-
Sinh
ngày: 04. 01. 1939
-
Tại
Họ Búng – Hưng Định, Thủ Dầu Một
-
Rửa
tội ngày 04. 04. 1939, tại Họ Búng
-
Vào
Tiểu Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn ngày 01. 08. 1950
-
Vào
Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn năm 1961
-
Thụ
phong phó tế ngày 29. 04. 1967
-
Thụ
phong linh mục ngày 14. 05. 1968, tại Trung tâm Bác ái Lái Thiêu
-
Linh
mục giáo phận Phú Cường
-
Phục
vụ Tiểu Chủng viện Thánh Giuse Phú Cường: 14. 06. 1968 – 28. 02.
1973
-
Chánh
xứ Giáo xứ Gò Dầu. Quản họ Hiệp Thạnh: 28. 01. 1973 – 10. 11. 1990
-
Quản
lý giáo phận Phú Cường: 28. 10. 1990 – 1999
-
Tổng
đại diện Giáo phận Phú Cường: 27. 05. 1993 – 22. 02. 1995
-
Giám
quản Giáo phận Phú Cường: 23. 02. 1995 – 05. 04. 1999
-
Tổng
đại diện. Chánh xứ Chánh tòa Phú Cường: 05. 04. 1999 – 20. 05. 2010
-
Tổng
đại diện. Đặc trách UB Bác ái xã hội: 2010 – 2013
-
Tổng
đại diện. Chánh xứ Giáo xứ Búng: 30. 04. 2013 – 23. 07. 2018
-
Hưu
dưỡng tại nhà nghỉ dưỡng Giáo phận Phú Cường: 23. 07. 2018
-
Qua
đời lúc 04:00 ngày 14. 08. 2022, tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương
-
Hưởng
thọ 83 tuổi, 54 năm Linh mục
-
Hài
cốt đặt tại nhà Vượt qua của nhà thờ Chánh toà Phú Cường
.Làm mới ngày 14. 08.
2022
MỘT
LẦN TIỄN CHÂN NGƯỜI.
Từ ngày nghỉ hưu, tôi ít
gặp Ngài.
Lúc trước, mỗi lần đi lễ ở
đâu, thấy ngài tôi đến cúi mình chào Ngài. “Chào Cha Tổng”. Ngài có nụ cười hiền
hậu, giọng nói nhẹ nhàng, chậm rãi và luôn hỏi “nay con ở đâu”. Ngài vẫn nhớ
tên tôi, và luôn hỏi han mỗi khi tôi chào hỏi Ngài. Tiếp đến ngài hỏi: “ở đó thế
nào” và rồi thường Ngài kể về xứ đó trước đây ra sao.
Dường như vì chức vụ và
lòng trắc ẩn, xứ nào Ngài cũng biết, cũng hiểu và dành tình thương.
Tôi dành cho Ngài sự kính
trọng đặc biệt, không hiểu vì sao. Trong sự kính trọng đó, có cả sự yêu mến và
khâm phục. Không chỉ có tôi, mà tôi nghĩ rằng nhiều linh mục, biết Ngài, tiếp
xúc với Ngài đều có sự khâm phục và kính trọng đó.
Từ khi còn bé, mới mười mấy
tuổi, hình ảnh Ngài in đậm trong tâm trí tôi. Ngài hay lên vùng truyền giáo ở
vùng Lộc Ninh thăm viếng và cũng quan tâm việc mở mang đất đai và làm cao su
trên này để giúp cho giáo phận.
Trong tư cách giám quản
và quản lý, hay sau này làm Tổng Đại diện, với sự hiền từ, mực thước, rộng lượng
và nhẹ nhàng, đi tới đâu, Ngài cũng làm cho các linh mục thấy thoải mái.
Tôi nhớ có lần Ngài lên
khai tâm cho các đồng bào theo Đạo, cả vài trăm người, mà bố tôi có nhận đỡ đầu
cho cả trăm người trong đó, lúc đó tôi chỉ là chú giúp lễ, nhưng tôi nhìn thấy
sự hân hoan vui sướng trong ánh mắt Ngài. Thời đó, đi lại khó khăn, dân chúng
còn nghèo, cái gì cũng túng thiếu, thế mà Ngài đã có viễn kiến muốn làm cả hàng
trăm mẫu cao su để giáo phận có ngân quỹ mà lo cho việc truyền giáo. Vì nhiều
lý do, dù cho chương trình đó thất bại, lúc đó tôi chưa đủ hiểu chuyện, sau này
biết rõ, tôi càng khâm phục về tầm nhìn, cũng như về sự vị tha của Ngài dành
cho những người làm cho ngài phải thiệt hại.
Thế nhưng, tôi chưa bao
giờ nghe Ngài nhắc đến chuyện cũ, cũng không hề trách móc một ai, tất cả đều được
Ngài đón nhận cách bình thản, trong sự quan phòng kỳ diệu của Chúa; mà nếu
không có ơn thánh, khó mở lòng ra chấp nhận.
Dù chức cao quyền trọng,
và là cây đại thụ của giáo phận, nhưng đón tiếp ai, già trẻ, giàu nghèo hay với
bất kỳ ai, Ngài cũng đều vui cười và đầy bác ái. Lòng nhân hậu và quảng đại vô
bờ bến của Ngài trải dài từ công việc caritas cho tới giúp đỡ cho người nghèo
hay trong cả việc quản trị.
Ngài có tài viết văn hay
rất hay, cách dùng chữ sắc bén, cách liên tưởng hiện thực, văn chương của Ngài
thì bay bổng lắm. Lần nào tĩnh tâm năm, cám ơn việc gì hay lễ gì trọng đại của
giáo phận, Ngài đều có những bài rất hay, sâu sắc và đạt đến mức một áng văn bất
hủ. Sau này, từ khi Ngài nghỉ hưu, các linh mục chẳng bao giờ được nghe những
câu chữ đắt giá đó nữa.
Sau lễ Tạ ơn 50 năm Linh
mục, ngài nghỉ hưu ở nhà hưu dưỡng. Sức khoẻ ngài xuống cấp nghiêm trọng, tay
chân ngài phải chịu nhiều đau đớn vì bệnh parkinson. Thế nhưng Ngài vẫn kỉ
cương, vẫn mực thước, vẫn dâng lễ, vẫn nhận lời làm lễ nếu còn đi được. Từ ngày
đó, tôi cũng ít có dịp gặp Ngài, chỉ hỏi han qua những cha sống trong Toà giám
mục cũ về Ngài.
Nhận được tin Ngài mất,
tôi thấy hụt hẫng, mất mát và thương tiếc. Thương Ngài đã cống hiến và phục vụ
cho giáo phận này qua nhiều đời giám mục với chức vụ và nhiều công việc trọng yếu,
nhưng luôn luôn vâng phục, khiêm nhường, tận tuỵ, chu đáo và hiền hậu.
Hôm nay tiễn Ngài về nơi
an nghỉ, đông đảo linh mục, tu sĩ, giáo dân đến tham dự. Dù nhiều người đã lâu
không gặp ngài, nhưng trong lòng, vẫn còn những tình cảm quý trọng dành Ngài
cho cách đặc biệt. Nhiều linh mục, còn đến tận Nhà Vượt Qua xứ Chánh Toà để ở lại
với Ngài thêm một chút.
Cả một cuộc đời cống hiến,
hy sinh, phục vụ, với bao trọng trách, giờ này Ngài an nghỉ trong nhà Chúa như
là người quản lý trung tín và khôn ngoan, đã biết làm lãi cho Chúa rất nhiều
các nén bạc quý giá.
Nhìn hũ tro cốt còn lại,
nhìn nấm mồ đá nhỏ xíu nơi Nhà Vượt Qua, rồi cũng xong một kiếp người! Nhưng
mai này, sẽ còn nhiều người nhắc về các nhân đức của Cha cố Micae Lê Văn Khâm:
hiền hậu, bác ái, nhân từ, mực thước, khôn ngoan, chậm rãi, vui tươi, tận tuỵ…
Làm cha sở chính toà, làm
Tổng đại diện, làm giám quản giáo phận, làm cơ quan caritas… Ngài muốn nằm lại
tại nhà thờ chính toà này.
Đó là ước muốn sau cùng của
Ngài. Như lời tâm sự của Ngài, “ở đây sướng hơn, vì có người nhớ, đọc kinh, cầu
nguyện, có người nhang khói”. …
Một lần tiễn chân Cha,
con xin cúi mình trước Cha.
Hẹn gặp cha trên quê hương nước trời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét