thầy cả tiếp việc Chúa truyền, vưng lời Chúa
dạy: Praedicate. Biết là bao nhiêu đất đai đã chiếm cứ! Kia một
Phanxicô Xavie, nội 10 năm, chính tay người hủy hơn bốn muôn ngàn tượng bụt!
chính tay người rửa tội hơn một triệu hai vẹo đạo mới, anh hùng thao lược nào
dám ví! Còn biết bao nhiêu sự lạ lùng thể ấy bỡi hàng chánh tế: Những Bênađô,
những Vincente, những Vianney, cùng nhiều anh hùng giúp việc Chúa tận tâm tận
lực mà làm sáng dạng Chúa, cùng cứu linh hồn, và sẻ có như vậy cho đến tận thế!
Biết bao nhiêu người nằm nơi tử vức, nhờ lời thầy cả mà nhìn nẻo
quang minh!. Biết bao nhiêu kẻ xiêu hư, nhờ lời linh mục mà trở về
chánh lộ! Cho đến kẻ nghịch danh thánh Chúa, nhờ lời đạo đức mà trở lại làm
tông đồ! Còn người tội lỗi mà cải tà qui chánh, số là bao nhiêu? Một mình Chúa
thông hay vạn sự, một mình Người biết đặng số ấy.
Không giờ mà nói về các phép bí tích, là mạch mọi ơn phước, một
tay thầy cả cầm quờn đóng mở mà tuôn xuống cho thiên hạ. Ôi ôi! trí nào hiểu
đặng, lời nào kể xiết, mọi ơn mọi phước Chúa dùng tay Thầy cả mà ban phát trong
cả và trời đất! Ông thánh Vianney nói rằng: Chừng lên nước thiên đàng, mới hiểu
đặng các ơn lành Chúa ban nơi tay thầy cả.
Đó là lời chơn thật, xưa Chúa sai thánh tiên tri dỗ dân Isarae trở
lại cùng Chúa, mà rằng: Bay hãy hồi tâm tủy lại, bỏ bụt thần dối trá mà trở lại
cùng Tao, Tao hứa ban cho bay một ơn cả thể. Ơn nào? Cho Isarae chiếm cứ các
nước thế gian? không. Cho nó hủy diệt kẻ thù khắp xứ? cũng không. Cho nó khỏi
tai ách oan ương? chưa phải. Cho nó đất đai chảy ra những mật cùng sữa? cũng
chưa nhằm. Bấy nhiêu ơn ấy Chúa đã hứa rồi, mà dễ chẳng đặng lòng dân bội
nghịch ấy. Chúa hứa ơn khác trọng hơn muôn phần, là ban đấng chăn giữ nó theo
lòng Chúa muốn: Convertimini, filii, revertentes dabo vobis pastores
juxta cor meum, et pascent vos scientia et doctrina. (Jer. 3, 14, 15).
Conclusion. - Kính các cha rất yêu dấu, ở anh em, ấy là lẽ đức tin
cùng lời kinh thánh ta mới gẫm cùng nhau ngày lễ trọng nầy. Hàng linh mục là
khâm sứ là chánh tế, cùng là kẻ giúp việc Chúa, hầu lo phần rỗi loài người. Đó
là của trọng vô giá Chúa ban cho thế gian, ta hãy hết lòng cám tạ Chúa rộng rãi
vô cùng: “Gratias Deo super inenarrabili dono ejus.” Xin Chúa mở lượng
nhơn từ, mà gìn giữ hàng đạc đức, cùng thêm số kẻ lãnh việc tông đồ, cho nước
Chúa càng ngày càng thạnh, cho giáo nhơn một ngày một tăng, cho người ngoại
giáo đặng nhìn một Chúa, hầu nên một ràn cùng một kẻ chăn như lời Chúa sở
nguyện ao ước.
Compliment. - Ớ hai cha rất dấu yêu và rất đáng kính, đó là công
việc quyền chánh tế hai cha đã làm trọn 50 năm. Nay trước bàn thờ nầy hai cha
dừng bước lại, mà nhìn dấu cũ năm xưa, chỗ hai cha đã khai đường mở ngỏ, gầy
việc thánh trường, chỗ hai cha đã thề nguyền trinh khiết trọn đời, chỗ hai cha
đã bước vào lần thứ nhứt mà rằng: Tôi sẽ vào bàn thờ Chúa là Đấng làm cho tuổi
trẻ tôi vui mừng: “ Introibo ad altare Dei, ad Deum qui lotificat
juventutem meam” Tự nhiên tâm tình thấy đặng vô số công việc đã qua:
Biết bao nhiêu linh hồn cha đã đem về cùng Chúa! Biết bao nhiêu người yếu đuối
nhờ lời cha mà được đầy tràn công! Biết mấy người dốt nát nhờ lời cha dạy răn
an ủi! Biết bao nhiêu linh hồn cha đã dắc đi đàng nhơn đức trọn lành! Bao nhiêu
kẻ tai nạn cha đã cứu chữa, bao nhiêu con thiêng liêng cha đã sinh trong phép
rửa tội, mấy linh hồn cha đã giải hòa với Chúa, cùng đưa đến tòa phán xét, đầy
lòng cậy trông phần rỗi! Mấy ngàn lần máu thánh Chúa đã qua tay cha mà tư nhuận
vườn nho Chúa, cùng cứu các đấng nơi lửa luyện tội!
Phần cha Anrê, 18 năm công lao khó nhọc, tại trường Cái-nhum và
trong trường nầy, trau giồi ngọc ngà cung thánh, mà làm nên thầy cả Đ C T. Kìa
nay con cái cha, hai ba mươi thầy cả vây quanh cha mà kì khương chúc thọ! Triều
thiên nào dám ví cùng triều thiên báu trọng nầy: “Filii tui sicut no pella
olioacumin circuitu mens tuc! Còn công trình lao khó biết bao nhiên trong
các họ cha đã xem sóc: Búng, Chợ-quán, Lương-hòa, Thủ-ngữ! Thủ Ngữ, cha đã ở 27
năm: sáng tạo thánh đường, lập trường nam nữ, cùng nhiều việc khác, sinh nhiều
thánh giá nặng nề!
Phần cha Phêrô, công lao cực khổ, dầm sương dãi nắng, chèo xuôi
chống ngược 50 năm trời! mồ hôi rưới khắp Tha-la, Mĩ-hội. nhứt là nội sở
Nha-ràm cha đã ở 45 năm! Các sông, các rạch miền Phước-lộc thường thấy cha đi
đi lại lại Nha-ràm, Vạn-phước, Cần-giuộc, Mĩ-điền, Long-kim, Bà-đắt, Tân-mĩ,
Rạch-chanh. Thiệt là chịu “pondus diei et aestus!”
Công nghiệp hai cha kể sao cho xiết. Nhưng vậy lòng khiêm nhượng
hai cha muốn che lấp các đều ấy, và ái ngại trong lòng rằng: Anni de
quibus dicas : non mibi placent. Ecele. 12, 1. 50 năm ấy thế nào? rất
đỗi thổn thức nương long! 50 năm! Biết là bao nhiêu ơn Chúa xuống trong linh
hồn! 50 năm! Biết là mấy phép bí tích đã ban! 50 năm! gánh vác phần rỗi linh
hồn thiên hạ! 50 năm! trong xác phàm yếu đuối! Anni de quibus disas:
Non mihi placent.
Ớ hai cha rất yêu dấu, Chúa nhơn lành rõ thấu mọi công trình khó
nhọc hai cha. Hãy vui mừng cám tạ: “Gratias ago Deo, cui serpio a
progenitorious meis.” Tôi đã làm tôi Chúa từ đời tiên nhơn. Thật từ tiên nhơn:
Á thánh Lộc, Á thánh Quí, là chú ruột hai cha. Hai đấng ấy ngày nay trên trời
ngó xuống hai cha, rất đỗi vui mừng cám tạ, và cầu giúp hai cha. Cha hãy vui
mừng mà đến cùng Chúa là Đấng đã làm cho tuổi trẻ cha vui mừng tại nhà thánh
nầy. Xin hai cha cầu nguyện cho đấng tạo lập nhà nầy, là cha Bề Trên Vị, cùng
các đấng đã có công vun quén nền nhơn cội đức mà lập hàng đạc đức Nam Kỳ. Sau
hết xin cha cầu nguyện cho chúng tôi hết thảy hiệp đây mà mừng chánh tế ngũ
tuần hai cha.
Chúng tôi hết lòng nguyện xin Chúa gìn giữ hai cha “adhuc
multiplicabuntur in senecta uberi.” (Ps. 91, 15 ), cùng chúc cho hai cha
đầy ngày đầy công, đầy đức ở đời nầy, và đời sau đặng thấy mặt Chúa thanh nhàn
muôn kiếp: “Longitudine dierum replebo eum, et ostendam illi salutare meum”
(Ps. 90, 16 ) Amen.
Bàrịa le 7 Juillet 1925
J. B. Tong.
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1925
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét