Ði cùng vị mục tử ghé thăm Nhà dưỡng lão Phước Ðiền
vào một buổi chiều mát mẻ, chúng tôi được nghe, được thấy và cảm nhận tình cha
con ấm áp. Vừa thấy cha tiến vào, các cụ vội vã chào rồi ríu rít:“Sao cha đi
lâu vậy?”; “Cha còn đi nữa không?”; “Cha đi xa, chúng con nhớ cha lắm”…
Cha cười trả lời rồi hỏi lại xem họ ăn có thấy ngon, ngủ có yên giấc hay không
trong suốt những ngày cha con không gặp mặt vì ngài có việc phải đi xa một thời
gian. Tình cảm, sự quan tâm mộc mạc, chân thành của vị chủ chăn như ngọn lửa sưởi
ấm những tâm hồn đã bị bao gió sương cuộc đời làm thương tổn.
Sự quan tâm mộc mạc, chân thành của vị chủ chăn như
ngon lửa sưởi ấm những tâm hồn đã bị bao gió sương cuộc đòi làm thương tổn (ảnh:
Mai Lan)
Cách đây 7 năm, ngày 8.9.2010, Nhà dưỡng lão chính thức
đi vào hoạt động và hiện là chốn náu nương của 25 cụ già neo đơn, bị bỏ rơi. Mọi
thứ khởi nguồn từ những trăn trở của cha khi tuổi đời đã ở bên kia sườn dốc. “Bản
thân tôi cũng có lúc lo lắng về những ngày cuối đời, về nỗi cô đơn khi không có
người thân bên cạnh, nên tôi hiểu được suy nghĩ của các cụ. Thế là tôi đã bắt
tay vào việc thành lập một nơi để họ có chỗ che nắng mưa lúc tuổi xế chiều”,
ngài nói. Trước đó, đây là một mảnh đất hoang, cây cối um tùm nằm trong khu đất
của giáo xứ. Ðến năm 2007, cha cho khai phá để khởi công xây dựng nhà dưỡng
lão, và mời các nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái Chúa Kitô đến lập cộng đoàn tại đây
để cùng cộng tác trong việc chăm sóc cho các cụ.
Những ngày đầu hoạt động, khó khăn bủa vây khi thiếu
cái này, hụt cái nọ. Phải làm sao để có được nguồn kinh phí duy trì cơ sở luôn
là nỗi thao thức trong cha. Mặc kệ tuổi cao, không quản sức yếu, ngài chạy vạy
khắp nơi tìm kiếm những tấm lòng hảo tâm để xin giúp đỡ. “Các cụ ở đây được
chăm lo mọi thứ, từ chi phí sinh hoạt thường ngày đến thuốc men, ma chay… Tất cả
đều phải nhờ cha lo hết”, một nữ tu cho biết. Cái gánh ấy chẳng hề nhẹ nhàng
nhưng ông cố vẫn ráng mang trên vai bởi “đã có Chúa giúp và nhờ Chúa mà mọi
việc vẫn hoạt động trôi chảy cho đến hôm nay”, ngài đáp nhẹ tênh khi nghe chúng
tôi hỏi có lúc nào cha thấy mệt hay nản chí ?
Ðối với cha, đây không phải là công trình để đời hoặc
để được vinh danh, mà chỉ là việc phải làm trong vai trò là chủ chăn của đoàn
chiên được trao phó. Nhưng, với những con chiên trong họ đạo Phước Ðiền, mỗi một
hành động của ngài là dấu chỉ, là sự động viên giúp họ cố gắng sống tốt và biết
sẻ chia. “Nhìn cha già rồi mà còn lo giúp đỡ cho mấy bà cụ, cho những người
nghèo cả trong và ngoài Công giáo, tự nhiên tui thấy cảm động lắm. Rồi nghĩ dù
mình không giàu có nhưng có gì thì phụ nấy cho cha đỡ mệt”, chị Nguyễn Thị
Hồng, một giáo dân trong giáo xứ chia sẻ. Thế là người miếng thịt, kẻ bó rau, họ
gom góp gởi ông cố và các nữ tu để làm bữa ăn cho các cụ.
Khi được hỏi về con đường ơn gọi, về những ngày đầu của
đời dâng hiến, ngài đáp gọn: “Chúa gọi thì đi thôi!”. Rất đơn giản, nhưng
chúng tôi lại cảm nhận được sự xác quyết dấn thân của cha qua mỗi chặng đường.
Sau khi được thụ phong linh mục năm 1970, cha trở
thành thư ký cho Ðức Giám mục tiên khởi của giáo phận Phú Cường Giuse Phạm Văn
Thiên. Ðồng hành với vị chủ chăn của giáo phận trong giai đoạn đầu khi Phú Cường
còn rất non trẻ, cha vừa làm việc, vừa học hỏi kinh nghiệm, vừa chứng kiến sự
chuyển biến từng ngày của giáo phận nhà. Khi được hỏi về những ngày tháng ấy,
cha bảo: “Có gì đâu, Ðức cha bảo gì thì làm nấy, đi đâu thì đi đấy
thôi”. “Chỉ là người được sai đi”, là điều mà cha luôn tâm niệm và mang
theo qua từng ngày sống.
Rồi đến năm 1990, vị mục tử nhận bài sai về giáo xứ Bắc
Hà. Ông cố dân Nam bộ đến sống cùng giáo dân toàn người Bắc nên lạ lẫm từ phong
tục, tập quán, đến thói quen sinh hoạt hằng ngày. Chưa có kinh nghiệm mục vụ
giáo xứ, lại có nhiều khác biệt trong nếp sống với mọi người, nhưng cha cố gắng
học tập để hòa nhập với họ qua từng ngày. Lúc ấy vùng này còn nghèo, trong nội
bộ xứ đạo có nhiều mâu thuẫn, cha vừa trồng khoai, đậu ở khu vườn thuộc nhà xứ
để có thêm thu nhập và chia sẻ với bà con nghèo, vừa tìm cách gỡ bỏ những nút
thắt trong cộng đoàn. Dẫu có lúc vấp phải ngăn trở nhưng bằng tất cả nỗ lực của
mình, ngài đã làm cho bầu khí chung họ đạo được hòa hợp hơn. “Mình cứ sống
cùng với họ rồi từ từ cũng vui thôi”, cha khẳng định.
Cùng với các nữ tu đang phục vụ tại nhà dưỡng lão (ảnh:
Mai Lan)
Mang theo tâm tình “sống cùng” ấy về giáo xứ
Mỹ Khánh (năm 1996) rồi giáo xứ Phước Ðiền (từ năm 2000 đến nay), cha cùng với
mọi người dựng xây cuộc sống đạo đời sao cho tốt hơn. Mối ưu tư khôn nguôi của
ngài vẫn luôn dành cho những con người đang gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Không rầm rộ, không ồ ạt, cha âm thầm tìm hiểu rồi giúp đỡ họ khi thực sự biết
họ cần gì.
Người dân Phước Ðiền còn nghèo, có nhiều gia đình sinh
sống bằng nghề đánh bắt cá. Song, khi nước sông không còn ngọt lành như xưa thì
nguồn thu của họ cũng vơi dần. Từ đó, đời sống càng ngày càng bấp bênh, khốn khổ. “Không
đánh được cá thì họ đâu có tiền sinh hoạt, đâu có điều kiện cho con cái học
hành, nên cái nghèo lại hoàn nghèo, không biết bao giờ mới thoát khỏi”, cha
nghẹn ngào. Lo cho tương lai của đám trẻ, ông cố tìm nguồn học bổng để giúp các
em được đeo đuổi con chữ. Dù vậy, mối lo cơm áo, gạo tiền trong gia đình ngày
càng nặng trĩu thì nhiều em đành gác lại việc học để đi làm thuê, làm công
nhân…
Vì “sống cùng” nên cha hiểu và cảm được nỗi
lo, sự bế tắc trong cuộc sống của giáo dân mình, nên dù đã 76 tuổi, dù không có
người phụ giúp cơm nước, giặt giũ, đóng mở cửa nhà xứ…, cha vẫn tự mình làm hết.
Chúng tôi hỏi ngài nhỡ may gặp phải trái gió trở trời thì sao? Cha cười bảo: “Thì
đành chịu thôi”. Lời đáp bình thản vô cùng mà mang theo đó là cả sự tín thác
sâu đậm.
Chia tay ông cố hiền hòa của vùng quê nghèo Phước Ðiền,
dư âm trong chúng tôi là tiếng cười chân chất và bóng hình tận tụy của người mục
tử đã dành cả đời mình cho đàn chiên…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét