TRUYỆN TÍCH CHA JEAN RENIER
---------------------
Cha
Jean Renier sinh ra tại Challains-la-Potherie (Maine et Loire)
ngày
29 Octobre 1853; qua Nam Kỳ 29 Décembre 1881; qua đời tại nhà thương Angier
(Saigon)ngày 24 Avril năm 1922.
Từ hôm cha Renier chết đến
nay đã hơn bảy tháng rồi, khi cha mới chết, tôi muốn ra tay chép hạnh cha tức
thì, song tôi không dám xướng tài, có ý đợi có đấng nào biết rõ hơn mà kể tích
cha, chẳng hay từ đó đến nay thấy một ngày một biệt, nên không lẽ làm thinh mà
để vậy, thì ấm ức cái tấm lòng.
Đã hay rằng: hễ chết rồi
thì mọi sự hết rồi. Song tục thường nói. Hùm thát để da người ta thát để tiếng,
vả lại người lành, kẻ dữ khi chết xuống mồ rồi thì đều để tiếng lại đời, nhắc tới
kẻ lành đặng tặng khen và bắt chước theo gương tốt người lành; nhắc tới kẻ dữ đặng
ngừa tránh những gương xấu kẻ dữ làm.
Cha Jean Renier thật là
người ngay lành, nếu bỏ qua chẳng nhắc tới hạnh của người thì tủi bụng, vì các
nhơn đức cùng những công lao khó nhọc của người đã làm và đã chịu khi còn sống,
thì nên bia tạc cho ai nấy bắt chước, mà nhắc tới thì chạnh lòng vì công nghiệp
của người còn ràng ràng đó, mà người rày đâu?
Tuy vậy mặc dầu tôi rán
viết bài nhỏ mọn nầy, đặng trước là tỏ tình cảm mến cha linh hồn, sau là cho kẻ
mới tới trong họ Mỹ tho đặng tường những công lao khó nhọc của cha, đã làm cho
cả và họ ngày nay được vĩnh viễn.
Cha Jean Renier cao lớn
người, râu dài, trán cao, mũi rộng, môi son, mặt mày sáng láng, bộ đi tướng đứng
coi khoan thai, cách ăn nói lịch lãm, tánh đằm không hay nóng giận, cung kính kẻ
bề trên dịu dàng cùng bạn tác, vui vẻ và hậu đãi người bề dưới. Đã khôn đời lại
ngoan đạo, biết mua lòng người ta. Bỡi vậy nào viên quan Langsa, Annam, nào
làng xóm, nào người ngoại giáo đều thù tạc vãng lai cùng người, bất luận kẻ
sang người hèn, kẻ giầu người nghèo, ai tới viếng người ra về đều an lòng phỉ dạ,
hoặc được lời khuyên giáo, hoặc được an ủi, hoặc được giúp đỡ phần hồn phần
xác. Thiệt cho là người siêng năng: làm lễ rồi thì dạy sách phần, ngồi tòa, đi
vào đầu nầy đầu nọ coi thợ thầy làm, viếng nhà trường nam, trường nữ, nhà
thương trong, nhà thương ngoài, thăm kẻ liệt lào bịnh hoạn trong họ, đi cù lao
Rồng; ít lâu thì đi viếng mấy họ nhỏ xung quanh thuộc về phần sở của mình; rảnh
thì coi sách, nguyện gẫm hay là lần hột, ngày ngày đều như vậy, trừ ra khi đau ốm
thì mới chịu nằm mà thôi..
Cha Renier thuộc về dòng
sai, qua Nam Kỳ hồi năm 1881, khi đó người 25 tuổi. Đức Cha gởi người đi Mặc Bắc
đặng học tiếng Annam, sau bổ người đi coi họ Biên Hòa; lúc đó thì Biên Hòa còn
hoang địa rừng rú hiểm nghèo. Cách ít lâu người đổi về làm cha sở Chợ Đũi. Qua
năm 1899 thì người về Mỹ tho thế cho cha Linh (Moulins) đổi về làm nghị viện
cho Đức Cha và coi họ chánh Saigon.
Khi cha Renier tới Mytho
thì nhà thờ hãy còn ở giữa châu thành, tại chỗ kho rượu bây giờ; còn cha thì ở
vòng xung quanh theo chái nhà thờ. Nhà phước thì ở cách xa đó chừng 200 thước
phía bên kia đường Dariès. Bổn đạo khi xưa thì ở vây theo nhà thờ đông đảo, mà
rày bỡi thành phố mở mang, cuộc công nghệ thương mại tấn phát, nên rút nhau lần
lần về Vĩnh Tường, bỏ nhà thờ ở quạnh hiu với năm ba nhà có đạo mà thôi.
Cha Renier về nghĩ vì họ
lớn ở nhằm chỗ thị tứ, các cha qua lại thường, mà nhà cha thì hẹp hòi rước
khách bất tiện, nên mới cất một cái nhà ở cho khoản khoát (nhà ấy bây giờ cho
quan trạng sư mướn), còn nhà thờ, kiểu thiệt tốt, song cất cũng đã lâu, cây ván
tuồng trong hư hết nhiều, khó bề tu bổ lại, nếu để vậy thì sợ hiểm nghèo, nên
qua năm 1903 cha định phải triệt đặng đem vô Vĩnh Tường cất lại ở giữa bổn đạo.
Khi dở nhà thờ lớn rồi thì bổn đạo tựu nhau lại đọc kinh xem lễ tại nhà thờ
Vĩnh Tường có cha Antôn Đường.
Qua năm sau (1904) ngày đầu
tháng Đ C Bà thì một trận bão dữ tợn làm cho nhà phước mồ côi phải sập và hư hại
nhiều. May phước! phải chi nhà thờ lớn chưa dở thì e phải bị tai hại rất to, vì
đứng chỗ trúng nhằm luồng gió đi. Bão qua rồi thì nhà mồ côi sáp nhập về nhà
thương Vĩnh Tường, bỏ cha sở ở lại một mình.
May lóng đó nhà chung mua
được một miếng đất và một cái nhà, cha già Đường dọn về nhà nầy, để nhà mình lại
cho cha sở, khi đó hai cha làm lễ trong nhà thờ Vĩnh Tường, nhỏ và chật hẹp cho
cả và họ. Cha Renier mới lo cất nhà thờ. Cất vừa rồi thì cha lật đật dọn về ở
nơi lầu chuông, giao nhà của mình lại cho thầy dòng, và cha lo dọn dẹp nhà thờ
cũ lại đặng làm nhà trường nam.
Song tội nghiệp, nơi lầu
chuông đã hẹp hòi lại bị nắng chiều nực nội lắm, lại rủi nhằm lóng đó cha đau
con mắt, nên cha phải dọn về ở tạm nơi phòng áo, ở được một ít lâu cha thấy bất
tiện, vì khi có khách thứa thì không biết rước vào đâu, nhà cha mới cất một cái
nhà lá gần một bên nhà thờ, yên chỗ rồi thì cha lo sửa nhà thờ cũ ra nhà lầu
cho có chỗ cho học trò ngủ, khi lo cho học trò nam xong rồi, thì cha tính cất
nhà cha lại, vì ở nhà lá thì bất tiện nhiều đều, khi dông mưa thì ướt hết đồ đạc,
lại một nỗi sợ hỏa hoạn phát lên thình lình, làm không kịp mà phải thiệt hại,
cho nên cha cất nhà cha cũng gần đó cao ráo rộng rãi, cất nhà cha rồi thì cũng
chưa nghỉ ngơi được, vì học trò nữ còn ở đậu trong nhà thương, chưa có trường
riêng.
Bỡi cha khéo tính, nên
cha mua đất ngang nhà thương, vừa chỗ mà lập nhà trường lắm, nội trong mấy
tháng thì cuộc đất nầy khi trước là chuồng bò, hào hố, sình nẩy, rày trở nên một
cảnh rất xinh đẹp, trong một vuông rào vách tường có nhà lầu, nhà trệt, đèn
khí, hồ nước, bông hoa cây cối đâu đó có thứ tự lớp lang, thấy lạ con mắt cho kẻ
nào lâu đi tới Mỹ Tho. Ngày nay học trò nam nữ ở Mỹ tho có chỗ ăn học tử tế,
khoản khoát, thì nhờ có cha Jean Renier ra tay gầy dựng, nên các trò hãy nhớ tới
người, mỗi lần các trò đọc kinh xem lễ, hay là nói khó cùng Chúa, thì xin đừng
quên đấng đã làm ơn cho mình.
Cất nhà trường nữ xong rồi,
thì cha cũng còn lo nữa, là nhà thờ đất thánh (kêu là nhà thờ bà thánh Annà) đã
hư hết sợ sập bất tử, nên cha tính cất lại và đem sụt vô trong, vì chỗ đó gần ngoài
sông cái sợ đất lở, nhà thờ cất kiểu thường song coi đẹp con măt.
Bổn đạo thấy cha lòng lành
nhơn từ thì thương mến hết sức, năng tới lui thăm viếng, năng nói khó cùng người
bàn tính chuyện nọ chuyện kia, thì sự tin tưởng càng ngày càng thêm, mà nhứt là
khi thấy cha lo lắng cho bổn đạo và đồng nhi nam nữ lớn nhỏ phần hồn phần xác,
thuận thảo cùng mấy trào cha phó đến mà giúp cha, thì bổn đạo đem lòng tin kính
và mến thương cha cho đến khi chết, bỡi vậy khi hay tin cha chết thì trong họ lớn
nhỏ đều châu lụy nhỏ sa, lại ấm ức vì không được thấy mặt cha mình một phen sau
hết, khi được tin nầy thì kẻ đi xe lửa, người đi xe hơi, chuyến xe nào cũng có
bổn đạo lên đặng có ý xin xác cha về còn kẻ ở nhà thì lo sắp đặt đặng rước xác
cha, song thảm thay!!! Rủi nhằm lúc Đức Cha đi khỏi nên xin xác về không được,
và cũng chôn gấp quá nên bổn đạo lên nữa không kịp, thì sự đau đớn chua xót
trong họ ai kể cho cùng.
Cha Renier là người trung
quân ái quốc, nên trong lúc giặc giã thì cha thúc giục lòng bổn đạo, lo cầu xin
cho nước Langsa đặng thắng trận, và ra sức giúp mấy cuộc quốc trái cho thành.
Một khi kia cha đi thăm họ
Kiến Vàng ở gần biển, ghe cữa lên rước cha đi nhầm lúc gió nam, chạy buồm chừng
năm sáu giờ thì tới, nên ăn bữa trưa rồi, cha xuống ghe không đem đồ ăn theo,
vì bạn nói về tới nhà kịp ăn buổi tối. Rủi dọc đàng bị hai trận dông và mưa lớn,
phải xả bườm vô rạch đậu núp. Êm trời ra đi khi đó là chín giờ tối mà ghe còn
linh đinh giữa vời, hai bên bờ thì rừng bụi vắng vẻ không có nhà ai hết, cha
đói mà dưới ghe không có một vật chi ăn được, có một gói cá mòi thính của người
bạn ghe mua đem về nhà mà thôi, túng làm cha phải ăn hai con cá mòi mặn đó, uống
nước lã mà chịu cho đến khi về tới nơi tới chốn thì đã khuya lắm, ướt hết loi
ngoi lót ngót.
Tôi có ý thuật chuyện nhỏ
mọn nầy, đặng cho ai nấy đem lòng thương mến cha linh hồn mình. Các viên quan
thế gian bất luận lớn nhỏ khi ra khỏi nhà, hoặc việc tư, hoặc việc nước, thì đủ
no mọi món, tới đâu có kẻ hầu người rước, mà cha linh hồn đi lo việc chung, phải
chịu đói khát tất bạc đỗi nầy!
Bấy lâu cha mảng lo cho
trong họ thủ túc không quản chi tới thân mình, lúc nầy đâu đó an bài rồi mà cha
sống ở đời với con cái không đặng bao lâu kế Chúa đòi về mà thưởng công.
Trong ý cha tưởng mình
chưa chết gấp vậy đâu? nên tính đi Đalat đổi gió ít tháng mà bổ sức lại hầu ở
cùng con chiên mình đôi năm nữa, ai dè ý nhiệm Chúa khác ý loài người, khi cha
sửa soạn đi thì bị một cơn rét nặng, bỡi vậy cha tính không đi để lên nhà
thương Angier uống thuốc. Tính xong rồi qua sáng ngày thứ tư cha ra đi, khi đó
có một ít người ngó thấy cha trong nhà bước ra mà đi, và ngó ngoái lại cách buồn
bực, âu là khi ấy trong lòng cha tưởng thầm rằng: “Không biết mình đi mà có trở
lại nữa chăng?” Cha đi chưa được năm ngày kế nghe tin cha lìa khỏi thế, thật rất
nên là chua xót! Ý Chúa nhiệm mầu, trí thấp hèn ta suy sao thấu, Chúa định cha
phải dời chơn khỏi họ đặng dọn mình chết lành, vì nếu khi đó mà cha chết tại Mỹ
Tho, ắt là khó bề nhắm mắt lại, vì con cái người kẻ vô người ra liu chiu lít
chít thì thêm cực cho phần trí cha biết là bao nhiêu!! Khi sống cha hay ở an tịnh,
nên giờ chết,cha cũng muốn lặng lẽ một mình.
Nguyện xin ngày sau các
con chiên của cha đặng hiệp vầy cùng cha lành trên nơi cõi thọ....
H.
M.
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1922
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét