ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2022

Cha Emile Moreau (Đức)

CHA EMILE MOREAU

LINH MỤC DÒNG SAI ĐỊA PHẬN NAM KỲ.

---------------------

Sinh ra ngày 13 Juin 1844.

Qua Nam Việt 6 Août 1869.

Qua đời ngày 6 Mai 1912.

---------------------

Cha Emile Moreau (Đức)

EMILE MOREAU sinh ngày 13 tháng Juin, năm Chúa giáng sanh 1844, tại Andrezé, là họ nhỏ về Địa phận Angers, trong nước Langsa. Cha mẹ người đạo đức sốt sắng, cho nên con sổ lòng đầu hôm, thì sáng ngày vội vàng đem đi chịu phép rửa tội.

Khi Emile khôn lớn, thì đi học tiếng Latinh tại trường Combrée, cách xa quê quán chừng 80 dặm đàng. Ở đó người gặp một Thầy cả rất khôn ngoan nhơn đức, tên là Piou, cũng một quê quán cùng người. Thầy cả nầy thấy trò nào có lòng ái mộ việc rỗi linh hồn thiên hạ, cùng ham chịu cực chịu khó vì Chúa, thì người ân cần dạy răn an ủi, cho những trẻ ấy theo ơn Chúa gọi, mà đi giảng đạo bên rốt cõi Đông Dương.

Emile, thuở học trong trường, ăn ở thể nào, thì sau nầy đâu đâu cũng ăn ở thể ấy. Tánh nết người ít oi thật thà, đằm thắm dè dặt, cần kiệm siêng năng, phần xác thì ăn mặc đơn sơ, sức lực mạnh mẽ; phần trí thì có tài xét suy nhằm lý, trí sáng, học giỏi, cùng kể đặng là một đấng thông minh.

Chẳng khỏi bao lâu, cha Piou thấy Emile, tuy bề ngoài không bặt thiệp lịch lãm bao nhiêu, song có đủ đều, cho đặng làm thầy cả cùng đi giảng đạo phương xa, thì cha ấy tỏ thật cho người toan liệu. Emile suy nghĩ ít lâu, cho biết thánh ý Đ C T, cùng cứ việc học hành cho đủ văn chương cách vật, đoạn xin phép vào trường Dòng Sai tại kinh thành Paris.

Emile học tại Paris ba năm, đoạn chịu chức thầy cả, rồi giã từ cha mẹ quê hương, mà trẩy sang Nam Việt cho đến chết. Ấy là của lễ rất trọng vọng châu báu trước mặt Đ C T. Mà Đ C T cũng hứa trả bằng trăm, cùng ban phần phước đời đời cho kẻ tế lễ mình mạnh mẽ dường ấy: “Omnis qui reliquerit domum, aut fratres, aut sorores, aut patrem, aut matrem..., propter nomen meum, centuplum accipiet, et vitam æternam possidebit” (Matt. 19, 29).

Cha Moreau tới Saigon ngày mồng 6 Août 1869, Đức Cha Miche bèn sai người đi Thủ Dầu Một, cho đặng học tiếng an nam, Khỏi ít tháng, Đức Cha lại dạy người đi nhậm sở Chà Và, Cầu Ngang và Cái Đôi, thuở ấy kêu là Rạch Rập, Thâu RâuLáng Sác.

Người về Chà Và ít lâu, kế cha Leprince cũng đổi xuống coi họ Giồng Rùm gần đó. Hai Cha đã qua Nam Kỳ một lượt với nhau, hai cha đã thiết nghĩa cùng nhau cho đến trọn đời. Hai cha giống nhau hai đều lắm lắm: một là ăn ở tiết kiệm khó khăn, trong nhà không biết sửa soạn trần thiết là cái gì; hai là ham học, ham xem kinh sử nói không cùng, năm nọ tháng kia đọc mãi, chẳng khi nhàm. Tại cách ăn ở bề ngoài đơn sơ nghèo khó, còn trí hóa thì mê việc học hành, nên quen gọi hai cha ấy là hai ông Quân tử.

Cha Moreau ở Chà Và được vài năm, đang sốt sắng lo cho danh Cha cả sáng, đang ái mộ việc rỗi linh hồn thiên hạ, bỗng đâu có giặc nổi lên, hăm đốt nhà thờ cùng giết bổn đạo, vì nói tại bổn đạo đem Langsa qua lấy Nam Kỳ.

Lúc ấy là đầu năm 1872. Khi giặc mới dấy, thì tưởng là giặc chòm, khuấy phá sơ qua. Ai dè quân ngụy đã âm mưu tập lập lâu ngày, quyết dấy lên một lượt trong ba hạt: Bến Tre, Vĩnh Long và Trà Vinh.

Mà hẳn thật nó đi làm như mưu mô đã lập: nó giết ba bốn người có đạo tại Cái Tắt (Cái Mơng), đốt nhiều nhà thờ trong ba hạt mới kể trước nầy, chém quan tham biện Vĩnh Long cùng một thông ngôn và chín tên lính an nam theo tham biện, phía dưới Vũng Liêm. Cha Abonnel, là anh ruột cha Abonnel ở Gò Công bây giờ, bị giặc giết cùng một người có đạo, trong kinh mới, gọi là kinh Luro, về hạt Trà Vinh.

Cùng một khi ấy Đề Triệu, là tướng giặc, đem binh đốt nhà thờ Cầu Ngang, và tính kéo lên phá họ Chà Và.

Cha Moreau thấy con chiên mình cheo leo lắm, bèn đem bổn đạo lên Giồng Rùm, hiệp cùng cha Leprince cho đặng mạnh thế, cho gần Trà Vinh, mà xin quan trên cho binh tiếp cứu. Rủi, ngày ấy binh mắc đi dẹp giặc bên phía Ất Ếch. Nên quan trả lời xin hai cha toan liệu thể nào mặc ý, vì quan quân không có mà tiếp cứu.

Khi ấy giặc đóng tại Cầu Ngang, trống giống om trời, tiếng reo dậy xứ; thiên hạ nhổm chơn. Hai cha thấy việc hiểm nguy, phải liều mình vì đoàn chiên, bèn tuyển những người tráng lực trong hai họ, mà lập nên một đạo binh ứng ngãi.

Đoạn sắp binh ra trận. Hai cha cầm súng đi trước, kế một khẩu súng đồng tiếp theo. Binh kéo băng ngang qua đồng. Tới đầu làng Mĩ Cẩm, cách binh giặc chừng ít ngàn thước, cha đặt ống dòm, thấy bên giặc đang chạy lăng xăng. Ấy là dân chạy thám. Cha bèn dạy bắn một phát súng đồng, tức thì thấy giặc đổ xuống phía Thâu Râu. Hai cha kéo thẳng xuống, khỏi xóm Bùng Binh, bắn một phát súng đồng nữa. Bên giặc thấy có hai ông Tây, và súng ống binh lính hẳn hòi, bèn chạy tuốt qua phía biển.

Binh có đạo đắc thế, đuổi theo, bắt đặng 17 tên ngụy, dẫn về Giồng Rùm. Bữa sau trên Trà Vinh quan đem binh xuống dẹp giặc, thì bổn đạo nạp 17 tên ngụy đã bắt đặng ngày trước cho quan trị tội.

Giặc yên rồi, cha Moreau đem bổn đạo về Chà Và. Cha cùng con, cữa nhà tan hoang, đồ đạc mất hết. Cha con hui hút với nhau chẳng đặng bao lâu, kế bị một trận bão, cũng nội năm 1872 ấy: nhà thờ, nhà cha sập ráo. Ngày ấy có cha Leprince xuống thăm, không chỗ ở, còn có một vựa lúa khỏi sập, nên hai cha vào đụt đó ba bốn ngày.

Bão rồi, cha cất nhà thờ lại. Đoạn đấp một lộ thẳng ra rạch, và khai một kinh cũng ra rạch ấy. Đó là kinh Chà Và bây giờ; người ta kêu là kinh nhà thờ, hay là kinh cha Đức (là tên an nam cha Moreau). Bổn đạo nhờ kinh ấy lắm: lòi lúa gạo, chuyên chở vật chi cùng tiện bề thông lợi..

Qua năm 1873 người phát bệnh nặng, phải lên Bãi Xan, ở. nhà cha Thinselin mà uống thuốc. Ở đó ít lâu không khá, người bèn qua Mỹ Tho, ở nhà cha Moulins. Khi vừa mạnh, thì lật đật trở về Chà Và, mà coi sóc đoàn chiên Chúa.

Thuở ấy một mình cha Moreau coi từ Chà Và, Cầu Ngang cho tới Láng Sắc. Việc đi họ là việc rất cam go, vì đàng sá chưa có. Đàng bộ, thì đi theo bờ ruộng, lội bàu lội bưng; phần thì đế sậy lợp khỏi đầu, phải vạch mà đi; phần thì đĩa, vắt, cực khổ trăm bề.

Còn đàng ghe cho tới Láng Sắc, là hai ba ngày đàng: mưa nắng, muỗi mòng, bực bội, khó đi lắm. Nhưng vậy người hằng hớn hở liều mình, mà lo việc rỗi linh hồn giáo hữu.

Người có lòng thương bổn đạo lắm, nhứt là chầu nhưng, đạo mới cùng con nhà nghèo. Người hay cho của ăn đồ mặc, tiền bạc, thuốc men. Khi thì trả nợ giùm, khi lại giúp chầu nhưng lập nghiệp. Gần nhà thờ, có một nhà nghèo cực lắm, hai vợ chồng với một đứa con. Người chồng hay đi câu nhắp. Bổn tánh cha làm lành, thì hay giấu, giữ lời Đ C G dạy rằng: Hễ tay mặt làm phước, thì đừng cho tay trái hay: “Nesciat sinistra tua quid faciat dextera tua”( Matt. 6,3). Vậy mỗi tuần cha mỗi đi dạo theo bờ ruộng, kiếm người ấy, mà cho một hai đồng bạc, biểu mua gạo mà nuôi vợ nuôi con.

Chà Và, Cầu Ngang, Cái Đôi, nhiều kẻ mang ơn người, hãy còn sống bây giờ. Khi người đổi đi rồi, thì mới hay bạc người giúp kẻ khó cũng hết đôi ba trăm.

Họ Chà Và được cha Moreau làm cha sở thứ nhứt, ở tại họ mình đầu hết; cha Moreau cũng được bổn đạo Chà Và làm con đầu lòng, khi mới qua giảng đạo. Người ta nói thương thuở ban đầu, là thương keo sơn bền chặt lắm. Sau nầy, mỗi khi nói đến Chà Và, Cầu Ngang, Cái Đôi, thì người tỏ hình và vui, và thương, và nhớ, mà nhắc mấy tên xưa rằng: Rạch Rập, Thâu Râu, Láng Sắc!

Cha Moreau ở Chà Và được 4 năm, kế Đức Cha Colombert đổi người lên Thủ Ngữ, lối đầu năm 1874. Sở Thủ Ngữ hết thảy là ba họ: Thủ Ngữ, Tân Xuân và Gò công. Người coi họ Gò Công được 10 năm, từ năm 1874 tới năm 1884.

Thuở ấy đất Thủ Ngữ cũng còn hoang vu lũ loạn lắm, chưa thành khoảnh như bây giờ. Bổn đạo Thủ Ngữ và Tân Xuân, hết thảy chừng bảy tám trăm. Mấy năm cha Moreau nhậm đó, thì thêm chừng một hai trăm, trồi sụt từ 900 tới 950.

Thủ Ngữ và Tân Xuân là hai họ liền ranh với nhau, mà là hai họ khác nhau, mỗi họ mỗi có nhà thờ. Người tính nhập lại họ làm một, hầu nên một ràn, cho dễ bề chăn giữ đoàn chiên, cùng sum vầy ấm cúng trong việc thờ phượng Đ C T.

Vậy năm 1878, người mua được một miếng đất gần mé rạch Kỳ Hôn, là nơi cân đường ở giữa hai họ, thì người đã đem nhà thờ về chỗ ấy. Từ đó, Thủ Ngữ và Tân Xuân trở nên một họ, kêu chung là họ Thủ Ngữ.

Chỗ nhà thờ mới nầy, phong cảnh vui đẹp hơn chỗ cũ trong Thủ Ngữ bội phần, nhứt là từ khi khai kinh Chợ Gạo, gọi là kinh Duperré, thì đêm ngày tàu bè lớn nhỏ cùng ghe thương hồ ra vô không khi ngớt.

Đoạn người lo đấp một đường từ nhà thờ mới vô tới nhà thờ cũ, là xóm bổn đạo ở đông, cho tắt đường đi nhà thờ, cùng khỏi qua nhiều cầu, khỏi lội nhiều nơi bùn nẩy. Từ ấy đến rày bổn đạo nhờ đường ấy lắm. .

Song cuộc đất vườn, ai ai cũng rõ: biết là bao nhiêu mương, xẻo, rạch, ngòi; cho nên cũng biết là bao nhiêu cầu kì mà kể! Mà thứ cầu đó là một hai cây cau, vài ba cây tre, hay là một cây dừa bắt ngang qua đường nước, rồi không ai lo tới nữa, ai đi được thì đi, ai té thì chịu; có khi lối xóm cũng rút cầu mà dùng việc nhà. Thứ cầu ấy kêu là cầu khỉ; cầu khỉ mà bắt cho người ta đi, mới là ngặt nghèo! Trót mùa mưa, thì bùn lầy trơn trợt; khi nước ròng nước lớn, ngập cầu, trôi cầu, thì rất đỗi éo le, nhứt là khi đã có gương con nít té cầu, mà chết chìm trong mương trong rạch.

Bỡi cớ ấy, nên sinh thiệt hại cho linh hồn giáo hữu nhiều bề. Phận cha sở, một lần đi kẻ liệt, hay là đi viếng họ, là một lần cực khổ, thì chẳng nói chi; mà việc bổn đạo đi đọc kinh xem lễ, nhứt là việc đồng nhi đi học cùng đi nghe dạy Sách Phần, thì rất khó là thể nào! Vì vậy người trễ nải, hoặc ít đến nhà thờ, hoặc không khi nào đến; kẻ tầm thường, thì rán đi xem lễ Chúa nhựt lễ cả, rồi thôi. .

Mấy năm cha Moreau ở Thủ Ngữ, người buồn rầu năn nỉ về đều ấy không biết mấy lần. Người thấy nhiều chỗ lập Hội nầy hội khác, bày việc lành nọ việc phước đức kia, để giúp giáo nhơn tấn tới trong đàng lành, cùng thêm lòng kính mến Chúa, thì người buồn mà than rằng: Trong họ tôi, tôi làm hết sức mà lập hai Hội: một là Hội bổn đạo đi xem lễ ngày Chúa nhựt lễ cả cho đông; hai là Hội đồng nhi đi nghe dạy cho thường..

Mà thiệt, người đã làm hết sức, đến đỗi kêu sổ mỗi ngày Chúa nhựt trong nhà thờ; chẳng những kêu tên đồng nhi nghe dạy Sách Phần, mà có lúc cũng kêu sổ mỗi nhà bổn đạo, cho đặng biết ai đi xem lễ ai không..

Còn một việc cha Moreau hằng lo lắng hết lòng: là cất đền thờ cho xứng đáng cho Đ C T ngự. Nhà thờ mới đem về rạch Kỳ Hôn đã nói trước nầy, là nhà thờ nhỏ, vách ván, ban đầu lợp lá, rồi sau lợp ngói. Song nhà thờ ấy là nhà thờ tạm mà thôi. Người có ý cất nhà thờ lớn đã lâu, đoạn để nhà thờ tạm ấy mà làm trường học.

Song bỡi họ nghèo, vườn đất thì nhiều, mà huê lợi thì không bao nhiêu, cho nên việc cất nhà thờ lớn giãn ra lâu dài dường ấy. Người cần kiệm lắm; ở họ nào, dầu họ ấy mắc nợ bao nhiêu, thì người cũng nhín nhúc mà trả cho hết, rồi lại lo cho có của dư, hầu dễ bề toan liệu trong việc thờ phượng Chúa. Người chẳng chịu xin xỏ của ai.

Vậy người góp nhóp hơn 10 năm, mới có vừa đủ mà gầy việc. Người bèn mua gỗ súc đủ thứ, cùng mướn thợ làm kèo cột, mấy vày nhà thờ sẵn sàng; lại lo xây nền, xong xuôi mọi sự, còn dư đôi ba ngàn đồng, để lo mọi việc cho thành, kế được tin đổi lên Chợ Lớn, chẳng đặng thấy việc mình ước ao sở nguyện bấy lâu.

Cha Moreau ở Thủ Ngữ lâu năm, mà bề ngoài vắng hoe, không tiếng tăm gì, không làm chi cả thể, không ai nói tới. Chẳng qua là vì người yêu ở khiêm nhượng khó khăn, cùng ưa tịch mạc một mình, không cầu ai khen, không sợ ai chê, không trông ai biết tới mình. Người giữ lời ông thánh Phaolồ khuyên bổn đạo xưa tránh cuộc vinh hoa ở đời, mà sống âm thầm khuất tịch cùng Đ C G: “Vita vestra est abscondita cum Christo in Deo” Col. 3,3).

Người cứ việc thương giúp kẻ khó, như khi ở Chà Và. Chẳng ai nghèo cực đói rách chạy đến cùng người, mà về tay không bao giờ. Người ân cần mọi việc bổn phận về đấng chăn chiên lành; đoạn bao nhiêu giờ rảnh thì cứ kinh sử, sách vở, cùng sống kín nhiệm với Đ C T.

Mà sự ở thanh vắng, và sống Kín nhiệm cùng Chúa giúp linh hồn tấn tới trong đàng trọn lành, và lập công nghiệp kể chẳng xiết: In silentio et quiete proficit anima devota (Imit. lib. I, cap. 20). Vì vậy nói được về cha Moreau rằng: Ngày người sống ở đời là ngày đầy dẫy công nghiệp, “El dies pleni invenientur in eis” (Ps. 72, 10).

Từ khi người bước chơn vào đất Nam Kỳ, cho đến ngày người qua đời, là 43 năm, thì chẳng khi nào người ra khỏi đất ấy. Nói được cha Moreau hằng ở nhà, cùng có mặt tại sở mình luôn.

Dầu người đau nhiều phen, nhứt là khi mới về Thủ Ngủ, đau một trận trót ba tháng trường, song người chẳng hề xin đi Hong-Kong, hay là đi nơi nào khác mà nghỉ bao giờ.

Vậy cha Moreau ở họ Thủ Ngữ, như thầy tu ẩn ánh rừng xanh, như chim nọ an thân trong ổ. Ngày qua tháng lại, tính được 21 năm trời; càng ngày càng thêm thương chốn thấp hèn, một lâu một thêm mến nơi sầm uất, lòng mong tưởng ngụ có cho đến mãn đời: “In nidulo meo moriar” ( Job, 29, 18). Hay đâu ý Chúa đã định cho người bỏ nơi tịch mạc, mà về chốn thị thiềng, hầu trau chuốt linh hồn cho trọn bề đức hạnh.

Cuối năm 1895 cha Moreau đổi về Chợ Lớn, lòng ngậm ngùi nhớ tưởng chốn thanh vắng xưa; nhưng vậy người cúi đầu vưng theo ý Chúa, cùng siêng năng sốt sắng, bổn phận trọn niềm..

Cha Moreau là người ngay thẳng, chẳng tày vị ai; bề ngoài chơn chất thật thà, không hay đãi đưa bom phóp, lại coi tuồng lợt lạt khô khan. Cho nên hàng viên quan hào phú có việc tới lui cùng người, mà chưa biết tính người, e khi phiền hà nẵn nỉ; mà khi biết người, thì thương kính yêu vì..

Có nhiều thứ trái, bề ngoài nhám nhúa chông gai, hình thù kịch cỡm, mà bên trong rất ngon ngọt tốt lành. Người đời, ghe kẻ cũng chẳng khác nào: hình duông và cách ăn thói ở bề ngoài, ví dường màn kia thô kệch, ẩn che nhiều nhơn đức trọng tốt bề trong.

Hoa thơm cũng thì hoa thơm, mà thứ thì nở trét giữa trời, kẻ qua người lại hưởng mùi thơm nực; thứ lại một nơi thấp hèn, giấu mình dưới cỏ, làm như thơm cho một mình mình hưởng. Người đời, kẻ thì thông minh cho kẻ khác nặng nhờ; kẻ lại thông thái cho mình mà thôi, chẳng tỏ cho ai, chẳng ham ai biết, hay nghe mà chẳng hay nói, làm như người ít biết ít thông.

Khen thay Đấng Tạo hóa, khéo dựng lòng trí con người cách nầy thế nọ; mà cách thế nào cũng đáng khen đáng ngợi vô cùng: “Mirabilis Deus in sanctis suis” (Ps. 67, 36 ).

Cha Moreau ở Chợ Lớn hơn một năm, rồi đổi di Tân Định, là họ lớn hơn các họ về miệt trên nầy; nhơn số chừng 3000 bổn đạo. Người ở Tân Định hơn 4 năm, vui mừng phỉ dạ, vì gặp nhiều dịp lập công cùng liều mình vì đoàn chiên Chúa: ngồi tòa , giảng dạy, đi kẻ liệt, việc nầy việc khác đáp đổi liền tay. Người phấn chấn làm hết các việc, chẳng tránh trút việc nào. Người quen nói rằng: Dầu một linh hồn mà thôi, thì công việc mình, cũng phải làm, đường bằng làm cho cả và họ. Lớn điền lớn đất, thì lớn việc cày bừa gieo vải; mà việc gặt hái cũng thành, cũng vui. Người nói cùng cha kia rằng: Gánh thiệt là nặng, mà lưng tôi cũng lớn khá, vác nặng còn nổi.

Song cha Moreau tới đâu, cũng tỏ đức yêu người rõ ràng hơn nhiều đức khác. Khi ở Tân Định, thì người có một cha An Nam ở giúp. Người giao hễ mỗi ngày, khi lót lòng rồi, thì hai cha thay phiên mà đi một cha một phía trong họ, cho đặng biết trong giáo hữu có ai đau đớn liệt lào, hay là khó khăn đói rách, hầu giúp đỡ. Khi về thì hiệp nhau, mà thuật lại các truyện mình đã nghe thấy. Bữa kia cha phó nói mình gặp một người đau lâu ngày, bỏ sở mần, cho nên thiếu ăn. Cha Moreau hỏi người ấy ở đường nào, số nào, đoạn lén đi thăm, cùng cho bạc, biểu mua ăn và uống thuốc. Nhiều kẻ đã đặng ơn người thương giúp như vậy, sau nói lại thì mới hay.

Chẳng những người giúp đỡ kẻ khó khăn trong giáo hữu, mà lại cũng tư trợ những cha thốn thiếu. Có một lần, nhằm buổi các cha An Nam cấm phòng, thì người hỏi trong các cha, cha nào thiếu thốn hơn. Cha phó chỉ tên ít cha. Khi ra phòng, thì người giúp mấy cha ấy bộn bạc. Lại cho cha kia 100 đồng. Cha ấy sửng, hỏi bạc gì? Thì cha Moreau nói: là bạc bán chuông, cha lấy mà xài. Người ưa chuộng lắm; khi ở Thủ Ngữ, người xuất tiền riêng của mình, mà mua sáu cái chuông. Sau đó bán lẻ, lấy tiền mà làm phước.

Vậy người ở Tân Định công lao khó nhọc càng nhiều, thì lòng càng thương mến hoàn thiện; mà đoàn chiên lại mến chủ chăn. Cho nên tự nhiên khi phải đổi đi, thì đau lòng xót dạ ai kể cho cùng. Mà cha Morneau thiệt là người khiêm nhượng, nhịn nhục, và vưng lời chịu lụy phi thường. Sau nầy người nói về đức vưng lời một câu rất đáng nhớ rằng: Chẳng có sự gì tốt lành cho bằng vưng lời chịu lụy, Dầu ở đâu mặc lòng, hễ là vưng lời, thì đẹp lòng Chúa cùng bằng an luôn: “Vir obediens loquetur victoriam” (Prov. 21, 28).

Qua năm 1902, cha Moreau về coi nhà thương lính, thường kêu là nhà thương đồn đất, vì thuở cựu trào có một cái đồn, vách đất, ở nơi đây. Sở nầy là sở sau hết, người nhận cho đến khi qua đời, được 10 năm chẵn.

Năm năm đầu thì người ở luôn trong nhà thương, như các cha hồi trước. Năm năm sau thì người ở nhà trường Latinh, vì chẳng đặng phép ở luôn trong nhà thương, cũng chẳng có nhà để cho thầy cả ở trong ấy nữa. Mà khi người ở nhà trường, thì mỗi bữa tối mỗi đi ngủ trong nhà thương, ngủ cực khổ tức tưởi trong phòng đồ lễ, mà người cũng cam lòng chịu cực, ngủ nhờ nơi ấy hơn ba năm, cho đặng gần gũi với kẻ liệt khi đêm hôm gấp rúc. Việc đi nhà thương, thì thường thường người đi bộ. Chừng hai năm sau hết, thì người chẳng còn đi ngủ trong nhà thương nữa, một đi làm lễ ngày Chúa nhựt lễ cả mà thôi, vì người già yếu, khó nỗi đi đi về về một ngày hai ba lần. Lại con mắt muốn lờ, lỗ tai muốn lảng; cho nên đêm kia người bị xe cán tại đường Lagrandière, khi đi nhà thương mà ngủ như mọi lần.

Dầu khi người ở luôn trong nhà thương, dầu khi về ở nhà trường, thì mỗi ngày người mỗi đi viếng kẻ liệt trong các phòng bịnh ở, làm như Đ C G xưa đi rảo các thành... mà chữa các giống bịnh hoạn tật nguyền: “Et circuibat Jesus omnes civitates... curans omnem languorem et omnem infirmitatem” (Matt. 9, 35). Người chẳng đặng phép chữa tật bệnh phần xác như Đ C G, song người hết lòng an ủi giúp đở phần xác, cho đặng cứu chữa linh hồn.

Bổn tánh người nhịn nhục hiền lành lắm. Dầu ai nói, ai làm đều gì sỉ nhục cho mấy, người cũng làm thinh mà chịu; chẳng khi nào theo tính nóng nảy, chẳng hề nói lời gì xẳng xớm với ai. Phương chi cách người ăn ở với kẻ liệt, thì nhịn nhục hiền lành là thế nào hơn nữa! Ghe phen người bị nhiều đều sỉ nhục, mà người cứ một lòng nhịn nhục hiền lành, dùng nhu nhược mà thắng cang cường: “Vince in bomo malum” (Rom. 12, 21 ), cho đặng đem chiên lạc trở về cùng Chúa.

Việc coi nhà thương nầy là việc rất khó, ghe phen cũng là việc rất đắng cay, chẳng gặp sự an ủi như trong các nhà thương khác. Nhưng vậy người cam lòng ngậm cay nuốt đắng, mà trong sự an ủi ngày sau, khi nghe lời Đấng phán xét rằng: “Infirms, et visitastis me”(Matt. 25, 36), Tao liệt lào, bay đã viếng thăm, thì bay hãy vào nước Cha Tao đã sắm sẵn cho bay, mà hưởng phước đời đời: “Possidete paratum vobis regnum à constitutione mundi”(Matt. ibid.).

Cha Moreau coi nhà thương, chẳng những làm lành trong nhà thương, mà lại thi ân nơi khác. Người giúp các cha thốn thiếu, hoặc giúp việc cất nhà thờ, hoặc giúp làm nhà cha sở nơi nọ nơi kia.

Mấy năm ở nhà trường, thì người giúp học trò cũng nhiều, cho học trò sắm áo quần, sách vở, cùng những vật cần dùng. Có một trò kia đau nặng, phải ở nhà thương cho quan thầy điều trị, thì mới trong đặng lành. Mà bỡi cha mẹ nghèo, thì cha Moreau đã chịu tiền nhà thương cho trò ấy là 200 đồng. Nay trò ấy thuyên bịnh, và còn ở nhà trường, là nhờ ơn người thương giúp.

Chẳng những là người làm phước chỗ gần, mà lại cũng phân phát ơn lành nơi xa. Khi người qua đời rồi, thì gặp trong phòng người một tấm hình, họa nhà ở và học trò nhà trường Cuénot, là trường thấy giảng của cha Guerlach, là cố chính Địa phận Bình Định, đã lập trên Mọi. Sau lưng tấm hình có đề chư rằng: Au Révérend Père Moreau, bienfaiteur de l'École Cuénot: Dưng hình nầy cho cha Moreau, là đấng làm ơn lành cho nhà trường Cuénot.

Ba ngày trước khi người qua đời, có một cha đến thăm người, thì gặp trai kia chừng 18, 19 tuổi đang nói chuyện với người. Cha ấy bèn hỏi trai nầy ở đâu và đi việc gì? Người nói nó là một đứa mồ côi, người đã cầm đầu cho nó, đã chịu tiền cho nó ăn học tại Taberd được vài năm, rồi nó bỏ học, cứ ít bữa tới xin như vậy luôn, người đã tốn cho nó quá 500 đồng. Mà con cầm đầu của người như vậy, không phải một đứa ấy mà thôi.

Thôi, kể chi lâu dài, việc phước đức người nói sao cho xiết. Xem ra người biết dùng tiền bạc, mà làm phước mà thôi, chẳng biết dùng mà làm việc gì khác, chẳng hề sắm một vật gì cho đáng.

Chúa thấy công nghiệp phước đức người đã thậm dày, thì Chúa gọi người về mà ban thưởng. Cha Moreau quá lục tuần đã lâu, mà coi còn sõi lắm, tưởng còn sống được nhiều năm. Song cách một năm nay, thì người bớt sức nhiều, hay mệt, hay nhắc giờ chết.

Bịnh thình lình lắm. Trưa ngày thứ bảy, 4 Mai, người còn mạnh khỏe như thường, kế lối 4 giờ chiều có một thêy lên phòng người, thì thấy người nằm trên ghế dài, không còn máy động. Thầy ấy hỏi, người không trả lời, cứng miệng cứng lưỡi, bất toại nửa thân mình, phía tả, từ trên đầu cho tới dưới chơn.

Thầy ấy bèn chạy kêu các cha. Các cha tựu tới giúp đỡ, cùng rước quan thầy Angier. Quan thầy khám bệnh, thì nói người bị hémorragie cérébrale nặng lắm,( bịnh đã làm cho máu tụ lên trên đầu nhiều quá, có khi nứt mạch máu ở trong, mà chết). Quan thầy dạy khiêng người qua nhà thương của mình, sau nhà phước Trắng, cùng hết lòng lo phương cứu chữa, mà không kịp.

Sáng Chúa nhựt, 5 Mai, quan thầy thấy không dấu bớt, thì xin lo cho người được chịu các phép. Người chịu các phép đang khi tỉnh táo lắm. Khi xức dầu, thì người chăm chỉ nghe đọc kinh cùng làm dấu thánh giá đặng, vì bên hữu khỏi bất toại.

Sáng thứ hai, 6 Mai, người hấp hối cho đến gần hai giờ trưa, thì linh hồn lìa xác bằng an trong tay Chúa. Và đau và chết, không đầy hai ngày. Đoạn đem xác người về nhà trường Latinh.

Sáng thứ ba, 7 Mai, sớm mai hát lễ trọng thể, chiều hát kinh cầu cho các đẳng (Vêpes des morts); loạn mai táng tại Chí Hòa, một bên lăng Cha cả.

Đức Cha cùng các cha xung quanh Saigon tề tựu đủ mặt. Thầy dòng, nhà phước cũng đông. Trong giáo hữu, nhiều kẻ quen biết người, cũng đến chầu lễ tống táng, nhứt là bổn đạo Tân Định đông lắm. Quan Nguyên Soái cho quan hầu đến thay mặt, chung tình thương tiếc cùng Hội thánh Nam Kỳ. Hàng viên quan, cai, cùng lính trong nhà thương đồn đất cũng đến, mà đưa người một phen sau hết.

Nhựt trình “Dépêche” kể lược qua cuộc cha Moreau tạ thế, thì rằng: Cha Emile Moreau biệt trần, làm cho những kẻ quen biết người đều thảm sầu thương tiếc. Thuở còn sống, người ăn ở rất tốt lành, làm cho nhiều kẻ yêu vì mến đức.

Cha Moreau hưởng thọ 68 năm, làm thầy cả cùng giảng đạo trong Nam Kỳ 43 năm..

Tánh hạnh cùng nhơn đức cha Moreau tóm lại một đức yêu người: cha ở nhỏ nhoi với hết mọi người, chẳng hề kiểu cách với ai, chẳng giận hờn ai, chẳng hề nói động tới ai. Lại người trải dạ thương giúp kẻ khó khăn cùng người mồ côi cô độc kể chẳng xiết; ắt nay Đ C T cũng mến yêu và ban thưởng cân xứng công nghiệp người, như lời Kinh thánh rằng: Người đã rộng tay phân phát cho kẻ khó khăn thì phước đức người còn bia muôn kiếp, người sẽ đặng cao sang vinh hiển đời đời.

“Dispersit, dedit pauperibus:

justitia ejus manet in sæculum sæculi,

cornu ejus exaltabitur in gloria” (Ps. 111, 9).

J. B. TÒNG.

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1912

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét