Tiểu sử THÁNH PHÊRÔ ĐOÀN CÔNG QUÍ
Thánh
Phêrô Đoàn Công Quí là con ông Antôn Đoàn công Miêng và bà Anê Nguyễn Thị
Trường, cha mẹ vốn dòng đạo đức, quyền quí, nguyên quán ở Miền
Trung (Huế), đã từng phò vua giúp nước. không rõ vì lý do nào (có thể vì
lý do tôn giáo), vào cuối đời vua gia long (1802 – 1820), hai ông bà cùng vài
người con di cư vào Nam, ngụ tại Búng, thuộc làng Hưng Định, tổng Bình Chánh,
tỉnh Thủ Dầu Một, nay là tỉnh Bình Dương. Chính tại nơi đây, Phêrô Đoàn Công
Quí, con út trong sáu người con mở mắt chào đời vào năm 1826, dưới triều vua
Minh Mạng. Tên của các anh chị của cậu Phêrô Quí là: Phêrô Đoàn Công Thới,
Maria Đoàn Thị Bường, Augustinô Đoàn Công Đã, Micae Đoàn Công Rạng, Antôn Đoàn
Công Báu.
Với
tư chất thông minh, được cha mẹ cho học chữ nghĩa, hấp thụ nền nho học, lại
được sống trong một gia đình lễ giáo, cho nên cậu Quí có nhiều điều kiện phát
triển thuận lợi. Từ lâu, cậu Quí có lòng ước ao hiến dâng cho Chúa trong đời
sống linh mục, phụng sự Chúa và phục vụ các linh hồn. Cậu thường lui tới và học
hỏi với Cha Tám, bổn sở họ Búng và rất mong muốn được ở luôn với Cha, để tập
tành đời sống tu trì.
Tuy
nhiên, cha mẹ thấy cậu con út thông minh, rất có tương lai, nên giữ cậu ở lại
nhà, cố gắng lo liệu để cậu chuyên chăm theo đường học vấn, làm vẻ vang cho cả
gia tộc, giữ nghiệp tông đường: và vì thế, đã thu xếp cho người anh của cậu là
Antôn Báu đi tu. Thế nhưng, sau một thời gian sống đời tu trì, cảm thấy không
thích hợp, người anh liền xin rút lui, trở về gia đình. Lúc bấy giờ, cha mẹ mới
bằng lòng cho cậu Phêrô Quí tiếp tục thực hiện ý định ban đầu.
Năm
1847, cậu được Cha Tám giới thiệu với cha bề trên Gioan Miche (sau này làm Giám
Mục). Lúc đầu, cậu học tiếng Latinh tại nhà cha bề trên; sau đó cậu được nhận
vào chủng viện Thánh Giuse, lúc đó đặt tại Thị Nghè, do cha Borelle (Hòa) làm
bề trên. Năm sau, 1848, thầy Quí được gởi đi du học tại đại chủng viện Hội Thừa
Sai Paris ở Pénang (Mã Lai). Sau 7 năm được hướng dẫn, học tập và tu đức tương
đối đầy đủ, thầy lên đường trở về quê hương vào ngày 11.4.1855. Sau khi đến
chào Đức Cha Lefèvre (Ngãi), thầy được phép về thăm gia đình, nhưng không còn
được gặp phụ thân, vì ông Đoàn Công Miêng đã qua đời…
Lúc
ấy vua Tự Đức đang cấm đạo gắt gao. Năm 1851, nhà vua ra lệnh: Tây
Dương đạo trưởng thì phải trảm quyết, ném đầu xuống sông, xuống biển; đạo
trưởng bổn quốc, dù quá khóa hay không, cũng phân thây; ai điềm chỉ, hay bắt
đặng, thì được thưởng tám lạng bạc, lại còn được ăn nữa phần gia tài của đạo
trưởng; còn ai chứa chấp, thì phải phân thây, quăng xuống sông; trẻ em nhà ấy
thì phải đày đi phương xa…”
Thoạt
đầu, Đức Cha Lefèvre (Ngãi) dặn thầy phải tạm ẩn náu qua ngày; nhưng sau đó,
lại sai thầy đi săn sóc, dạy dỗ, an ủi giáo dân các họ đạo. Thầy đã từng đến
rao giảng, an ủi và giúp bổn đạo tại Rạch Giá, Năng Gù. Thầy có lòng tôn sùng Đức
Trinh Nữ một cách đặc biệt. Với tài hát xướng được phú bẩm, thầy ca tụng Đức
Maria bằng những bài thánh ca mà thầy rất ưa thích.
Ba
năm sau, nhận thấy thầy là người có nhiều khả năng về học thức, đạo đức và tinh
thần tông đồ, Đức Cha đã lần lượt cho thầy chịu chức “cắt tóc” và phó tế. Vào
tháng 9.1858, Đức Cha truyền chức Linh mục cho thầy tại Thủ Dầu Một.
Thánh
lễ “mở tay” được cử hành đơn sơ tại họ Gò Cầy (bây giờ là ở cuối đường Lò Chén
Chùm Sao, đi vào khoảng một trăm mét). Trong khi cha Phêrô Quí còn nán lại ở
nhà ông Trùm Tín một thời gian, thì có tin báo về Cai Tổng Lại ở Lái Thiêu, là
một người rất ghét đạo: “ nhà ông Tín chứa chấp cố đạo”. Ở Lái
Thiêu có viên thư lý quen thân với nhà ông Tín khi nghe biết câu chuyện, liền
lấy ngựa chạy đến nhà ông Tín, vừa báo tin cho ông, vừa xin hốt thuốc cho người
mẹ. Ngay chiều hôm đó, ông Tín liền sai con cả của mình là ông Chư, dùng một
chiếc ghe, xuôi đường con rạch cầu Cây Trâm, hướng ra phía vàm Búng và đi thẳng
về Bà Lụa, đưa cha Phêrô Quí đi lánh nạn. Khi đi dọc theo bờ rạch, có người
nhìn thấy, và hỏi, thì ông Chư vừa chèo ghe, vừa trả lời: “ Anh này
(chỉ cha Phêrô Quí) là người quen ở Bà Lụa, rủ tôi lên đó để bắt chim quốc”…Tối
hôm đó, cai tổng Lại cùng một tốp lính đến nhà ông Tín, lục soát khắp nơi, nhưng
không tìm ra giáo sĩ nào cả.
Cha
Phêrô Quí được tuyển chọn vào cánh đồng truyền giáo trong giai đoạn đặc biệt
của đất nước. Tháng 9 năm 1855, quân Pháp và Tây Ban Nha đem quân đánh ở Cửa
Hàn (Đà Nẵng), khiến nhà vua càng căm ghét các giáo sĩ nước ngoài và đạo Thiên
Chúa; nhà vua ra chiếu chỉ thứ hai, không những lùng bắt các đạo trưởng, mà còn
bắt cả giáo hữu phải xuất giáo, triệt hạ các thánh đường, phá hủy các cơ sở tôn
giáo. Vào ngày 7.6.1857, chiếu chỉ cấm đạo lần thứ ba ra đời, kèm theo những hình
phạt càng gắt gao hơn trước. Cuộc bách hại ngày càng khốc liệt hơn.
Thế
nhưng, nhiệt tình truyền giáo đã làm cho cha vượt thắng mọi gian khổ, đe dọa và
hiểm nguy. Sau một thời gian phục vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định và
Kiến Hòa, cha Phêrô Quí được bổ nhiệm làm phó xứ họ đạo Cái Mơn (Gp Vĩnh Long),
do cha Tùng làm cha sở.
Điều
nổi bật nơi cha Phêrô Quí, đó là lòng ước ao được đổ máu mình ra vì danh Đức
Giêsu Kitô . Theo lời cha
Borelle kể lại:
Đến
Cái Mơn được 3 tháng, ngày 10.12.1858, xảy ra vụ quân lính đến bao vây tu
viện Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên Tội, để truy lùng các giáo sĩ, nhưng
không tìm thấy vị nào ở đó. Sau lúc cướp phá, quân lính bắt giam 5 chức
việc trong làng và các nữ tu để tra tấn, khai thác về chỗ ở các đạo
trưởng. Không sợ nguy hiểm, sẵn sàng trao hiến mạng sống vì đàn chiên, thay vì
ẩn mặt theo như sự khôn ngoan thường tình, cha Phêrô Quí đã đến giữa đám quân
lính, thuyết phục họ thả các chức việc ra, bằng cách cho họ
một vài trăm quan tiền. Sau đó ít hôm, lòng ước ao được tử đạo càng nung nấu
khi nghe biết những hình khổ ghê rợn mà các nữ tu Matta Lành và Ysave Ngọ phải
gánh chịu trong tù, cha liền viết cho cha bề trên Borelle những lời lẽ sau đây:
“
Thưa cha, thật con đang ở giữa những nguy hiểm, nhưng Thiên Chúa gìn giữ, chưa
để con phải bị bắt, vì tội lỗi con còn nhiều, chưa được phúc chịu khổ vì Chúa.
Thế nhưng, ngày xưa Chúa Cứu Thế đã phải chết treo trên thánh giá. Ôi, chớ gì
con được mang gông cùm và xiềng xích. Tuy nhiên, con chưa đáng được trang điểm
bằng những dấu chỉ như thế. Con rất ước ao được đến dinh tổng đốc để khuyến
khích các vị tuyên xưng đức tin. Khi nào cha cho phép con làm điều đó?”
Khi
cha Borelle nhờ người nhờ người chuyển lời đến cha Phêrô Quí là nên rời xa giáo
xứ, để tránh những cuộc lục soát, bắt bớ, thì cha trả lời:
- “Nếu
cha muốn con đi khỏi nơi đây, con xin cha viết cho con lệnh truyền chính thức;
nếu không, con sẽ ở lại tại nhiệm sở như là không có lệnh nào của cha cả”. Cha
Phêrô Quí chỉ bỏ ý định này, khi có lệnh rõ ràng của cha bề trên Borelle (Hòa).
Lần
khác, với một sự rung cảm đạo đức sốt sắng, cha diễn tả lòng ước ao được tử
đạo: “ Chớ thì tôi không được diễm phúc chiến đấu và chết vì vinh quang
của Chúa sao?- ước gì xiềng xích trở thành những vòng đeo cổ quí giá, gông cùm
trở thành vòng đeo tay! Than ôi, hãy xem các bạn hữu đã được ngành lá chiến
thắng; còn một mình tôi ở đây như người lính canh bị bỏ quên. Ôi! Lạy Chúa, xin
ban phúc tử đạo cho con”.
Từ
đó, cha cải trang thành thường dân, đi thăm viếng, an ủi và ban các bí tích cho
bổn đạo.
Lúc
bấy giờ, theo lời cố vấn của Đức Cha, cha Borelle đã gởi một chiếc thuyền và
một vài tín hữu để đưa cha Phêrô Quí ra khỏi sự nguy hiểm tiềm ẩn, bằng cách
đưa cha , đến với cha Borelle; và hai này sau đó, 27.12.1858, cha đến họ đạo
Đầu Nước (Cù Lao Giêng), tỉnh An Giang, là thủ phủ của huyện, như là cha sở
mới, trú ngụ tại nhà ông Câu Emmanuel Lê Văn Phụng; lúc ấy, cũng có cha Jean
Claude Pernot đang ở đó. Với tính tình vui vẻ, hiền lành, hòa đồng với mọi
người, cho nên mới ở đặng mấy ngày mà các giáo hữu rất trân trọng, kính mến cha
Phêrô Quí. Cha luôn luôn an ủi những người đau khổ, nhủ bảo những kẻ khô khan
nguội lạnh, thương yêu giúp đỡ những ai túng thiếu...nhờ đó mà tinh thần đạo
đức rất sốt nóng, phấn khởi, lan rộng.
Thế
nhưng, như cha Borelle kể lại: “ Trong khi tôi muốn đưa cha đi khỏi chỗ
nguy hiểm, thì lại đưa cha đến chỗ tử đạo như cha hằng ước mong”.
Bởi
vì, vừa đến nơi được mười hôm, thì một cuộc đại bố ráp xảy đến.
Nguyên
do là vì, có hai anh em bên lương, chuyên hút sách và bài bạc tên là Trần Văn
Mưu và Trần Văn Nên, ở làng Tân Đức (Cù Lao Giêng), muốn lợi dụng cơ hội làm
tiền, dựa theo sắc lệnh cấm đạo của nhà vua, bởi vì món tiền thưởng vốn có một
hấp lực với một số lương dân trong vùng. Khi thấy những người tín hữu đang làm
nhà thờ tại Cù Lao Giêng, hai tên này liền cảnh báo cho biết là họ vi phạm luật
nước, cố ý moi tiền của họ đạo. Ông Câu Phụng vì được quan huyện bao che, nên
không thèm để ý đến những lời đe dọa của hai tên này, và cũng không cho chúng
gì cả. Khi nhà thờ được xây dựng xong, hai tên này đến tố giác với quan tổng
đốc. Quan tỉnh sai quan huyện điều tra như thường lệ; quan huyện nhắm mắt làm
ngơ, nên mọi việc vẫn êm xuôi.
Hai
tên bất lương nén giận, rình cơ hội khác. Từ năm 1855, ông Câu Phụng đón tiếp
một vị thừa sai người Pháp, cha Jean Claude Pernot (Định). Bọn chúng đã nghi
ngờ, theo dõi, quyết tâm tìm bắt quả tang, để trả thù ông Câu Phụng và để nhận
món tiền thưởng. Sau nhiều ngày theo dõi, một đêm nọ, hai tên này trèo lên cây
xoài, phía sau nhà ông Phụng, ẩn nấp, rình rập. Vào khoảng 8 giờ tối, cha
Pernot, không hề biết có nguy hiểm, đã đi ra khỏi hầm trú để hít thở không khí
trong lành, bị chúng trông thấy. Hôm sau, chúng liền đi tố cáo với quan tổng
đốc Châu Đốc là Cao Hữu Dực: “Nhà ông Phụng có chứa chấp Tây Dương Đạo
Trưởng, ở đó có nhà dòng, nhà thờ và chủng viện, vi phạm lệnh cấm của nhà vua”.
Chúng cũng không quên xin phái quan lãnh binh đi bắt, chứ đừng báo quan huyện,
vì quan này thông đồng với người Công giáo.
Nhận
được tin chắc chắn, ngay lập tức, quan tổng đốc cho gọi quan lãnh binh, ra lệnh
chuẩn bị khoảng 20 chiếc thuyền và khoảng ba trăm quân lính đến Cù Lao Giêng.
Biết được lý do có cuộc hành quân đó, một người giáo dân vội vàng báo tin cho
ông Câu Phụng. Ông Câu Phụng thoạt đầu không tin, vì cho rằng: ông
huyện Cù Lao Giêng rất tốt đối với ông, chắc chắn phải báo cho ông biết.
Trong
lúc đó, các chiếc thuyền đã đến Chợ Thủ, cách họ đạo Đầu Nước khoảng 6 km. Rồi,
thuyền đi chậm lại để đến đêm thì tới nhà ông Phụng.
Tại
Chợ Thủ, có một họ đạo nhỏ. Khi nhìn thấy một số đông thuyền bè và quân lính,
ban quới chức biết chắc là, họ đến để bắt nhà truyền giáo, ông Câu Phụng và các
Kitô hữu họ đạo Đầu Nước. Ngay lập tức, ông Biện Phan Văn Vĩnh liền tức tốc báo
tin cho ông Câu Phụng biết. Đến nơi, thấy ban quới chức còn tụ họp tại nhà, ông
liền kể lại những điều ông đã thấy. Ông Câu Phụng vẫn còn hoài nghi, vì quá tin
nơi quan huyện.
Tuy
nhiên, việc xuất hiện của đội thuyền làm cho giáo dân xôn xao. Không còn nghi
ngờ gì nữa, vì có tiếng mái chèo đập nước nghe rất rõ. Vội vàng người ta cất
giấu đồ thờ phượng, tượng ảnh, và che giấu cha Pernot. Dưới sự hướng dẫn của
ông Gabriel Trần Văn Vị, giữa đêm khuya, cha Pernot ẩn trốn trong rừng rậm, và
cũng khuyên cha Phêrô Quí cùng đi, nhưng vị linh mục bản xứ, không nao núng sợ
hãi, trả lời:
- “
Thưa cha, xin Cha trốn nhanh đi! Còn con, con là người An Nam, con sẽ không gặp
khó khăn đâu”.
Bấy
giờ cha Pernot ra đi; còn cha Phêrô Quí ở lại, cố gắng thu xếp, cất giấu đồ
đạo, và ẩn nấp dưới sàn nhà.
Sau
một lúc, quân lính đến nhà ông Câu Phụng, siết chặt vòng vây, để không ai có
thể chạy thoát. Họ lục soát khắp nơi, nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy gì cả.
Ông lãnh binh giận dữ, năm cổ ông Câu Phụng, tát vào mặt, buộc phải khai báo nơi
giấu Tây Dương Đạo Trưởng. Trước câu trả lời của ông Câu Phụng là không có một
linh mục Tây phương nào ở nhà ông, ông lãnh binh liền quát:
- “
Vậy thì đạo trưởng ở đâu?” Và đe dọa, nếu không tuân lệnh, sẽ bị đánh đòn. Thấy
chủ nhà sắp sửa bị tra khảo, cha Phêrô Quí liền đứng ra, khẳng khái tuyên xưng:
- “
Chính tôi là đạo trưởng”.
- “
Không phải! Mày không phải là đạo trưởng, hãy nộp ngay Tây Dương Đạo Trưởng ra
đây! Vì có kẻ đã trông thấy và tố cáo”.
- “Không
hề có một Tây Dương Đạo Trưởng nào ở đây cả. Chính tôi là đạo trưởng, tôi rất
vinh dự dạy đạo cho những ai muốn nghe”, cha Phêrô Quí khẳng định.
Thấy
người trả lời rất hùng hồn còn rất trẻ, ông ta không tin; nhìn thấy một bé trai
khoảng 10 tuổi, con nuôi của ông Câu Phụng đang ở đó, liền hỏi nó. Nó không
nói. Ông ta sai lính đánh cậu bé mấy roi, bắt cậu phải chỉ chỗ đạo trưởng đang
ở. Bị đánh đòn đau, đứa bé liền chỉ cha Phêrô Quí: “Chính ông này”
Không
chần chừ, ông ta ra lệnh trói chặt cha Phêrô Quí, ông Câu Phụng và 32 giáo dân
khác, áp giải về Châu Đốc. Hôm đó là ngày 07.01.1859, nhằm lễ Ba Vua.
Đến
Châu Đốc, cha Phêrô Quí bị dẫn ra trước mặt quan tổng trấn của tỉnh, ông ta hỏi
cha có phải là đạo trưởng hay không. Cha trả lời:
- “
Tôi là đạo trưởng”.
- “
Ông có muốn tuân lệnh vua và bỏ đạo không?”
- “
Tôi giữ đạo Chúa trên trời, tôi sẽ không bỏ đạo. Cho dù quan có lên án tôi thế
nào đi nữa, tôi sẵn sàng chấp nhận”.
Sau
đó, các cuộc hỏi cung cứ tiếp tục.
Người
ta hỏi cha Phêrô Quí:
- “
Cha mẹ ông ở đâu?”
- “
Cha mẹ tôi đã mất”.
- “
Ai đã dạy dỗ ông?”
- “
Tôi đã đi đến các nước phương Tây, tôi đã trở về qua đường Kampot, Ou Dong, và
tôi đến nhà ông Lê Văn Phụng”.
- “
Những sách đạo và đồ lễ từ đâu mà có?”
- “
Sách vở và đồ đạo thuộc về một linh mục khác, tên là Thăng, đã bị đi tù cách
đây 12 năm”.
Trước
lệnh truyền phải chối bỏ đức tin, cha đáp lại:
- “
Làm sao tôi có thể bỏ đạo cho được, bởi vì tôi là người dạy đạo!”
- “
Nếu ông bỏ đạo, Ta sẽ trả tự do cho ông; nếu không, Ta sẽ lên án chém đầu ông”.
Quan tổng trấn gằn giọng.
- “
Thưa quan lớn, nếu quan chiếu cố đến tôi, thì quan đã biểu tỏ cho tôi một nghĩa
cử đặc biệt, nếu quan ra lệnh giết chết tôi, tôi sẵn sàng tuân phục phán quyết
của quan, còn việc chối bỏ Thiên Chúa, tôi sẽ không bao giờ làm”.
Trong
một lần điều tra khác, cũng chính câu hỏi đó được đặt ra, cha Phêrô Quí đành
phải trả lời:
- “
Các ngài chỉ làm mất thời giờ vô ích, tôi sẽ không chối bỏ đức tin của tôi”
Quan
tổng trấn sai người đưa cha đến nhà của ông ta, ra sức dụ dỗ cha bỏ đạo, hứa sẽ
trả tự do cho cha. Trước những lời hứa hẹn này, cha đã trả lời một cách nhã
nhặn, nhưng rất cương quyết:
- “
Tôi sẽ không chối bỏ đức tin của tôi”.
Trước
lời khẳng định kiên trì và can đảm này, viên quan chức hiểu rằng, tất cả những
cố gắng của ông ta không có một chút kết quả nào cả. Vì thế, ông ta đã ra
phán quyết kết án xử trảm cha Phêrô Quí, vì đã phạm tội rao giảng tà đạo, và
ông ta gởi phán quyết này về triều đình Huế, để xin nhà vua phê chuẩn.
Nhiều
tháng trôi qua trong khi chờ đợi án lệnh từ Huế. Người bị kết án vẫn
sống bình thản trong việc thực hiện đức bác ái đối với các bạn tù khốn khổ, đối
với binh lính và cai tù, cha chia cho họ một chút ít tiền mà cha đã nhận được
từ họ đạo, hay của các người tín hữu.
Một
phần lớn thời gian trong ngày được dành để cầu nguyện, lần chuỗi, đọc sách
nguyện, nguyện ngẫm, vv…
Cha
ăn chay thường xuyên, ước muốn chuẩn bị cho ơn phúc tử đạo bằng sự hy sinh, hãm
mình. Đối với các tín hữu đến thăm, cha đã gởi gắm những lời khuyên bảo đạo
đức. Chẳng hạn như, cha nhắn nhủ với anh Phêrô Tâm, một trong số các người con
của ông Câu Phụng:
- “
Hãy năng đến tòa xá giải. Đừng bỏ việc đọc kinh cầu nguyện. Đừng phạm tội, để
linh hồn luôn mạnh mẽ”.
Nhiều
linh mục đến thăm viếng và trao ban cho cha niềm vui và ơn huệ được tha thứ tội
lỗi; trong số đó, có các cha Tùng và Khánh; riêng cha Vọng thì thường xuyên đem
Mình Thánh Chúa cho cha. Và cha Phêrô Quí cũng nài xin các cha giúp lời cầu
nguyện, để mình luôn kiên vững làm chứng nhân cho Đức Kitô.
Theo
lời cha Borelle kể lại: Có hai người tín hữu bị bắt chung với cha, vì sợ cảnh
lưu đày khắc nghiệt, khổ sở, đã yếu đuối chối đạo. Cha liền khuyên nhủ, nâng đỡ
họ chỗi dậy, và giúp cho họ can đảm chấp nhận phần của họ trong thập giá của
Đấng Cứu Thế. Họ đã ăn năn trở lại.
Cũng
theo lời cha Borelle: Một tháng sau khi bản án kết thúc, khi được tin quân đội
Pháp vừa đánh chiếm Sài Gòn, cha Phêrô Quí liền viết thư cho cha Borelle, để
cha ấy biết là, cha Phêrô Quí sợ rằng, chiến thắng này sẽ cất đi cái cơ may
được tử đạo của cha. Cha Borelle hy vọng điều đó. Tuy nhiên, cha Borelle không
ngừng khuyến khích cha Phêrô Quí liên lỉ hiến dâng lên Thiên Chúa lễ hy sinh
đời mình, để ít nhất là công nghiệp xứng đáng, nếu vòng hoa thiên tuế vuột khỏi
tầm tay, và cũng để không bị bất ngờ, nếu hạnh phúc này không dành cho cha.
Niềm
hy vọng này đã không được thực hiện. Bản án đã được phê chuẩn, chuyển
đến Châu Đốc vào khoảng 7 giờ tối ngày 30.7.1859, và cuộc hành quyết đã được ấn
định vào ngày hôm sau. Tuy nhiên, vì sợ rằng, các Kitô hữu sẽ giải thoát
linh mục, và biết rằng, họ tin cậy vào hiệu lực của thánh giá hơn là trong lòng
dũng cảm riêng tư của họ, quân lính đã đặt các thánh giá trước tất cả các cửa
khám, và đồng thời, đã xiềng xích cẩn thận tất cả các tù nhân cho đến khi nào
xong cuộc hành quyết.
Ngày
31.7.1859, từ sáng sớm, một tốp lính xếp hàng trước nhà giam. Viên chỉ huy bước
vào trong và báo cho cha Phêrô Quí là đã đến giờ thi hành án.
Cha
Phêrô Quí mặc áo chỉnh tề của ngày lễ và chít “khăn đóng” đẹp đẽ trên đầu. Quân
lính đeo vào cổ cha một tấm thẻ bằng gỗ, viết tên tuổi và bản án của cha. Trong
thời gian đó, cha Phêrô Quí nói với ông Câu Phụng cùng bị xử với cha:
- “
Đây là giờ Thiên Chúa dành cho chúng ta trong cuộc chiến đấu cuối cùng. Chúng
ta hãy vui lòng can đảm chịu đựng vì Ngài”.
Đoàn
người ra đi. Cha Phêrô Quí rực sáng niềm vui, say đắm cầu nguyện, tiến bước
giữa hai hàng quân lính cầm gươm giáo. Người lính đi trước, tay cầm thẻ, thỉnh
thoảng đọc to:
“
Tự Đức thập tam, An Giang tỉnh, kỷ vị niên, nhất nguyệt, sơ nhị thập.
Thẻ:
Đạo trưởng Đoàn Công Quí, tùng gian đạo, tụ tập đạo đồ, đạo chủng, đạo thư: Bất
khẳng quá khóa; vi phạm quốc pháp; luật hình trảm quyết. Tư thẻ”.
(“
Niên hiêu Tự Đức thứ 13, tỉnh An Giang, năm Kỷ vị, tháng 7, ngày mồng 2.
Thẻ:
Linh mục Đoàn Công Quí, theo tà đạo, tụ tập giáo hữu, chủng sinh, sách đạo:
Không chịu bước qua ảnh tượng chuộc tội; phạm luật nước, luật hình phải chém.
Tư thẻ”)
Gần
đến Cây Mét, cũng được gọi là Bến Chà Và, nơi được chỉ định để hành quyết, họ
dừng lại.
Rất
nhiều tín hữu đến gần cha Phêrô Quí, xấp mình cúi lạy cha ba lạy. Cha cám ơn,
và khuyên nhủ họ:
- “
Anh em thân mến, trước tiên hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa. Hãy lánh xa những
thói hư tật xấu. Hãy tập tành các nhân đức”.
Sau
đó, cha nói với ông Câu Phụng:
- “
Ông hãy quì gối xuống, ăn năn thống hối. Tôi sẽ ban phép giải tội cho ông”.
Khi
nghe những lời đó, viên quan ra lệnh cho binh lính:
- “
Hãy để họ làm gì thì làm, sau đó chúng ta sẽ tính”.
Sau
khi đọc công thức tha tội cho ông Câu Phụng, cha Phêrô Quí, đến lượt mình, cầm
tượng Đức Mẹ trong tay, trên ngực đeo một hộp nhỏ đựng xương các Thánh, quì
xuống, giục lòng ăn năn thống hối. Sau đó, gỡ dải băng trên đầu, cha trao cho
Gioan Baotixita Chính, một thanh niên đã giúp đỡ cha trong tù. Anh này cúi lạy
cha ba lạy, và thưa:
- “
Thưa cha, khi cha về trời, xin cha cầu nguyện cho con!”
Viên
quan kiên nhẫn theo dõi những lời từ biệt rất cảm động, sau khi thấy rằng, mọi
sự đã xong, liền ra lệnh cho lý hình:
- “
Sau ba hồi chiêng, các người hãy chém đầu bằng ba nhát!”
Tên
lý hình cột chặt đôi tay của cha ra phía sau lưng; nâng đầu cha lên cao, bảo
cha quì xuống và giữ thẳng đứng. Sau đó, hắn rút gươm ra và chém…Nhát thứ nhất
chỉ làm một vết thương, nhát thứ hai làm đức một phần xương cổ, nhát thứ ba đứt
đến cổ họng, và sau cùng, nhát thứ tư tách lìa đầu khỏi thân.
Cha
Phêrô Quí hưởng phúc tử đạo, từ giả cõi đời, trở về quê hương vĩnh cửu lúc vừa
tròn 33 tuổi, sau một năm thi hành chức vụ linh mục.
Trong
khi chịu khổ hình ghê gớm, cha Phêrô Quí vẫn giữ vẻ bình thản, điềm tĩnh, không
sợ hãi, rên la, than van…Quan quân và đám rất đông dân chúng chứng kiến, rất
ngạc nhiên về sự can đảm phi thường đó, đã nhắc đi nhắc lại:
- “
Chưa bao giờ, chưa bao giờ chúng ta đã nhìn thấy một người chết như thế!”
Thân
xác của cha Phêrô Quí để năm tại nơi hành quyết đến 9 giờ sáng cho đến 7 giờ
chiều, theo như lệnh truyền.
Lúc
bấy giờ, ông G.B Chính xin phép được cử hành những nghi lễ cuối cùng cho người
chết, và sau khi đã nhận được sự chấp thuận, ông lau chùi những vết máu, gỡ lấy
hộp xương Thánh và tượng Đức Trinh Nữ mà Đáng tử đạo còn cầm trong tay, lắp đầu
vào thân, đặt thân xác cha vào trong một linh cửu.
Di
hài của cha Phêrô Quí và ông Câu Emmanuel, người cùng được phúc tử đạo với cha,
được rước về một lượt. Đến Vàm Nao, gọi là Thuận Vàm, thì có cha Vọng và
các quới chức họ đạo Năng Gù đón nhận thân xác của cha Phêrô
Quí đưa về nhà thờ Năng Gù, để cho mọi người kính viếng, một ngày một đêm. Sau
đó, được an táng trong nhà thờ, theo nghi lễ Hội Thánh.
Năm
1959, nhân dịp kỷ niệm Bách chu niên cuộc tử đạo, thi hài của cha được cải táng
đưa về chủng viện Cù Lao Giêng.
Để
tuyên dương công trạng, nhân đức và công nghiệp một vị tông đồ đầy nhiệt huyết,
Đức Thánh Cha Piô X đã tôn phong cha Phêrô Đoàn Công Quí lên bậc chân phước (Á
Thánh) vào ngày 02.5.1909, cùng với ông Câu Emmanuel Lê Văn Phụng.
Vào
ngày 19.6.1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng cha Phêrô Quí lên bậc
hiển thánh, cùng với ông Câu Emmanuel Lê Văn Phụng, và 115 vị tử đạo khác.
(Tài liệu tham khảo)
Từ
trong ngục thất, cha Phêrô Quí gởi về cho thân mẫu một bức thư bằng văn vận, ý
tứ cao sâu, lời lẽ cảm động (thân phụ đã qua đời).
Ký
vụ thân mẫu đôi chữ tường tri
Kể
từ ngày con vâng lệnh ra đi
Lòng
lã chã lệ rơi luồng lụy
Ngỡ
tới đây hành công biện sự
Một
hai tháng về viếng từ thân
Ai
ngờ rầy sớm cách lìa phân
Trời
cùng nước không hề vầy hiệp
Đạo
làm tôi đua giữ lời răn dạy
Cho
nên con vâng lệnh chỉ sai
Đàng
xa xôi cách trở chi nài
Miễn
đặng tiếng vâng lời chịu lụy.
Kính
thưa má,
Khi
con tới An Giang tạm nghỉ
Gặp
chầu trời mở hội khoa thi
Nên
con phải liều thân ứng cử
Ấy
là Thiên Chúa chi sở nhiên
Nhân
tất tùng chi, nhi dĩ hỉ.
Dầu
trăng trói gông cùm tù rạc
Chốn
ngục hình xiềng tỏa chi nề
Miễn
vui lòng cam chịu một bề
Cho
trọn đạo trung thành hiếu tử
Chí
con dốc đền công ơn Chúa
Dạ
con làm báo ngãi mẹ cha
Xin
mẫu từ chớ chút phiền hà
Một
vui chịu cho danh cha cả sang.
Mẹ
ở lại lần hồi ngày tháng,
Việc
hôm mai cần cán giữ gìn,
Gắng
công phu việc Chúa kính tin,
Hằng
khắc kỷ dẹp yên ba giặc….
Nẻo
tam cừu thìn mình chớ mắc,
Giữ
mười răn cẩn mật đừng sai,
Dẫu
đời này ly biệt bao nài,
Sau
ắt cùng một nhà vầy hiệp.
(Nay thơ, Thân tử Bá Đa Lộc Đoàn Công Quí. Linh mục
bản quốc)
Trích:
Năm Thánh 2010 tại Châu Đốc
Patriciô
Nguyễn Văn Tiền
(Sưu
tầm & Biên soạn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét