Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời, thì hơn tin cậy ở người trần gian. Cậy nhờ thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời. Tv 118

Thứ Năm, 20 tháng 5, 2010

Linh mục Phaolô Võ Văn Bộ

Linh mục Phaolô Võ Văn Bộ


-         Sinh ngày 06. 02. 1916

-         Tại họ Lái Thiêu

-         Họ Tiểu Chủng viện và Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn

-         Chịu chức 1 ngày 21. 09. 1940, do Đức cha Phêrô Martinô Ngô Đình Thục

-         Chịu chức 2 ngày 29. 03. 1941 do Đức cha Phêrô Martinô Ngô Đình Thục

-         Chịu chức 3 v& 4 ngày 20. 9. 1941 do Đức cha Jean Cassaigne

-         Chịu chức Phó tế ngày 20. 03 1943 do Đức cha Jean Cassaigne

-         Linh mục ngày 18.9.1943 do Đức cha Jean Cassaigne

-         Linh mục Giáo phận Sài Gòn

-         Tháng 10. 1943  - tháng 01. 1945: Phó sở Hiệp Hòa

-         Tháng 02.  1945 – năm 1946: Cha sở họ Tầm Hưng

-         Từ năm 1946 – 1947: Cha sở họ Cầu Đất. Từ năm 1946 – 1948: kiêm coi  họ Lạc Nghiệp, Đơn Dương, Trại Hầm.

-         Từ năm 1947 – 1951: Phó sở thứ nhứt Đà Lạt (Phụ trách giáo dân Việt Nam trong giáo xứ Đà Lạt) .Đặc trách giáo sở Saint Jean ( An Bình).

-         Từ năm 1951 - 1954: Cha sở họ Di Linh. Cha sở người Việt đầu tiên

-         Từ năm 1955 – 1963: Cha sở họ Xóm Chiếu

-         Từ năm 1960 - 1975: Giám đốc Tông đồ mục vụ Giáo phận Sài Gòn. kiêm coi họ đạo Chợ Đũi

-         Thành lập trung tâm Fatima Bình Triệu: 08/12/1966 – 06/01/1973

-         Thành lập tu hội nữ tử Bác Ái (Foyer de Charité): 1968

-         Linh hướng gia đình Hồn Nhỏ: 1977

-         Từ 1975 – 08.1977: Thành lập Giáo xứ Bình Triệu, Chánh xứ tiên khởi Giáo xứ Bình Triệu

-         Từ năm 08.1977 – 1986: Học tập cải tạo

-          Hưu dưỡng ở nhà hưu dưỡng Phú Cường và Chí Hoà

-          Qua đời ngày 06. 08. 2006, hưởng thọ 91 tuổi.

-         Mai táng tại Đất thánh Giáo xứ Bình Triệu.

Bài viết về Cha Phaolô Võ Văn Bộ:

I. Thành lập Trung-tâm Fatima Bình-Triệu
Năm 1962, phong trào quốc tế tông-đồ Fatima tổ chức cung nghinh tượng Đức Mẹ Fatima đi khắp mọi quê hương trên thế giới, trong đó có Việt-nam thân yêu của chúng ta. Trong cuộc cung nghinh tượng Mẹ đến vùng đất hoang vu gần cầu Bình-triệu bây giờ ( lúc đó chỉ có cầu Bình-Lợi bằng sắt), xe chở tượng Mẹ bỗng chết máy. Các thợ giỏi được huy động đến chữa. Sau hai tiếng đồng hồ coi máy, các toán sửa chữa đều bó tay, và nói: xe không hư gì cả, nhưng tại sao không chạy thì chúng tôi không biết. Cha Bộ, người tổ chức cuộc kiệu xin mọi người lần chuỗi cầu nguyện để xin ý Mẹ. Sau chuỗi 50 chục, xe nổ máy được. Ngài cầu nguyện: nếu Mẹ muốn, chúng con sẽ xây dựng một Trung-tâm Fatima tại đây kính dâng Mẹ. Xin Mẹ giúp chúng con thực hiện ý muốn của Mẹ.
Sau cuộc cung nghinh Thánh Tượng Mẹ Fatima, cha Bộ dò tìm xem ai là chủ khu đất hoang này, một khu đất rất thích hợp cho một trung tâm hành hương: khu đất rộng hai mẫu rưỡi, một mặt gần sát quốc lộ 13 và ga xe lửa Bình-triệu, một mặt có sông bao quanh, trên bến, dưới thuyền. Chủ muốn bán trọn khu đất với giá là 25 triệu đồng, một số tiền rất lớn, rất khó tìm ra lúc đó. Nhớ lại đã có lần Đức TGM Angêlô Palmas, Khâm-sứ Toà-thánh ngỏ ý muốn xây một nhà hưu-dưỡng cho các linh mục tuổi già an dưỡng, cha Bộ, với tư cách là Giám-đốc Trung-tâm Tông-đồ Mục-vụ Giáo- phận đến gặp Đức khâm-sứ, và sau đó đến gặp Đức TGM Giáo-phận. Đức TGM trả lời:
Đây là khu đất có vị trí thuận lợi về mọi mặt, là địa điểm tốt để thành lập một trung tâm đạo đức, nhưng về mặt tài chánh, toà TGM không đủ khả năng đi tới. Xin cha vui lòng báo lại cho chủ đất để ông khỏi trông đợi.
Như chúng ta biết, khu đất này rất đẹp, lại rộng, nhiều nhà kinh doanh muốn mua với giá cao hơn, nhưng ông chủ ưu tiên dành cho cha Bộ. Khi nghe Đức TGM nói Toà Tổng không đủ khả năng mua, cha Bộ không nản chí, vẫn tiếp tục cầu nguyện, xin các Đấng thu xếp. Để cho chủ đất an tâm, cha Bộ nói với chủ đất:
Xin ông cho hẹn hai tuần lễ để chúng tôi có thời gian suy nghĩ và trả lời dứt khoát mua hay không mua với ông.
Một chuyện bất ngờ xẩy đến: nhiều người đến đăng ký với cha Bộ xin mua một phần  đất, dù không quảng cáo hay đăng báo. Đất được chia thành lô nhỏ, với giá 200$/m2. Toà TGM xin mua một số để sau này lập họ đạo. Khu đất này sau xây nhà thờ Chúa Kitô, và hiện đang được tạm trưng dụng làm một phân khoa đai-học luật. Tổng cộng có trên 200 người đăng ký mua. Sau khi đã hết hạn đăng ký, cha Bộ mời tất cả những người đã đăng ký và đã trả tiền đến ngồi lại với nhau, trao đổi phương cách chia để rút thăm lấy phần đất của mình. Mọi thủ tục rút thăm, lập hồ sơ danh bộ sở hữu chính thức, đều tiến hành tốt đẹp.
Có được khu đất xây dựng như lòng mong ước, cha Bộ tiến hành lập một uỷ-ban bắt  tay vào việc xây dựng Trung-tâm Thánh Mẫu Fatima Bình-triệu. Ưu tiên số một là xây dựng một đài đặt tưỡng Mẹ Fatima cao 3m. Điêu khắc gia Nguyễn-văn-Thoại được chọn để thiết trí tượng đài, gọi là Đài Đức Mẹ Fatima Bình-triệu. Công trình xây dựng bứơc đầu rất khó khăn, gian nan: 5 cha con dựng lều tạm trú trong khu đất hoang, rắn rết, muỗi, kiến, bọ cạp, thường xuyên đe dọa tấn công.
Dù đã có miếng đất lý tưởng, nhưng trong túi ngài chẳng có đồng xu nào cả, ngài cùng 4 chị thiện chí và những người quan tâm đến công việc thực hiện tượng đài không ngừng cầu xin Mẹ để Mẹ sắp xếp cách nào tượng đài sớm hoàn thành để đoàn con của Mẹ có nơi lui tới kính viếng Mẹ. Chuyện bất ngờ xẩy ra: ông Lê-minh-Thu ngụ tại đường Chi Lăng đến dâng cúng một chi phiếu 100.000$. Việc chuẩn bị tượng đài như được thêm sức mạnh và lòng hăng hái, nên đã cố gắng thực hiện cho xong trứơc ngày 15 tháng 8 năm 1966.
• Tượng Mẹ được chở tới và đặt vào đế đúng 17 giờ ngày 10/8/66
• Sau đó, 2 cây nến được thắp trên tượng đài, những người hiện hiện đọc 3 kinh Kính Mừng tạ ơn Mẹ.
• Như đã định trước, chiều ngày 15 tháng 8 năm 1966, Đức TGM đến làm phép tượng đài, và dâng Thánh Lễ đầu tiên đánh dấu ngày trọng đại khai mở một trung tâm dâng kính Mẹ Fatima đầu tiên tại Việtnam.
Từ đó đến nay, lớp lớp người đến đây thăm Mẹ, tâm sự với Mẹ, và khi ra về, người người đều hân hoan vui sướng, như thể mình đã được ấp ủ, yêu thương, nâng đỡ của Mẹ Trời, đặc biệt là ngày 13 tháng 10 hằng năm.
Xin kể ra đây 2 chuyện lạ đã xẩy ra tại tượng đài: một chuyện xẩy ra trước 1975, và một chuyện xẩy ra sau 1975.
Chuyện xẩy ra trước 1975:
Sau khi nhiều ngừơi đến viếng tượng đài và mỗi tuần có thánh lễ, vào một ngày, trên con sông phía sau tượng đài, có một toán tuần tra 4 người đi trên xuồng máy: 3 không Công giáo, và một người là Công-giáo. Họ bảo nhau:
Cái bà đó đứng trên đài cao , người ta đến chiêm bái cầu xin, mà sao chiến tranh vẫn cứ xẩy ra. Thật là vô ích. Mình bắn hạ bà đó xuống đi.
Họ thách thức ai bắn trúng tượng sẽ được đãi một chầu nhậu. Ba anh chàng không Công-giáo bắn xối xả vào tượng, nhưng không trúng, anh theo đạo Công-giáo nói: để tao bắn cho. Anh nổ súng, và bắn trúng ngay ngón tay phải út, của bàn tay giơ lên. Thế là bàn tay phải Mẹ mất ngón út. Đồng thời chuyện lạ xẩy ra: Anh té nhào xuống sông, 3 ngày mới tìm thấy xác.
Đươc tin dữ, cha Bộ làm Giờ Thánh đền tạ, và nhờ nhà điêu khắc Thoại đến làm lại cho Mẹ ngón tay út khác. Ông vội vã đến lấy kích thước, thực hiện ngón tay khác, rồi đem đến gắn vào. Nhưng loay hoay cả ngày cũng không thể nào gắn vào được: gắn xong xuôi, leo xuống ngắm nghía, ngón út mới lại rơi xuống. Ông buồn chán, thầm xin Mẹ giúp. Ngồi xuống, ông giuỗi chân ra, thì tình cờ ngón chân ông chạm vào một sợi giây thép trong cái lỗ hổng người ta dùng dựng lều; ông kéo lên, reo mừng sung sướng:"đúng là ngón tay út của Mẹ bị bắn rớt". Ông leo lên gắn vào, ngón dính được vào bàn tay và ngón út ấy vẫn tồn tại cho tới ngày nay. Có điều lạ, ông không thể nào làm cho liền hoàn toàn như lúc ban đầu. Vết đứt, dù có làm liền, rồi cũng lại xuất hiện vết sẹo. Ông vẫn thường tâm sự: "Mỗi lần tôi được gọi đến để tô điểm lại tượng Mẹ, tôi thấy tượng Mẹ đã trở nên mỗi ngày mỗi sống động hơn, nếp áo cũng mỗi ngày mỗi uyển chuyển hơn. Quả thực, tôi đâu có đựơc tài này".
Chuyện lạ sau năm 1975:
Cha Phaolô có thói quen ra đài Mẹ cầu nguyện hằng ngày, nhưng mục đích chính của ngài là có mặt thường xuyên để những ai muốn đến toà cáo giải thì cha sẵn sàng đáp ứng. Hôm ấy, có một bà ăn mặc chỉnh tề, trang nghiêm lên đài Mẹ, ôm theo một bó hoa lớn, đặt dứơi chân tượng đài, rồi ra về, nhưng chị loay hoay nhiều vòng trong tượng đài không thể ra được. Cha thấy lạ, đến hỏi chị, chị nói: Con không thể ra được vì các cửa đều khoá. Cha Bộ rất ngạc nhiên, nói với chị ta: Chị nhầm rồi, các cửa đều mở, không khoá. Chị thử kiểm lại đồ xem có quên gì trên đài không. Lúc đó chị thú nhận: đã để một khối chất nổ trong bó hoa.
II. Linh-phụ đầu tiên của Tu-hội Bác-ái Bình-triệu
Dù đang phải đôn đốc xây dựng ngôi Thánh-đường Chúa Kitô được Đức TGM làm lễ đặt viên đá đầu tiên ngày 8 tháng 12 năm 1966 và khánh thành vào ngày 6 tháng 1 năm 1973, cha sắp xếp công việc xây cất, trao cho ông Tri tiếp tục công việc giang dở, và dù đang giữ những chức vụ quan trọng của các hội-đoàn công-giáo tiến hành, như: linh hướng Hội-dòng Ba Cát-minh, giám-đốc đoàn con Đức Mẹ, giám-đốc Thiên-hội Giáo-hoàng Truyền-giáo, cha vâng lời Đức TGM sai đi một số nước trên thế giới để nghiên cứu và học hỏi thêm tinh thần linh-đạo của một số Cao-trào Công-giáo Tiến-hành trên thế giới, như tinh thần linh-đạỉo của Tu-hội Bác ái ( Foyer de Charité ) bên Pháp.
Tới Marseille, ngài dừng chân tại Hội-dòng Cát-minh Bordeaux một tuần để tham dự và học hỏi cách thức sinh hoạt của hội-dòng. Tới Toulouse ngài dừng chân một tháng để học hỏi về Thánh-Mẫu-học. Và cuối cùng, ngài được cha Finet, lúc đó là Giám-đốc Trung-tâm Bác-ái tại Châteauneuf de Galaure, tiếp kiến. Cha giám-đốc giới thiệu ngài với cha Oury để hai vị trực tiếp trao đổi với nhau về tinh thần của Tu-hội Bác-ái. Qua 4 tháng học hỏi, tiếp xúc với các linh phụ tu-hội Bác-ái (cha Célestin Katézéra ở Phi Châu, cha Pierre Ghuet Đài-loan), ngài được cha Finet gọi về nhà mẹ bên Pháp thụ huấn tinh thần tu hội. Hằng tuần, ngài được gặp chị Marthe Rôbin (quen gọi chị Mạc) một lần. Ngài kể có lần ngài được cha Finet cho ngài kiệu MTC cho chị Mạc với lời dặn: "Cha hãy cẩn thận giữ MTC cho thật chặt kẻo MTG sẽ tuột khỏi tay cha đó". Nhưng dù đã được nhắc nhở trứơc và đã thận trọng giữ MTC thật chắc, nhưng khi vừa bứơc được một chân vào phòng chị Mạc, MTC đã vuột ra khỏi tay cha và bay thẳng tới miệng chị Mạc.
Tưởng cũng nên nói đôi giòng về chị Mạc. Có lần Chúa nói với chị:
- Cha muốn làm một vài việc mới mẻ… một lễ Hiện-xuống mới của tình thương.
Chị sinh ngày 13 tháng 3 năm 1902, cha là Giuse Robin, mẹ là Amélia Celestin Chosson, ông bà giữ đạo thật hoàn hảo. Lần đầu tiên được rứơc Chúa khi chị 10 tuổi ngày lễ Mông-triệu năm 1912, chị tâm sự:
Tôi tin rằng lần rứơc Chúa lần đầu ấy là lần mà Chúa biến tôi thành sở hữu của Người. Tôi tin rằng, kể từ lúc ấy, Người đã chiếm trọn tôi.
Tháng 8 năm 1918, chị thấy đau nhức toàn thân, không ăn uống gì được, đôi mắt nhức không thể nhìn ánh sáng, nằm liệt giường bất động. Trong cơn bệnh, chị thị kiến thấy Đức Mẹ, và tình trạng bại liệt của chị đã khả quan hơn, có thể ngồi xe lăn. Ngày 15 tháng 10 năm 1925, ngày kính Thánh Têrêsa Avila, chị toàn-hiến cho Chúa Cha. Kể từ 25 tháng 3 năm 1928, chị hoàn toàn bại liệt, nằm trên giường, tay phải để trên ngực, tay trái dọc thân mình. Có lần quỷ cám dỗ chị không được, đã vả vào miệng chị, gẫy 2 cái răng.
Cuối tháng 9 năm 1930, Chúa Giêsu đến với chị và nói:
- Con có muốn nên như Cha không?
Và chị đã đáp lại tiếng gọi của Chúa. Qua 2 tháng 10 năm 1930, thứ Sáu đầu tháng, Chúa Giêsu lại đến với chị. Chị kể:
Lúc đó, tôi cảm thấy một ngọn lửa nóng bừng, đó là ngọn lửa từ Chúa Giêsu phát ra, giống như một luồng ánh sáng… Trứơc hết Chúa Giêsu yêu cầu tôi dâng đôi tay. Tôi thấy như có một lưỡi dao phóng ra từ trái tim Người , rồi chĩa thành 2 ngọn, một ngọn đâm thủng bàn tay phải tôi, một ngọn đâm thủng bàn tay trái. Nhưng cùng một lúc, có thể nói được rằng, đôi bàn tay tôi bị đâm thủng từ bên trong. Sau đó, Chúa mời tôi dâng đôi bàn chân. Tức khắc tôi vâng lời bằng cách nới đôi chân và duỗi thẳng ra. Tôi cảm thấy, trong chớp mắt, lưỡi giao chĩa thành 2 ngọn, đâm thẳng vào hai bàn chân tôi…Tiếp đó, Chúa mời tôi chìa ngực và tim ra cho Người. Người đã yêu cầu tôi dâng đôi bàn tay và đôi bàn chân, tôi vâng lời càng nồng nhiệt hơn. Tôi hầu như ngất lịm suốt nhiều tiếng đồng hồ… Những tia lửa bỗng chốc tan biến như đã bất chợt phát ra. Chúa Giêsu mời tôi nhận Mão-gai, và Người đã đặt Mão-gai lên đầu tôi, nhấn thật mạnh.
Từ đó, chị Mạc đã mang 5 Dấu Thánh, nhiều người chứng kiến, và việc Chúa mời chị thông phần đau khổ với Chúa cứ diễn ra mỗi thứ Sáu Đầu tháng. Lương thực hằng ngày của chị qua mấy chục năm chỉ là MTC chị đón rứơc mỗi tuần. Chị được Chúa gọi về đoàn tụ trên Nhà Trời ngày 6 tháng 2 năm 1981.
Năm 1933, Chúa nói với chị Mạc:
- Cha muốn lập một Trung-tâm Bác-ái, ánh-sáng và tình-thương ở Châteauneuf. Trung-tâm này sẽ là một ốc-đảo sống động của tình thương, là nơi những việc kỳ diệu sẽ được thực hiện, là nơi Mẹ rất thánh sẽ làm những việc phi thường cho con cái loài người.
Và Chúa cam kết:
- Trung tâm tình thương này phải được xây dựng ngay, mặc dầu thời thế khó khăn, và Trung-tâm sẽ được tăng-lên và mở rộng đến các miền xa xôi trong cả địa-cầu.
Lúc đó, người ta vẽ xong bức hoạ Đức Mẹ Thông-ban Ơn-phúc và nhờ cha Finet đem đến cho chị Mạc. Qua cuộc tiếp xúc với chị Mạc, nhờ bức hoạ Đức Mẹ Thông-ban Ơn phúc làm gạch nối, cha Finet nhận làm linh hứớng cho chị Mạc. Theo chỉ thị của Chúa Giêsu, qua chị Mạc, một dụng cụ của Chúa, cha Finet xây-dựng Trung-tâm Bác-ái, Aùnh-sáng và Tình-thương vào năm 1936. Mục đích của trung-tâm là huấn luyện một đội ngũ nội-tá dấn thân theo đường lối mới của Giáo-hội Sống Phúc-âm giữa lòng dân tộc, với những mục tiêu:
1. Tổ chức những tuần tĩnh tâm, hướng dẫn người tham dự nghe Lời Chúa, rồi sống Lời Chúa.
2. Người tham dự tĩnh-tâm phải thực hành Lời Chúa trong cuộc sống sao cho mọi người trở thành tổ-ấm gia-đình, chan hoà yêu thương, tận tình giúp đỡ, không bao giờ thiếu vắng nụ cười, lời nói dịu ngọt.
3. Mọi thành viên thuộc tổ-ấm gia-đình Trung-tâm Bác-ái, ánh-sáng và tình-thương phải thực sự sống yêu thương nhau, sẵn sàng chia sẻ của cải, tinh thần vật chất, cùng nhau sống và rao giảng Tin-mừng.
4. Linh-phụ và chị trưởng chỉ được thay thế khi các người này được Chúa gọi về.
5. Hằng năm, các nội-tá được bồi dưỡng tâm-đức, tại chỗ hay tại Nhà Mẹ Chateauneuf và các nội tá địa phương có thể cung cấp nhân sự cho các TTBA khác trong nước mình.
Qua một thời gian thụ huấn để thấm nhuần linh-đạo của Trung-tâm Bác-ái, ánh-sáng  và tình-thương Quốc-tế Chateauneuf, cha Giám-đốc Trung-tâm Finet cử hành Lễ Sai-đi cho cha Bộ và cho phép thành lập một trung tâm Bác-ái, Aùnh-sáng và Tình-thương tại Việt-nam. Trở về VN, cha xin phép toà TGM Saigon lập Trung tâm Bác-ái tại Trung-tâm Fatima Bình-triệu. Khởi đầu có 4 chị tham gia, các chị là những người đã gắn bó với cha từ những ngày đầu khởi công xây dựng Trung-tâm Fatima .
Là một tu-hội giáo-dân, có quy củ và quy luật, dưới sự hướng dẫn của một linh mục trong tư thế linh-phụ, giúp tu thân , tu tánh theo gương Mẹ Maria, nhằm mục đích:
• Phục vụ đền thánh kính Mẹ Maria trong tư thế những người trợ tá điều hành.
• Phụ trách các giờ kinh nguyện, các giờ chầu MTC
• Phục vụ khách hành hương tĩnh tâm: hướng dẫn, sọan thảo và thực hiện chương trình, sắp xếp chỗ ăn ở.
• Phục vụ Thánh Lễ: trang trí bàn thờ, dẫn lễ, hát lễ,
• Phục vụ Đài Mẹ
• Chăm sóc bệnh nhân, mở phòng phát thuốc khám bệnh miễn phí,…
Trung-tâm Bác-ái Fatima Bình-triệu hiện có 38 chị dấn thân phục vụ tại Trung-tâm. Ngoài ra, cha còn mở thêm các TTBA tại Đồng-Lạc Lâm-đồng, và tại ấp Phú-Dong, Định-quán Đồng-nai….
III. Linh-hướng gia-đình Hồn-nhỏ từ 1977
Tháng 5 năm 1977, Chúa Giêsu đến với một giáo dân hèn mọn nhiều lần, bằng tình yêu đổ tràn trên linh hồn chị. Chúa yêu cầu chị hãy làm sống dậy nếp sống nhỏ trong đơn sơ, khiêm-ha, tín-thác. Thật là ngỡ ngàng và xa lạ vì chưa gao giờ chị nghe biết về điều này. Chị tìm tòi đủ cách, nhưng không có ai giúp chị một tia sáng nào. Chị cầu nguyện xin Chúa soi sáng để có được một linh hướng. Chị đến gặỉp cha Bộ, đang là Giám-đốc Trung-tâm Fatima Bình-triệu. Qua cầu nguyện xin ơn soi sáng, cha đã nhận lời. Thế là gia-đình Hồn-nhỏ bắt đầu hình thành. Tình cờ chị có được cuốn nhật ký của chị Magaritta Thông-điệp Tình-yêu Nhân-hậu gửi các Hồn-nhỏ ông Phạm-đình-Khiêm chuyển ngữ tiếng Việt ( sau này, hồn-nhỏ VN hải ngoại đã dịch lại ). Từ đó, cuốn Thông-điệp ấy và cuốn Thánh Kinh là những sách thiêng liêng chị siêng năng đọc. Cuốn Thông-điệp Tình-yêu Nhân-hậu đã trở nên thủ bản của gia-đình Hồn-nhỏ Việt-nam, trong nứơc cũng như ngoài nước.
Chính nhờ sự nâng đỡ, hướng dẫn thường xuyên của Chúa và Mẹ Maria, cũng như tinh thần bé nhỏ của cha linh hướng Phaolô, những người đến tận hiến, rồi toàn-hiến ngày càng đông. Chính cha linh hướng đã đi thăm hỏi, đốc thúc và khích lệ, cũng như tổ chức những buổi tĩnh tâm, gặp gỡ mà anh chị em hồn-nhỏ, giúp anh chị em đi sâu vào sống tinh thần nhỏ theo đường lối chị Thánh Têrêsa Hài-đồng, và dấn thân phục vụ đểỉ thánh hoá bản thân, giúp nhau sống đạo theo Phúc-âm, thực thi 3 huấn lệnh Fatima, yêu thay, đền thay. Cha luôn đồng hành và giúp anh chị em hồn-nhỏ sống trung thành với lời tận hiến. Đời sống nội tâm của các hồn-nhỏ càng ngày càng vững hơn, nhờ cha linh hướng đạo hạnh, thánh đức.
Xin nhớ đến chúng con, cha ơi!
Thương mến cha vô cùng.
Cảm tạ cha đã dìu dắt chúng con trên đường thơ-ấu thiêng-liêng này

Tác giả: Trần Văn Kiên


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét