SỰ TÍCH CHA FÉLIX HUBERT (HIỆU)
1850—1917
---------------
Cha FÉLIX
HUMBERT
đã sinh ra ngày 16 Avril 1850, tại làng Lesseux, về tổng Saint-Dié, tĩnh
Vosges, trong nước Langsa. Cha mẹ người đạo đức lắm, làm nghề ruộng nương, đã
ân cần dạy dỗ con, và tập luyện cho biết đàng giữ đạo, kính Chúa yêu người. Việc
nhà thì tầm thường đủ ăn đủ mặc, mà có của châu báu Chúa ban, là hai con trai,
hai ông bà xem là kho tàng vô giá phải gìn giữ hầu sau trả lại cho Chúa. Tuy
con út là Eugène không dưng mình cho Chúa, nhưng bỡi nghe lời cha mẹ và noi
gương lành, thì cũng đã đặng danh thơm tiếng tốt trọn đời, ai nấy đều yêu vì,
mà bỏ thăm chọn lên làm ông xã trong làng, và sau đã sinh con, mà dưng cho
Chúa, làm thầy cả như bác, lại trong cơn giặc hung dữ ba năm nay, thì đã liều
thân mà giúp quê hương, trong hàng binh lính, lịch trận và bị thương tích nặng,
Bấy nhiêu đều làm cho ta đã rõ gia thất nầy đáng kính vì yêu chuộng là bao
nhiêu.
Khi trẻ Félix dọn mình rước
lễ, thì cha sở thấy nó có tính tốt, sáng dạ, lại siêng năng cẩn quyển chuyện học
hành, nên đã tính cùng cha mẹ mà lo cho nó đi nhà trường. Trong nhà có hai con
mà thôi, Chúa đòi con đầu lòng, nhưng vậy cha mẹ không tiếc với Chúa, không làm
như nhiều kẻ khác muốn giành với Chúa mà giữ con cái lại thế gian, lo cho đặng bề
công danh lợi lộc mà đua tranh với đời. Hai ông bà nầy nhớ con mình là của Chúa
hơn là của mình, và chẳng qua là Chúa đã gởi cho mình lo lắng, tập luyện, gìn
giữ cho Chúa mà thôi, nên khi nghe tiếng phán đòi, liền vội vàng trả lại cho
Chúa, lòng mình mến thương dính bén bao nhiêu, cũng chẳng nại, chẳng tiếc. Vì vậy
đã phú cho cha sở lo dạy Félix học tiếng latinh.
Làng Lesseux thì xa nhà
thờ, đi hơn trót giờ mới tới, song Félix vui mừng, mỗi ngày đi học, chẳng lo
đàng sá xa xuôi, không tưởng tới sự mệt mỏi, một lo cho đặng mau thuộc biết những
sự phải học hành.
Cha sở chẳng lật đật mà
cho Felix nhập trường, người làm theo thói quen nhiều cha sở khác thường làm,
là giữ Félix ở cùng mình lâu ngày, mà dạy latinh cho nhiều, mà tập luyện tính nết,
lại nhứt là cho đặng dò xét ý tứ nó có quyết định phú mình theo Chúa trót đời
chăng. Khi đã kỹ lưỡng cân lường hư thiệt, mà chắc ý, và tập luyện vừa đủ, mới
gởi nó vào trường latinh, nhập lớp ba, không khỉ sự lớp tám như trẻ khác.
Dễ xét khi Félix vào bổn
trường địa phận thì đã chuyên cần lo lắng chí thú là thế nào cho đặng tấn đàng
thông minh, cho đặng thêm ngõ nhơn đức. Bấy lâu học một mình, chẳng hẳn sức trí
tài lực ngằn nào, miễn bài vở thuộc rành, sạch lỗi thì thôi; rày đông anh em
trang lứa, mới lo kình trí đấu tài. Mới tới thì bợ ngợ, chẳng quen cách thầy dạy,
không thạo phép bài vở; nội tuần đầu hết làm hai cái bài thi, tới bữa rao, thì
bài latinh, thứ rốt: Félix Humbert; bài phép toán, thứ nhứt: Felix Humbert. Chẳng
mấy ngày mà trò mới nầy tỉnh lại, hiểu được cách thức nề nếp trong chuyện bài vở,
thì chẳng thua ai, càng lo đua tranh, càng thêm mở mang trí hóa.
Hiềm vì đang lúc chuyên
việc văn chương mà phải ngưng lại, vì có giặc cả nổi lên (1870), nước Langsa phải
ứng lên đón ngăn đấu chiến cùng nước Prusse đang xông vào làm hỗn, cũng như giặc
lúc nầy. Félix phải về nhà giúp cha mẹ trong việc canh nông, vì lúa chín đầy đồng,
mà thiếu công gặt hái, bỡi chưng kẻ trai tráng phải bỏ ruộng nương mà nhập binh
cơ giúp nước gỡ nạn. Mà trẻ nầy cũng vui lòng, vì thấy thánh ý Chúa đã khiến ra
cho có sự tai nạn cực dữ thể ấy, nên chẳng phàn nàn sao ngưng việc trí mà
chuyên việc tay chơn mệt nhọc, một phú thân xác mỏi mê cho đặng giúp đỡ cha mẹ
mà đền ơn trả thảo, lòng thì chua xót vì quê vức lâm lụy chịu đầu phục kẻ thù kiêu
hảnh gắt gỏng.
Đến khi mọi việc giặc giã
yên đoạn, thì lại tiếp lo học hành như trước. Khi vào trường lớn, thì Félix đặng
ơn riêng, nghe tiếng Chúa kêu, thôi thúc trong lòng, giục bỏ quê vức cữa nhà
cha mẹ bà con thân thuộc, dưng mình làm tôi Chúa bên rốt Phương Đông, mở mang đạo
thánh giữa những dân ngoại đạo. Theo lẽ thường thì có lẽ cho thầy Félix chữa
mình, hoặc chẳng chịu lìa quê quán, hoặc ít nữa là giản ra một ít lâu; vì chưng
mới vừa yên giặc, kế cha người tạ thế, nên khó bề cho người xa cách mẹ mới mang
phận góa bụa. Song đức tin và lòng kính mến Chúa làm cho người lướt thắng lòng
con hiếu mến mẹ lành, chẳng kể những tiếng xác thịt nói ra mà cản trở ơn Chúa:
nên người chí quyết một bề theo Chúa, tế lễ tâm tình nhơn loài, nhớ lời Chúa
đe: “Ai thương cha mến mẹ mình hơn tao, thì chẳng đáng theo tao,” mà phú mẹ lại
mặc lượng lòng lân mẫn Chúa lo liệu, biết mình chẳng cao tài rộng trí hơn Chúa,
và dầu cho mình lo làm cách nào, nếu Chúa không đoái lại, thì cũng chẳng ra
chuyện gì đặng..
Mà mẹ đạo đức đại độ cũng
chẳng kém con; đã dưng con làm tôi Chúa, thì bằng lòng cho Chúa phân định về phận
số con, xa gần chẳng quản, miễn là cho mình đặng trọn lễ tế lòng thương mến, chẳng
sá kể mình phải lẻ loi đơn chiếc, trông rày phân biệt còn có ngày sẽ đặng hiệp
hòa, rày gieo trong nước mắt, sau gặt giữa vui mừng, rày gieo một, sau gặt trăm
ngàn. Vậy mẹ con đua nhau tế lễ cho đặng sáng danh Chúa, thì của lễ đẹp lòng
Chúa biết dường nào.
Khi thầy Félix đã tỏ cho
cha xem sóc linh hồn đặng hẳn tiếng Chúa kêu mình đi nơi xa xác, và cân lường mọi
lẽ thiệt hơn, thì cha linh hồn đã nhìn là ý Chúa phân định; Đức Cha cũng bằng
lòng ban phép xuất hành. Vậy đã nhập trường Dòng Sai tại Paris, mà dọn mình và
học cho rồi sách đoán cùng chịu chức. Mãn ba năm thì người đã lãnh chức linh mục,
nhằm ngày 19 Décembre 1874. Và bề trên đã phân định cho người sang qua địa phận
Nam Kỳ mà làm việc trong vườn nho Chúa,
Khi ấy xứ Sài Gòn bị tiếng
xấu trong trường Paris, vì phần thì phong thổ chẳng hiền, phần thì mắc chuyện
khó đàng khác về phần đời, bỡi gương xấu kẻ có quờn thế, nên các cha trẻ Dòng
Sai chẳng mấy ai muốn sang qua đó. Song cha Humbert đã tập mình bỏ ý riêng,
quen xem ý bề trên là ý Chúa, thì chẳng những không chê khen, lại hăm hở sang đến
cho mau mà tra tay làm việc tông đồ tổn phí sức lực cùng sự sống mình cho sáng
danh Chúa, cho linh hồn người ta đặng rỗi..
Người xuống tàu mà đi là
ngày 27 Janvier 1875, làm một cùng năm cha khác (Một cha đi bên Tàu; ba cha sang nước Birmanie; và cha Hamon qua địa phận
ta, mà cha nầy đi học tiếng tại Cái Mơng, chẳng hay cách mấy tháng đã phải chết
trôi, là 5 Novembre 1875.)
Tới nơi là ngày 27
Février sau, thì Đức Cha Colombert đã sai người vô Chợ Quán mà học tiếng.
Bước qua năm sau, người
thuộc tiếng vừa đủ dùng, thì Đức Cha sai người lên coi họ Thủ Dầu Một. Song người
ở đó chẳng đặng bao lâu, vì qua đầu năm 1877 thì bề trên đem người về ở Nhà Trường
Latinh, thế cho cha Favreau phải về Tây mà dạy trường chung Dòng Sai tại Paris.
Từ ấy cho tới khi sinh thì, là trót bốn mươi năm, người chẳng hề rời khỏi Nhà
Trường.
Đức Cha Colombert thường
khi đổi cha nào vô dạy trong Nhà Trường, thì hay nói chơi mà gọi rằng: damnatus ad bestias, mà thiệt việc dạy dỗ
nầy, thì ai cũng sợ, không ai tự nhiên muốn, có sự vưng lời buộc được mà thôi.
Cha Humbert cứ đàng đã tập mình bấy lâu, chẳng xem sao đến ý riêng mình, đã dưng
mình làm tôi Chúa theo ý Chúa, nên kẻ thay mặt Chúa chỉ bảo sự gì, thì người sẵn
mà vưng nghe luôn, chẳng chữa mình, chẳng tránh trút, dầu nhằm là đều sái ý
cũng vậy, người đã bỏ quê vức chẳng phải là cho đặng tìm sự sung sướng, sự vừa
ý mình đâu, một lo cho đặng sáng danh Chúa và làm ích cho linh hồn người ta mà
thôi.
Bỡi vậy dầu sự người ước
ao chí quyết, là có ý sang qua đây mà giảng đạo cho kẻ ngoại, mà nay phải ở Nhà
Trường thì không còn trông lo việc giảng đạo thể ấy nữa, nhưng mà vưng lời Chúa
chẳng phải là phương thế nhứt hảo mà làm sáng danh Chúa sao? cho nên người chẳng
phiền lòng; lại cũng nhớ việc lo làm trong Nhà Trường là dạy dỗ tập luyện những
kẻ mai sau sẽ lãnh việc tông đồ, cho nên sẽ có bao nhiêu học trò người giảng dạy
người ta ngày sau, thì ra là thêm cho người bấy nhiêu miệng lưỡi mà cao rao danh
Chúa, mà chính mình người sẽ đặng thêm công ẩn ánh tịch mạc chẳng ai biết tới.
Lòng đức tin làm cho người
tận tình lãnh việc khuất tịch mà lo làm trong chốn thánh trường. Người chỉ lo
việc dạy dỗ là chính bổn phận. Dầu phải cực trí cực lòng bao nhiêu, cũng chẳng
nại, ghe phen phải hết lòng nhịn nhục những học trò chậm lụt ít trí, phải lặp
đi lặp lại những lời cắt nghĩa, cho đến khi lọt được vào trí nó: kẻ đã gánh việc
dạy dỗ mới hiểu sự cực nầy, ai chưa thử thì chẳng hẳn chẳng tưởng. Mà cha
Humbert chẳng phàn nàn, miễn là làm cho đủ sức, cho trọn việc bổn phận, thì người
an lòng.
Người thay đổi mà dạy mấy
lớp trường nhỏ, cho đến khi phải thế cho Đức cha Dépierre mà dạy sách đoán, lối
năm 1894. Từ ấy thì dạy trường lớn luôn cho đến mãn đời.
Trong nhà trường thì người
còn lãnh thêm bổn phận nặng nề khác, là giữ việc, lo tiền bạc xuất phát, lo ăn
uống cho học trò, lo mua chác mọi món cần dùng trong nhà, sách vở, giấy mực, dầu
đèn, vải sồ, chiếu liếp, vân vân; lo cất nhà, sửa nhà, mướn công, mướn thợ, mướn
đứa ăn đứa ở... Người giữ việc cho đến năm 1902 mới trao gánh lại cho cha
Quinton, khi ấy ở nhà trường nhỏ Tân Định mới về nhập trường lớn. Cha Humbert
khi ấy đã yếu đuối mang bịnh hoạn, không còn đủ sức mà lo gánh qui mô ấy.
Đã có bua việc lo lắng mệt
nhọc trong nhà trường, mà người còn bổn phận khác cũng rất trọng phải làm, là dạy
dỗ dìu dắc luyện tập những linh hồn dưng mình cho Chúa nơi Nhà Phước ông thánh
Phaolồ, thường kêu là Nhà Trắng. Khi gần cuối năm 1877, cha Thiriet thế cho cha
Wibaux mà làm Bề trên Nhà Trường, chẳng còn lo được mà xem sóc nhà Noviciat các
Chị ông thánh Phaolồ, thì cha Humbert đã lãnh tiếp lo về nhà ấy thế cho người,
và đã giữ việc nầy lâu năm lắm, cho đến khi bịnh hoạn yếu đuối làm không nổi nữa.
Biết là bao nhiêu con cái thiêng liêng người đã sinh ra cho Chúa thể ấy trong
vòng ba mươi năm dư, hầu làm sáng danh Chúa trong việc dạy dỗ và giúp nhà
thương! Từ ngày đồng nhi lìa cha mẹ mà bước vô nhà ấy, thì người tiếp rước, lo
lắng, xem sóc, dạy dỗ về lẽ đạo, về đàng tập mình sửa tính trong nẻo trọn lành;
mà người gìn giữ dìu dắc luôn cho đến khi mặc áo tu hành, cho đến ngày khấn hứa.
Đoạn người cũng chẳng bỏ trong lúc kẻ ấy đã nên người nhà phước đi chỗ nọ chỗ
kia mà lo việc bổn phận, người cứ giúp đỡ luôn cho đến mãn đời. Ai đếm được bao
nhiêu linh hồn người đã giúp trong lúc liệt lào đau ốm cho đến khi ra khỏi thế
nầy, cho đặng chết bằng an trong Chúa!
Người cũng còn lãnh việc
ngồi tòa làm phước cho các chị ông thánh Phaolồ mà đã khấn hứa rồi, và cũng làm
phước, giảng dạy cho các chị dòng Carmêlô, kêu là Nhà Kín nữa. Việc nầy tuy người
không làm lâu dài trót đời, song cũng đã làm nhiều năm.
Kể dón qua vậy, cho dễ thấy
trót đời người đã làm việc nhiều là thể nào, mà chẳng khi nào người phàn nàn rằng
mệt mỏi, một cứ làm luôn luôn, buông chuyện nầy, liền bắt qua chuyện khác, cho
tới khi phải té xuống, không còn làm gì được nữa, mới ngừng tay, mà vừa khi đặng
sức lực lại một chút, liền khỉ sự lại như thường.
Ta nhắc lại một ngày người
làm việc, hồi còn đang sức lực, cho đặng thấy các ngày khác trong đời người,
thì cũng làm như vậy.
Sớm mai người thức dậy 4
giờ rưởi, đọc kinh suy gẫm, rồi qua Nhà Trắng làm lễ, cám ơn, rồi về nhà đọc kinh
minores horas, lót lòng, dọn bài dạy.
8 giờ rưởi trả bài, dạy học trò cho đến 10 giờ, rồi đi liền qua dạy Sách Phần
bên Noviciat Nhà Trắng cho đến 11 giờ. Về Nhà Trường tập hát cho học trò từ 11
giờ rưởi cho đến 12 giờ, ăn bữa trưa. Đoạn truyện vãn cùng các cha, hay là đi
coi học trò đang giờ chơi trưa, rồi đọc nhựt trình hay là sửa bài, xem sách. Tưởng
cả đời người không có ngủ trưa một lần nào. Kinh Vesperas và Completorium
thì đọc nội giờ rảnh ấy. Tới 2 giờ thì đọc Matutinum
và Laudes, đoạn 2 giờ rưởi dạy học
trò cho đến 4 giờ. 4 giờ rưởi nhiều khi phải làm phép lành bên Nhà Trắng; có
ngày làm phước cho tới tối, có ngày phải làm phước ở nhà, phải giảng cho học
trò hồi 5 giờ; không thì sửa bài, dọn bài. 7 giờ ăn cơm tối rồi chuyện vãn, lối
8 giờ về phòng còn làm việc cho tới chừng 9 giờ mới đi ngủ. - Mà cả và đời người
cứ theo một thứ tự ấy gần luôn, đổi một hai chút, khi lãnh thêm hay là đổi việc
bổn phận nào mới mà thôi.
Trừ ra bấy nhiều sự ấy,
thì còn phải lo việc trong nhà, theo phận cha
việc, còn phải ra khách khi có kẻ tới thăm, còn phải viết thơ trả lời cho
những kẻ bàn hỏi chuyện nọ chuyện kia, còn phải đi thăm kẻ liệt lào, nhứt là
khi có ai trong các Chị ông thánh Phaolồ phải liệt nặng gần chết, hoặc bên Nhà
Trắng, hoặc bên Nhà Thương Thị Nghè.
Ta xem đó thì thấy ngày
giờ người no đầy (dies pleni) là thể
nào, đầy việc vàn, đầy khó nhọc, đầy công nghiệp... Mà người hằng vui lòng
luôn, và yêu mến sự làm việc bằng yêu sự sống mình vậy, và hơn nữa. Biết là bao
nhiêu kẻ quên ý Đức Chúa Trời dựng nên người ta cho đặng làm việc: Homo nascitur ad laborem (Jos, v, 7),
cho nên những mơ ước và tìm thế cho đặng nghỉ ngơi! Cũng chẳng thiếu chi người,
khi đã làm việc rồi mà đặng ngừng tay lại, thì lấy làm phỉ chí vui mừng. Cha
Humbert không nhập vào hạng hai thứ người ấy, vì hằng làm việc chẳng chịu hở
tay, dầu xác phải mệt nhọc thể nào, người cũng vui lòng. Bỡi vậy khi người mắc
bịnh hoạn yếu đuối, không còn làm việc được như xưa, thì người lấy sự ấy làm nặng
nề khó chịu. Cách chẳng mấy ngày trước khi người qua đời, có thầy kia đến thăm,
thì người than với thầy ấy rằng: “Cha không dạy, không trả bài được, thì buồn
quá, nhàm quá!” Ngày người chịu phép xức dầu thánh, thì hãy còn ngồi tòa làm
phước cho mấy con linh hồn đến xưng tội.
Dầu người mắc bua việc chồng
chập, mà người chẳng hề bồn chồn bối rối lật đật: Omnia tempus habent ( Ecci, III, 1), chuyện nào có giờ theo chuyện
nấy. Mỗi việc người làm đĩnh đạc kỷ lưỡng như thể không có việc gì khác mà làm
nữa. Như trong khi dạy học trò, thì người lo cắt nghĩa rõ ràng cho ai nấy hiểu
được, dầu kẻ chậm trí hơn hết cũng phải hiểu đã, mới dạy qua đều khác; trong
bài vở có lỗi gì, dầu nhỏ mọn, người chẳng bỏ qua, một chỉ cho thấy lỗi và bắt
sửa lại, hay là chỉ cho biết phải sửa làm sao cho nhằm.
Người cầm lòng nhịn nhục
luôn, chẳng thấy người tỏ dấu nóng nảy khi nào, dầu khi gặp chuyện trái ý tức
mình, hoặc thấy học trò lơ lảng chẳng chín chắn trong việc học, chẳng ân cần trong
đều giữ luật... hoặc bị khinh dễ nhạo cười, người cũng đằm tính bằng an luôn.
Không thấy khi nào người
buồn quạu, cũng không thấy người vui cười thới quá bao giờ: gặp người vui vẻ
bình tịnh một mực luôn, Ghe phen người gặp đều phi ơn phi ngãi, nhiều lần phải
chống báng, có khi mang chuyện phiền muộn đau lòng, như khi nghe tin mẹ hay là
em qua đời, cũng là khi phải bịnh hoạn dài ngày cực lực tê mê nhức nhối, thì
cũng không thấy người buồn bã, không nghe phàn nàn rên siếc. Có Chúa cầm lái thuyền
người, thì người hằng vững dạ an lòng chẳng chuyển.
Khi phải sửa phạt kẻ bề
dưới, thì người cứ lẽ công bình, và cứ đức yêu người tìm phần ích cho kẻ có lỗi
đặng ăn năn hối cải, cho nó hiểu sự mình quấy và mất lòng Chúa. Nên người chẳng
vội làm cách lật đật, một chờ thì tiện, và liệu cách cho kẻ có lỗi bằng lòng mà
nghe lời khuyên bảo, nhứt là người lo cầu nguyện, xin ơn Chúa phần thì cho mình
nói cách nào cho khỏi mích lòng, phần thì lo cho kẻ ấy đặng ơn soi sáng mà hiểu
những lẽ phải nghe.
Đang khi lo lắng cho những
linh hồn người phải xem sóc giúp đỡ, thì người chẳng hề muốn dự vào trong những
chuyện không phải thuộc về bổn phận mình. Nên người chẳng ưa nghe những chuyện
hành tỏi về kẻ khác, huống chi chính mình người chẳng nói đi nói lại về việc kẻ
khác. Người lại càng chê ghét và lánh xa hơn nữa cho khỏi đoán xét và bắt tì ố
việc người ta. Người năng nhắc lại luật đức thương yêu dạy phải xét tốt cho kẻ
khác luôn, và khi phải là đều trái tỏ tường thì phải tưởng kẻ ấy chẳng có ý xấu,
hoặc lầm lỡ yếu đuối, mà nhứt là phải nhớ phận mình mà sợ có lẽ nếu mình phải
sa cơ hội như kẻ ấy, âu là mình phải tệ lậu hơn nữa.
Người quen suy nhớ những
lẽ thể ấy mà giữ mình khiêm nhượng luôn, chẳng tưởng mình hơn ai, chỉ ghét sự
phô trương bề ngoài; chẳng ham cho ai tôn kính khen ngợi mình, mà khi có gặp
làm vậy thì chẳng xem sao tới; chẳng muốn cho ai biết ai tưởng tới mình; chẳng
sợ ai chê bai khinh dễ: một chỉ lo bổn phận cho vừa ý Chúa tùy sức, để cho Chúa
phán xử khen chê mặc lượng lòng lành và công bình Chúa, cũng như thánh Phaolồ
xưa: Mihi pro minimo est ut a vobis
judicer, aut ab humano die: sed neque meipsum judico. Nihil enim mihi conscius
sum, sed non in hoc justificatus sum; qui auten judicat me Dominus est (I
Cor., IV, 3-4).
Cũng bỡi người lo giữ mọi
lẽ theo sự công bình, nên người không ưa mắc nợ, có mua chác vật gì thì người
lo trả tiền cho rồi. Cũng vậy người lo cho đừng có ai mắc nợ người. Có một lần
người cho một người kia mượn tiền mà gầy nghề nghiệp làm ăn. Ban đầu thì người ấy
còn tới lui một ít lần, mà hẹn sẽ trả tiền khi có thể lo trả được. Đến sau khi
người ấy đã khá, có lẽ lo trả được, thì chẳng còn tới lui, cũng chẳng gởi tin tức
gì nữa. Cha Humbert thấy vậy thì lo sợ, không phải tiếc tiền bạc, song sợ người
ấy không lo trả nợ mà bị tội trước mặt Chúa, nên người hỏi thăm, và nhắn đi nhắn
lại nhiều tin cho người ấy hay, nếu khó bề lo trả, thì tỏ cho người biết, đặng
người hủy nợ ấy đi. Mà tên ấy vô tình, cứ làm thinh mãi. Cách lâu ngày lâu
tháng, chẳng thấy tin tức, thì người lại lo nhắn thêm tin khác mà biểu nó ở bằng
an, đừng lo trả nợ nữa, vì người cho đứt nó số tiền ấy. Như vậy thì người mới
được an lòng. Cách người suy xét cân lường về chuyện nợ nần thể ấy thì khác xa
sự thiên hạ thường xét và làm là thế nào! Biết là bao nhiêu người mắc nợ nần,
mà dửng dưng vô sự, chẳng lo chi tới, đã không lo nhín nhúc cho có đủ tiền mà gỡ
lương tâm mình và cho khỏi chuyện bó buộc, mà lại bằng an cứ lo ăn lo xài, như
thể mình chẳng thiếu đủ ai chút gì sốt; mà lại khi xưng tội cũng chẳng xét tới
đều ấy, cũng không nói một tiếng mà cáo mình! Kẻ thế ấy thì lường gạt lương tâm
mình và đành lòng an dạ để phần rỗi mình phải cheo leo biết là ngằn nào!
Nợ thật là mối hiểm nguy
cho kẻ làm vậy, mà bạc tiền lại càng nguy hiểm cho nhiều kẻ khác, vì lòng dễ
dính bén: bốc chai, vấy chai, Qui
tetigerit picem, inquinabitur ab ea (ECCII., XIII, 1), như gương Giudà, giữ
tiền cúng đức mà sinh bụng tham. Cha Humbert chẳng mắc đều chi thể ấy. Người giữ
tiền bạc Nhà trường, mà lòng chẳng những là thanh liêm công chánh, lại chẳng
thèm sá kể đến của phù vân. Của Chúa, của người ta làm phước bố thí, người phải
giữ gìn, lo dùng tiết kiệm, theo việc phải dùng, chẳng dám xa xỉ tổn hao vô
ích, mà lòng người chẳng mến của, chẳng lo thâu góp tích trử, một noi theo Quan
thầy yêu ở khó khăn, chẳng muốn sắm ăn sắm mặc, có vừa no dạ kín thân thì lấy
làm đủ, Habeutes alimenta et quibus
legamur, his contenti sumus (I TIM., VI, 8).
Khi có dư ít nhiều, thì
người lo bố thí giúp kẻ thiếu thốn. Mà trong đều nầy thì chẳng kể ra đặng các sự
rộng rãi người đã làm mà giúp anh em, con cái, cùng kẻ quen biết, vì người giữ
kỷ lời Chúa dạy, Nesciat sinistra tua
quid facial dextera tua (MATTH., VI 3), chẳng cho tay tả hay việc tay hữu
làm. Có đôi đều không giấu đặng, như người đã dưng cho Nhà trường bộ áo lễ
vàng, thầy năm thầy sáu dùng khi hát lễ cả, có hơn 100$, và cây đờn lớn dùng tại
Nhà trường, chừng 800$. Nhiều khi người chẳng đợi kẻ túng ngặt mở miệng xin
giúp, vừa hay túng, người đã trao ra, như khi người nghe họ Hanh Thông Tây tính
cất nhà thờ lại, liền rút giấy 20$ bố thí liền, chẳng chờ xin. Ta thấy mỗi năm
trong số Hội ông thánh Vêrô, in tên người làm hội hữu đời đời mà giúp Nhà trường.
Khi phải lo chuyện kính Chúa yêu người, thì người chẳng hề biết so đo bòn sẻn.
Người cũng chẳng biết tiếc
mà sắm sách vở, những thứ làm ích về việc học hành và chuyện nhơn đức, như những
thứ Sách đoán cho đặng giúp người dọn bài dạy các thầy trường lớn, những thứ
sách giải nghĩa Thánh Kinh, sách bài giảng, sách các thánh sư, sách sử Hội
Thánh, sách dẫn lối đàng trọn lành, dạy các nẻo về Sự sống thiêng liêng, về sự
nguyện gẫm, sách hạnh các thánh. Không kể được là bao nhiêu sách người đã mua,
đã dùng, đã học, đã xem. Trong mấy năm sau hết thì người ước rằng phải chi có
tiền dư ba bốn trăm đồng, thì người liều mà đóng tủ sách cho lớn đủ mà trử sách
vở người cho có lớp lang thứ tự để đời, kẻo để nhiều chỗ phải lạc mất thì uổng
lắm; vì người có ý để nguyên vậy đủ hết mà trối lại trong Nhà trường, chẳng muốn
phân phát ra, để dùng chung, ắt là làm ích cho nhiều người hơn.
Người nhờ sách vở mà làm
cho những sự người học và dạy dỗ càng ngày càng thêm toàn hảo minh mẫn; cũng
dùng đó mà nuôi linh hồn mình, cho đặng học cùng các thánh mà tấn tới trong sự
kết hiệp cùng Chúa, theo lời các thánh dạy, theo gương các thánh làm, - mà giúp
mình trong việc nguyện gẫm. Nhiều khi người nói rằng: “Tôi u mê lắm, không có
sách, thì tôi không biết làm thế nào mà nguyện gẫm.” Người dùng đó cho biết dìu
dắc các linh hồn người đã lãnh cho trúng đàng phải đi, cho biết nẻo khử trừ tính
xấu, luyện tập nhơn đức, - dùng đó mà dọn các bài giảng dạy về việc thiêng
liêng trong các nhà tu, cho nên lời người dạy dỗ rất hữu ích, khác nào mật ong
đã nút trong các thứ bông mà làm ra.
Có khi người gặp sách tốt,
hữu ích, thì lại xuất tiền mua, mà phân phát ra cho con linh hồn cùng kẻ quen
biết đặng nhờ, mà chẳng lo hao tổn.
Vì người hằng ước ao cho
những kẻ người phải lo lắng cũng làm như người, là tìm phương thế mà tấn tới
luôn trong đàng kính mến Chúa, trong sự thắng trận tính xác thịt mà luyện tập về
các nhơn đức. Cho nên khi người gặp đặng thế nào mà giúp mình, thì vội vàng
thông ra cho kẻ khác cũng đặng nhờ như mình.
Chẳng những người lo tìm
phương hiệu nghiệm trong sách vở mà thôi, lại khi có thế nào khác bề ngoài mà
làm ích cho mình, hay là cho kẻ khác, thì người lo cho đặng dùng. Như thể vào họ
nọ họ kia đã lập ra trong Hội thánh. Khi Đức Giáo Tông Piô thứ X đã ra sắc chỉ
về sự rước lễ hằng ngày, thì đã lập ra một hội Thánh Thể cho các thầy cả vào,
mà lo khuyên lơn thúc hối bổn đạo về sự năng rước lễ, ai vào hội ấy thì đặng
nhiều phép riêng làm ích cho bổn đạo, thì người đã lo vào hội ấy, và lo làm hết
sức cho ai nấy trong những kẻ cậy người về việc thiêng liêng, đặng thêm sốt sắng
theo ý Chúa, mà cẩn quyển về sự rước Chúa, và đặng nhờ những ân tứ Hội thánh ban.
Song dầu người ái mộ về sự
vào hội thể ấy, mà người không vội và vô ý; có khi biết hội nọ có ích trọng,
người muốn biên tên mình vào, mà bỡi có đôi đều trong điều luật hội người không
thể giữ trọn đặng, vì mắc chuyện làm theo bổn phận cản trở, nên phải bỏ qua,
hay là phải xin chuẩn, thì dầu người ước ao cho lắm, cũng không xin vào. Người
nghĩ rằng: nếu mình rõ biết có đều mình không thể làm đặng, thì không nên lãnh
luật và hứa buộc mình làm chi, mà vừa buộc mình rồi phải bỏ qua, phải lỗi luật,
hay xin chuẩn, thà đừng buộc mình thì hơn.
Như thể có một hội thầy cả
người ước ao vào lắm, kêu là lội Pretres
- Adorateurs; mà ngặt trong luật hội ấy buộc mỗi hội hữu, mỗi tuần một lần;
phải ở chầu trước Mình Thánh Chúa trót một giờ luôn, chẳng đứt khúc; phải chi
được chấp đôi ba khoản cho ra trọn một giờ, thì dễ, song phải có luôn trót một
giờ không đứt khoản, thì trót tuần người kiếm không ra một khi nào mà mình rảnh
đặng một giờ thẳng thét, để mà chầu Chúa như vậy. Cho nên trong mấy năm, dầu
người mơ ước tận tình, mà không dám chịu tên vào hội ấy. Chẳng hẳn hồi người yếu
đuối bịnh hoạn trong mấy năm sau hết, mà bớt công việc làm, thì người đã liệu đặng
mà vào hội ấy như lòng sở một chăng.
Khi dòng Carmêlô lập phép
Dòng thứ Ba tại Sài Gòn cho những kẻ ở giữa thế gian, dầu nam dầu nữ, đặng vào,
thì người cũng muốn vào cho đặng thông công nhờ phần ích, và có kẻ đã nài nỉ
thúc bồi lắm, song người không chịu, vì thấy trong luật có đều không thể tiện
cho người giữ đặng, như sự chay lòng trong những ngày người mắc bua việc bổn phận
phải làm, nếu lãnh luật thì sẽ phải xin chuẩn, nên người thà chẳng lãnh, để ở
ngoài mà dưng lòng ước ao cho Chúa mà thôi. Mà Chúa nhơn từ công bình, ắt đã nhậm
tình ước ao nầy như việc toàn công mà trọng thưởng người.
Có một hội khác, tên là Union Apostolique, cho các thầy cả lo việc
họ đặng thông công cùng nhau, chẳng buộc đều gì ngoài việc phải làm theo bổn phận,
chỉ phải lo việc đứng bực mình cho trọn lành mà thôi, và lo giúp đỡ chung cùng
với nhau trong việc thiêng liêng, có thể cho ai nấy nhờ mà nên thánh, là hội
các Đức Giáo Tông đã ưng nhận, và chính mình Đức Giáo Tông Piô thứ X đã vào hội
ấy, khi còn làm Giám mục. Khi người biết hẳn đặng ý tứ và luật lệ hội ấy, thì
liền lo cho đặng vào, lại lo làm hết sức cho bề trên ưng lập hội ấy trong Địa
Phận, hầu cho đứng chăn chiên Chúa, đang mắc nhiều việc giặng gịt bề ngoài, dễ
mà chia lòng chia trí bê trễ phần thiêng liêng, đặng thông công trong hội ấy mà
chín chắn lo phận riêng mình, kẻo mắc lo giúp kẻ khác mà mình phải thiệt, Ne forte, cum aliis praedicaverim, ipse
reprobus eficiar (1 Cor., IX, 27). Nhờ ơn Chúa thì việc người lo đặng thạnh
sự, và các cha vào hội ấy đã đồng lòng bàu người lên làm bề trên mà lo việc
trong hội. Khi người qua đời thì hội ấy đã đặng bốn mươi chín hội hữu.
Xem trong hạnh thánh thì
thấy nhiều khi các thánh phàn nàn vì không đặng Chúa đến viếng thăm, là khi các
thánh đặng mạnh khỏe lâu ngày, chẳng mắc bịnh hoạn, chẳng có dịp chịu khó vì
Chúa. Phần cha Humbert, thì đã đặng ơn Chúa đến thăm như vậy nhiều lần. Một lần
thứ nhứt là giữa năm 1881, người phải ung độc trong hàm, không ai dè là bịnh nặng,
tưởng dán thuốc dán ít bửa, nó muồi rồi hết, chẳng hay càng ngày càng thêm đau
đớn nhức nhối, phải đi nhà thương chịu quan thầy mổ, ra những máu độc đen bầm cả
chậu; phải chi chẳng mổ kịp ắt là bỏ mạng. Khi người khá lại mà trở về nhà trường,
thì học trò nhìn không đặng, vì râu đã cạo hết.
Cách mười mấy năm bình
yên sức khỏe, qua lối gần cuối năm 1893, người đau lại một trận nữa cũng nặng lắm.
Phen nầy người thấy chết tới, nên lo dọn mình tạ thế: sổ bộ tiền gạo nhà trường
người cậy kẻ lo tính toán sắp đặt đành rành, kẻo khi người khoản rồi mà sinh chuyện
gì rối rắm. Song chưa tới ngày giờ Chúa định, nên thỉnh thoảng bịnh nhẹ lần hồi,
cách một đôi tháng thì đà đặng lại vừa đủ sức mà làm việc bổn phận thường ngày.
Từ ấy thì người bớt sức, nên sau đã phải đi nghỉ dưỡng bịnh bên Hongkong một ít
tháng.
Xem ra Chúa muốn dùng bịnh
hoạn mà làm cho đầy tớ mình nên thanh sạch càng ngày càng hơn, cho nên càng lớn
tuổi, càng gần mồ, thì những cơn bịnh càng kế tiếp nhau nhặt hơn. Mấy năm sau hết
người đã đau đi đau lại nhiều lần, mỗi chuyến phải nằm nhà thương nhiều ngày,
có khi nhiều tháng.
Thường bịnh phát ra thì
làm cho người nóng rét mê man mà té xuống, có khi ban đêm người té dụi xuống đất
nằm lâu giờ, mà chẳng ai hay biết. Hết cử rét thì ống chơn sưng lên mà đau nhức
riết, phải bỏ mà chịu nhiều tuần, nhiều tháng. Trong những cơn thể ấy, thì thấy
rõ người đã thông thuộc đàng hãm mình chịu khó thuận theo ý Chúa là thể nào. Bịnh
hành người phải nhức nhối khốn cực quá lắm, phải nằm thíp thíp một bề, dầu khi
ăn uống, ngủ nghê, dầu khi có chuyện cần, cũng không dời chỗ đặng, mà người
cũng bằng lòng vui mặt, chẳng thở than rên siếc, không trách móc năn nỉ, một nhớ
Chúa treo trên thánh giá không trở trăn co duỗi đặng, và mừng mình có phước giống
Chúa chút đỉnh. Sự cực lực nặng nề hơn hết là không đặng làm lễ, có khi cũng
không đặng rước lễ nữa. Khi người lành mạnh, lo giúp kẻ liệt, thì người hằng lo
cho kẻ ấy đặng của nuôi linh hồn thêm sức mạnh và sự an ủi bề trong, cho kẻ ấy
chịu nổi các sự đau đớn trong cơn bịnh hoạn. Có khi mỗi ngày người phải đem
Mình Thánh Chúa thể ấy, tháng nầy sang tháng kia, mà chẳng những không phàn
nàn, lại lấy làm vui mừng mà giúp kẻ liệt cho đặng sự an ủi cực trọng nầy. Cho
nên khi người đau đớn mà chẳng đặng rước Chúa, thì dễ hiểu lòng người náo nức ước
ao là thể nào. Nhưng vậy người hằng cầm lòng theo ý Chúa, mà nhịn đói thiêng
liêng nầy, cho đặng thông công cùng sự Đức Chúa Giê-giu đã chịu Đức Chúa Cha bỏ
người trong vườn Giếtsêmani và trên cây thánh giá. Người chẳng tỏ dấu buồn
trách, chẳng nói tiếng gì cay đắng.
Khi người đặng khỏe lại
khá khá, mà quan thầy chịu cho người làm lễ, thì biết lòng người hớn hở vui
khoái là thể nào.
Lối năm 1914, khi người bị
một trận đau thể ấy, mà mạnh lại rồi, thì thầy thuốc chỉ cho người một phép bó ống
chơn, cho máu châu lưu cho đều, chẳng nghẹt lại mà làm bịnh, thì người cứ giữ
phép ấy, cũng lo hằng ngày dùng thuốc nọ thuốc kia, và canh giữ trong mọi sự, dầu
chút đỉnh, cho đến trong món ăn, thì đã đặng tạm yên gần trót hai năm, mà bịnh
không trở lại. Song nó càng nín lâu, thì chừng trở lại nó càng làm khốn; vì năm
ngoái đây, người đã bị lại, mà thêm sưng cho đến trên bắp vế, lại xung quanh mắt
cá phải đau đớn cho đến đỗi để bàn chơn cho bằng thẳng đều đặng mà đạp đất thì
chịu không nổi. Người phải nằm trên giường một bề lâu ngày hơn mọi chuyến khác,
và nhức nhối hơn mấy phen trước.
Ông thánh Phanxicô
Salesiô xưa tính rằng: phải chi được thì người muốn chịu cơn bệnh sau rốt cho
dai hết sức, cho đặng ai nấy giúp người thì mòn mỏi đã thèm, đến khi người tắt
hơi, thì không còn ai buồn tiếc mà cực lòng, mọi người sẽ vui, ít nữa là nhẹ
lòng, vì khỏi giúp người nữa. Không biết cha Humbert có bắt chước ông thánh ấy
mà ước ao như vậy chăng. Mà người chịu cơn bịnh sau hết dài ngày lắm, và khi
xem ra khá lại, thôi nằm nhà thương, trở về ở phòng riêng trên lầu, thì cũng còn
cần phải có kẻ giúp đỡ lo lắng cho người liên. Song những kẻ giúp người dầu lâu
dài khó nhọc, thì cũng hằng vui lòng tận tình thương lo giúp đỡ, chẳng tiếc
công, chẳng sờn lòng, chẳng phàn nàn năn nỉ, vì thấy gương người bằng lòng chịu
sự đau đớn khốn cực trước mặt mình luôn, ra như cha con đua nhau mà lập công
làm sáng danh Chúa
Bỡi quan thầy chẳng cho
người xuống thang lầu mà vào nhà thờ, thì Đức cha cho dọn bàn thờ trong một
phòng trên lầu, cho người đặng làm lễ misa hằng ngày. Sự ấy an ủi người lắm,
song người chưa lấy làm đủ, hằng ước ao cho đặng bước vào nhà thờ mà cầu nguyện
trước Mình Thánh Chúa. Trong giờ làm lễ riêng trong phòng, thì người nói có những
sự bề ngoài giúp người, những ảnh tượng, đèn đuốc, bàn thờ, đồ lẽ, kinh đọc
trong sách lễ, có sức làm cho người cầm lòng trí mà sốt sắng được. Còn sự viếng
Mình Thánh Chúa, phải ở trên lầu mà ngó nhà thờ, thấy cây cối và mặt tiền nhà
thờ mà thôi, thì khó bề giục lòng sốt sắng; dầu là khi cả nhà đang hát kinh chầu
phép lành, người ở đó mà ra sức hiệp cùng kẻ cầu Chúa trong nhà thờ, thì trí lòng
cũng bản lảng, chẳng bằng khi đặng phước quì gối trong nhà thờ mà ngó nhìn nhà
tạm, hay là Mình Thánh Chúa để ra nơi hào quang trên bàn thờ. Song dù người ước
ao, mà cũng không đặng, vì quan thầy sợ người lên xuống thang lầu, thì bịnh vội
trở lại, nên cứ một bề ngăn cấm sự ấy. Cha đã quen đàng bỏ ý riêng mà vưng lời
chịu lụy, thì cứ bề tế lễ theo ý Chúa, mà chịu sự lòng đói khát thể ấy cho trọn
bề theo chơn Chúa.
Trong lúc sau hết nầy,
thì người cũng còn lãnh việc dạy dỗ được một hai chút mà giúp trong nhà trường
đang hồi túng rối, các cha tây phải đi lính, thiếu giờ mà dạy dỗ. Người vui mừng
mà làm việc người đã làm trót đời người. Và xem ra khá lại được, đến đỗi quan
thầy ưng chịu cho người lên xuống một hai lần mỗi ngày. Chẳng hay đó là ngọn
đèn nháng lên, khi dầu đã tiêu hao không còn gì mà cháy đặng nữa.
Bịnh cũ người không đáo lại
làm hung, mà trong tuần thánh năm nay, thì người phải ho, nghẹt họng nói không
muốn ra tiếng, và đau trong họng. Dẫu vậy người cũng cứ làm việc hằng ngày
không bỏ. Ngày lễ Truyền Phép người cũng còn đi xuống, vào nhà thờ kiếm thế cho
đặng ở lại mà chầu chực Chúa.
Quan thầy thấy bịnh tấn
thì lo hết sức mà chặn lại, song không nổi. Họng cha trước đã đau đớn lắm, rồi
kế tê bại, không còn biết đau nữa. Chúa nhựt và thứ hai lễ Phục Sinh cha cũng
còn rán làm lễ đặng, mà thứ ba phải ngưng lại. Người khó nói cho ra tiếng lắm,
và trong cổ khò khè theo hơi thở, trong mình cực lực lắm. Nhưng vậy người cũng
cứ ngồi tòa làm phước cho mấy con linh hồn đến xưng tội, không dè mình đã gần đến
giờ ra khỏi thế nầy. Cho đến ngày thứ tư, cha Artif đến thăm mà thấy người phải
lao lực quá, e người phải hấp hối, mới nói cho cha Bề trên Hay và Đức Cha liệu
làm các phép bí tích sau hết cho người. Đang khi chịu các phép thì người tỉnh
táo lắm, mà đọc theo các kinh Hội thánh và thưa đủ hết. Người chịu viaticô cũng
một lượt chiều ấy.
Qua ngày thứ năm người
còn rước lễ đặng, nuốt Mình Thánh Chúa dễ; cả ngày người cũng tỉnh cùng nhìn biết
hết mấy kẻ đến thăm. Đến ngày thứ sáu, người cũng còn rước lễ đặng một lần nữa,
mà lần nầy khó mà nuốt Mình Thánh Chúa vào. Rước lễ rồi, người vụt chổi dậy một
mình mà ngồi cho đặng cám ơn Chúa. Song không còn sức trong mình, nên cách một
phút phải nằm xuống mà cám ơn cho rồi. Những ai đến thăm thì người ngó nhìn và
tỏ mặt bằng an mỉm cười, mà không còn nói gì đặng nữa; tay người cùng chẳng ra
dấu gì nổi nữa.
Dầu phải đau đớn nhức nhối
cực lực, mà người cũng cứ theo ý kẻ giúp người trong hết mọi sự; khi cho uống
thuốc men hay là chút nước thịt, thì cũng rán uống, không chối cãi; khi phải
thay đồ đạc, cổi ra, mặc lại, động địa đau đớn, khi phải dời chỗ, để nằm trên
ghế dài, đem sang qua trên giường, thì người cũng để làm tự ý, chẳng chút cản
trở. Còn một giây nữa mà lập công thêm, mà làm cho linh hồn thêm sạch sẽ tinh tấn,
thì người cứ việc từ bỏ ý mình mà làm cho xác thịt chết cho tuyệt phen nầy.
Mới an tịnh, bịnh phát
làm xung, người phải hấp hối, cách chừng nửa giờ hồn lìa xác phàm trần thế, mà
về cùng Chúa nghỉ ngơi hoan lạc đời đời. Hồi ấy là 10 giờ rưởi sớm mai thứ sáu,
13 Avril 1917, thiếu ba ngày thì trọn 67 tuổi.
Sớm mai thứ bảy, Nhà trường
hát lễ cầu cho linh hồn người đặng mau khỏi nơi luyện hình mà về chầu Chúa, có
hai Đức Cha chầu lễ. Chiều lại 4 giờ ba khắc, các cha xung quanh Sài Gòn tựu lại,
hát Vesperas, đoạn Đức cha Quinton
làm phép xác và đưa đến đất thánh các Cha Dòng Sai, tại Chí Hòa, kế lăng Đức
cha Vêrô, có đông người đưa theo, nhiều người nhà phước, nhứt là các chị ông
thánh Phaolồ.
Ớ cha yêu dấu, bao lâu
cha còn ở thế, thì hằng lo lắng đêm ngày làm việc Chúa trọn bề trung nghĩa chín
chắn một mực, chẳng hề nới tay, không sợ mệt mỏi, không kể đau đớn, những ra sức
cho đặng thêm sáng danh Chúa, cho các linh hồn cha đã lãnh mà dìu dắc đặng thêm
biết Chúa càng ngày càng hơn, đặng tỏ rõ đàng đi nước bước trong sự sống thiêng
liêng, mỗi ngày ưu cần tiến thảo trừ căn những tính hư nết trái, trồng trỉa vun
quén cội nhơn đức, hầu lên cây lành sinh trái tốt. Những lời cha dạy dỗ, thì
cha giữ trước mà làm gương cho con cái. Nay cha chẳng còn nói năng ra vào giữa
chúng con, mà lời cha đã ghi tạc trong lòng trí làm mẹo mực, đâu dám bỏ quên, một
cứ thìn lòng nhắc nhớ nắm giữ, ngõ cho việc cha đã gây dựng nên toàn hảo.
Nguyện xin Chúa nhơn từ
trả công và thưởng cha muôn ngàn quá hơn những việc cha đã làm; xin Chúa chóng
đem cha vào sự sáng Chúa, mà hưởng vui vẻ Chúa dịu dàng quá hơn trí nhơn loài
suy thấu. Cha đến nơi vĩnh an, mựa nở quên chúng con còn đang lao lực nguy hiểm
giữa chốn chiến trường, dưng lời nguyện giúp cầu bàu cho chúng con vững gối, cứ
theo đàng cha đã chỉ, mà làm sáng danh Chúa, cho đặng ngày kia cha con vui vầy
cùng nhau trên cõi thường sinh muôn kiếp.
…
Tới đây, trước khi hạ
bút, tôi gởi lời cùng con cái cha Fêlicê, xin miễn chấp, trước là vì dầu tôi đã
cả lòng lãnh việc dẫn tích cha lành, nhưng đã chậm trễ, làm cho có kẻ phải náo
nức chờ đợi lâu ngày quá; sau là vì dầu tra tay biên chép, mà không nói cho đủ
đều, nhiều chuyện bỏ qua, có đều hoặc chẳng chính đính. Vốn khi người vừa tắt
hơi, tôi muốn tra tay lo tức thì, song càng suy càng nhớ, thì càng lo e đã cả
lòng cậy mình mà lãnh việc quá sức mình, nên hóa lưỡng lự mà ra trễ. Song nghĩ
lại, cứ đợi chờ thì ra chuyện thất ngôn, mà lại thất nghĩa, nên cũng phải đánh
liều. Bỡi không sức làm hạnh cha được, nên chỉ lo nhắc tích về những đều đại
cái vừa đủ tạc hình cha nơi giấy mực, cho kẻ đã biết cha thì vừa đủ nhìn được
đó là người ta đang thương tiếc. Vì vậy trong đoàn con cái cùng người quen lớn,
có kẻ thấy chuyện nầy, có người thấy đều kia đã bỏ qua chẳng doãn lại. Xin phô
kẻ ấy nhiêu dung, vì trong chút sự tích mọn nầy chẳng thể nào nói đủ đều đặng,
lại tôi cũng chẳng dám hỏi han cho hết mà chép hạnh người; sự ấy xin nhượng lại cho ai đó tài sức thế thần. Phần
tôi, đã ghi chép bấy nhiêu đều mà đền ơn trả thảo theo sức mọn tôi, xin kẻ xem
nhớ đến cha mà giúp lời cầu nguyện, thì cũng chớ nỡ quên tôi trước mặt Chúa.
Mátthêu
Đức.
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1917
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét