CHUYÊN
KHẢO VỀ NGƯỜI CÔNG GIÁO
XỨ
BÚNG
I.
NGUỒN GỐC NGƯỜI CÔNG GIÁO
Vùng đất ngày nay tạo ra
họ đạo Búng và Bình Sơn vào cuối thế kỷ 18, xưa kia thuộc về người Chăm
(Ciampois)(1). Họ bỏ vùng đất này không trồng trọt vì nước ngập phần
lớn, nhưng đất này phì nhiêu nhờ phù sa mà sông Sài Gòn bồi đắp, nên người Việt
đã nhận ra và đến cư trú ở đây.
Những người tín hữu đầu
tiên đến từ Huế. Những cuộc chiến tranh liên miên trong thời kỳ này ở vùng họ ở,
và mọi thứ nhũng nhiễu họ phải chịu đựng trong thời kỳ bách hại, bắt buộc họ phải
chọn một nơi yên ổn hơn và có tự do hơn một chút.
Xứ Búng ở cạnh Lái Thiêu là nơi bạn của Gia
Long là Đức Giám mục Adran(2) cư trú, dường như qui tụ đầy đủ những
điều kiện như họ ao ước để làm nên cơ sở này.
Ông Hương, Tùng, Bời, Dũi,
Ở là những người đầu tiên đến cư trú tại Búng.
Tất cả họ là người (Công
giáo) đạo dòng. Họ tụ tập tại nhà ông Bời để cầu nguyện. Để sinh sống, họ chăn
nuôi bò và trâu, cũng như nuôi tằm. Sau đó, họ bắt đầu khai khẩn đất đai và trồng
trọt, nên sau một thời gian ngắn, họ đã sống tương đối đầy đủ.
Ngôi nhà nguyện đầu tiên
được xây dựng chỉ từ thế kỷ 19, và nằm trên phần đất của một người tên Nhờ.
Nhưng vì được dựng bằng những vật liệu ít giá trị, nên khi mái tranh bị hư, người
ta mới cất một ngôi nhà nguyện khác, tiện nghi hơn, nằm trên phần đất của ông
Ràng, và lần này nhà nguyện được lợp bằng ngói.
Trên nơi cao ở xứ Búng có
cây sao đẹp. Các người có đạo đã chặt nó xuống để đóng một chiếc ghe và họ dâng
tặng cho vua Gia Long. Chiếc ghe này có chiều dài tám tam (tầm ?), nên người có
đạo mang tên là Ghe Tám cho đến khi người Pháp đến (khoảng 1862).
Các người công giáo khác
dần dần đến cư ngụ ở tại Ghe Tám và tạo ra một số dân có đạo khoảng 300 người;
thỉnh thoảng các cha ngụ ở Lái Thiêu đến thăm họ. Vì xứ này chỉ toàn là bụi cây
và ít người ở, nên họ không có những người lương theo đạo, và họ lôi kéo bà con
và bạn bè của họ đến ở với họ.
Nói chung họ có đức tin
khá vững vàng, và mỗi gia đình dạy con cái tại nhà những điều giáo lý Công giáo
dạy, vì lúc đó chưa có trường học. Trường học đầu tiên có từ thời xâm lăng, dưới
thời cha Võ. Thầy giáo trước tiên là cựu chủng sinh học ở Pinăng (Mã Lai) dành
cho con trai, và cha Võ mời các dì Thủ Thiêm đến dạy cho các cô gái.
Cha Martin (Nghi)
II. DÒNG LỊCH SỬ
Từ lúc những người đầu tiên
đến ở trong vùng này cho tời khi Pháp đến, không có gì rõ ràng lắm để kể lại.
Linh mục đến để coi sóc chỉ là tạm thời, và trong thời bách hại, họ chỉ lén lút
đến và không rõ tên tuổi.
Trong thời của Đức Giám mục
Adran, ở khắp xứ chỉ có 02 linh mục bản xứ là cha Duông và cha Thông (3)
thỉnh thoảng từ Lái Thiêu đến để cử hành các bí tích.
Trong thời Gia Long trị
vì (1802 – 1820) các người công giáo có thể thực thi đạo giáo ra bên ngoài,
nhưng dưới thời các nhà vua kế tiếp, thì các nhà thờ bị phá hủy. Các chiếu chỉ
ra lệnh bảo là mỗi làng có một ngôi chùa mà mọi người phải đến đó để dâng cúng;
nhưng với một vài quan tiền dâng cúng cho quan lại thì người ta được miễn lệnh
trên. Tuy nhiên nhiều người công giáo yếu đuối, muốn tránh nhũng nhiễu nên đến
dâng cúng, nơi nhà họ có bàn thờ của lương dân, và cây nêu trước của nhà khi Tết
đến.
Dù trong thời kỳ gian khổ,
các linh mục bản xứ đã đến thăm người Công giáo, và đôi khi ở nhà của ông Vưa,
đôi khi ở nhà của ông Nhờ, ông Tín hay nhà của bà Hảo. Người ta kể rằng, trong
số các cha, có cha Tám (4) và cha Lợi, cha Kiên, có quyền ban Bí
tích Thêm sức.
Tuy nhiên người ta còn
ghi nhận việc đã đến xứ này của Chân phước Marchand (5), có cố
Phương (?) đi theo; và ngài đã cử hành thánh lễ trong nhóm người có đạo này. Theo
lời kể của nhiều người thì hai cha nói trên đã trừ quỷ cho con bà Hảo nào đó,
đưa bé này quỷ ám. Đức Giám mục Lefebrve đã đến ẩn trong một ngôi nhà của dân
có đạo này, nhưng những người lương đã nhận biết và theo dõi ngài. Nên ngài trốn
đi giữa ban đêm đến Đá Tráng (Bố Mua) , trên đường đi, ngài đã gặp cọp.
Cha Joseph Marchand (Cố Du). Ảnh internet
Trước thời xâm lăng thì
các cha Tại, Giáo, Y, Chữ (6) nhiều lần đến thăm giáo dân, và vì có
một vài người lương dân nghèo khổ muốn trở lại đạo nên các ngài giúp đỡ họ tiền
bạc hoặc quần áo.
Trong suốt thời bách hại,
các người công giáo không chịu khổ quá vì họ có các quan lại giúp đỡ, nhờ vài
món quà được dâng cho họ cách khôn khéo, hoặc vì ông tả quân Lê Văn Duyệt (7)
đã bảo vệ họ.
Đức tả quân Lê Văn Duyệt. Ảnh internet
Cái lúc khủng khiếp nhất
đối với họ là lúc mà các đồng hương của chúng ta chiếm Sài Gòn (quân Pháp). Cha
Dưỡng, lúc đó chỉ là thầy phó tế, đã đến Lái Thiêu và Búng để hướng dẫn họ và
chuẩn bị cho một số em rước lễ lần đầu. Ngài đã bị các người lương phát hiện là
thầy dạy đạo, và bị họ theo dõi, và ngài đã thoát được họ bằng cách lội băng
qua sông.
Một gia đình cũng không gặp
hạnh phúc là bà Hảo. Bà vừa làm đám cưới cho một trong các cô gái của bà – con
Tám – cho một thanh niên ở Thị Nghè. Bà mẹ dẫn con gái đến nhà chàng rễ mới, có
đứa con gái út đi theo là – thị Chín -, và một trong những con trai của bà, tên
là Chất, nhưng khi đến Vàm Thuật, họ bị phát hiện là người công giáo, và ngay lập
tức họ bị đưa đi Biên Hòa. Nơi đây người ta yêu cầu họ bỏ đạo, thì họ không đồng
ý, thì anh Chất bị kết án lưu đày và chết khổ sở ở đó, còn hai cô con gái thì
trước tiên bị đánh tàn nhẫn bằng roi và sau đó bị giam trong tù, nơi này các cô
đã chết vì những cú đánh mà họ đã nhận được, và nhất là thiếu lương thực. Tuy
nhiên, một trong anh em trai của hai cô gái đó đã có thể đến Biên Hòa, nhận xác
hai chị em và mang về xứ Ghe Tám để chôn cất. Còn bà mẹ thì bị giam trong trong
tù cùng với những người công giáo khác, họ bị đốt cháy khi xảy ra vụ chiếm
thành (8)
Khi biết được những sự
nhũng nhiễu mà các người công giáo chúng ta chịu đựng, chính quyền nước Pháp đã
gửi những chiếc thuyền đến sông Thủ Dầu Một để đón những người muốn trốn đi.
Dân chúng ở gần sông có thể dễ dàng lên các tàu để đi Sài Gòn, nhưng những người
ở xa hơn, không thể đến những chiếc tàu đó, nên bị người lương bắt và dẫn họ đi
Biên Hòa. Số người bất hạnh này là 30, vì sợ nhục hình nên họ đạp lên thánh giá
và bị phân tán ở trong những làng người lương dưới sự theo dõi của những người
mà họ đến cư ngụ. Tuy nhiên 2 trong số họ từ khước hành vi chối đạo đó, và người
ta may mắn được giữ tên của họ, đó là ông Trí và ông Lõi, người ta phán quyết
khắc trên má của họ hai chữ Tả Đạo, rồi thả họ ra.
Cầu Ngang xưa lối năm 1920, Ảnh internet
Các giáo dân trốn lên Sài Gòn thị bị dịch tả,
hoặc vì thiếu nơi ở và thức ăn; còn những người sống sót thì muốn trở về gia
đình của họ sớm hết sức. Vừa khi họ thấy yên ổn trở lại, các người công giáo của
chúng ta trở về chỗ riêng của mình. Khi đến chợ Ghe Tám họ thấy các người lương
đã bỏ nhà cửa của họ, gặp dịp này họ định cư và chọn chỗ đẹp nhất để dựng nhà
nguyện. Ngôi nhà nguyện này một ít lấu sau bị người lương đốt cháy.
Chính vào thời kỳ này mà
dân Công giáo đổi tên Ghe Tám của mình thành tên Búng. Đây là tên của cái chợ,
nơi mà các giáo dân của chúng ta cư ngụ.
Dân có đạo vẫn chưa có mục
tử coi sóc. Để lãnh các bí tích, họ đã đến Thủ Dầu Một, ở đó có cha Robert (9)cư
ngụ; nhưng khi việc mục vụ vừa nhận được sự trợ giúp thì người ta gửi cha Lizé (10)
đến. Ngài chỉ tạm thời và rồi được cha Khiêm (11) thay thế. Cha này
sớm qua đời.
Sau đó cha Võ đến và ở
nhiệm sở nầy khoảng 30 năm (12) . Ngài xây dựng tại một khu đất gần
chợ một nhà thờ khá rộng rài mà sau đó thì lại quá bé nhỏ vì số đông dân. Nên một
thời gian trước khi chết, cha đề nghị xây một nhà thờ khác rộng hơn thế nhiều
trên một địa điểm khác.
Chính cha nầy đã để lại một
kỷ niệm rất sống động nơi địa phương nầy. Người dân nơi đây gọi tên cha là cha
Antôn một cách rất kính trọng. Điều nầy chứng tỏ lòng nhiệt thành của cha: đó
là một số đông trẻ mà cha gởi đi chủng viện, lúc đó người ta đếm được tới 20 chủng
sinh đi chủng viện. Cha cũng cung cấp một số lớn ơn gọi hoặc cho nhà kín, hoặc
cho cộng đoàn thánh Phaolô thành Chartes (nhà dòng Thánh Phaolô), cũng như cho
các tu viện Việt Nam là Chợ Quán và Thủ Thiêm. Khi cha chết vào năm 1886, xác
cha được chôn trong ngôi nhà thờ mới, phía trước bàn thờ Đức Mẹ.
Cha Thơ (13) kế
vị ngài và lo xây dựng nhà thờ mới, ngài đã tốn bao công sức. Không có quỹ cần
thiết, ngài chỉ làm nhà thờ từng phần và đã cực khổ lợp xong nhà thờ trước khi
rời bỏ nhiệm sở 7 năm sau đó. Giáo dân đã tích cực hi sinh nhưng họ không giàu.
Lúc đó người ta bán đi – điều này thật là tiếc – một vài tài sản làm quỹ cho
dân có đạo, mà chỉ được một số tiền rất khiêm tốn và thực sự giúp các công việc
của dân có đạo ít thôi.
Cha Simon đến thay cha
Thơ vào năm 1893 muốn xây dựng một nhà xứ và để làm nó, cha nhập gỗ từ Tây
Ninh, nhưng theo kế hoạch kinh tế của cha thì trét hồ bằng đất và rơm các vách
tường ở giữa các cây cột, nên mối mọt làm ổ và chẳng mấy chốc đầy dẫy cả nhà. Để
thay đổi một chút các tên thánh có quá ít ỏi mà dân Việt Nam của chúng ta truyền
lại cho nhau, cha đã lập một danh sách các vị thánh, khóa và gắn trên giếng nước
rửa tội để người ta có thể chọn tên thánh cho đứa con khi rửa tội. Cha cũng muốn
các thanh niên không phải không có gì làm khi tham gia phụng vụ, nên cha buộc họ
mỗi người có một sách mục lục. Khi đi đến Cấp (Vũng Tàu) , cha nhường chỗ lại
cho cha Frison (1896). Cha Frison lo tô phía trong nhà thờ và lát gạch bông nơi
cung thánh; và để làm nổi bật các nghi lễ, ngài đem về ba quả chuông đẹp mà
ngài chỉ kịp trang bị trước khi ngài rời đi (1900).
Sau đó cha Colson quản
nhiệm họ đạo nầy chỉ trong vòng hai năm và quay về Tân Qui nơi mà trước đó ngài
ra đi với nhiều cơ cực.
Cha Martin (Nghi) kế vị
ngài và xây nhà xứ hiện nay, làm xong việc tô phía ngoài nhà thờ và sửa sang
phòng thánh. Giáo dân xứ Búng đã cung cấp cho giáo hội miền nam Việt Nam 12
linh mục, trong số đó hãnh diện có một vị tử đạo: Chân phước Phêrô Quí. Người
cháu của Á Thánh Quí là cha Triệu, các cha Gia, Dư, Cậy, Vật (ba cha Dư, Cậy, Vật
đã chết). Các cha Tự, Quí, Vàng để chính xác. Ta cũng phải thêm vào danh sách nầy
các tên khác: Trương, Lắm, Kiểm, Việc.
Sáu nữ tu dâng mình vào
dòng kín. Ba người chết ở Sài Gòn, còn ba người còn sống đã đi Hà Nội để lập một
tu viện khác ở đó.
Nhà dòng Thánh Phaolồ đã
nhận được 18 cô gái trong số các thành viên của mình và 15 cô khác đã đi tu ở
tu viện Chợ Quán và Thủ Thiêm.
Nhà thờ Búng năm 1970. Ảnh Keith Mc Graw
III.
HIỆN TRẠNG ( đời cha sở Martin)
A. Về phương diện thiêng
liêng: có thể chia dân có đạo thành 3 nhóm:
• Những người sốt sắng
tham dự lễ ngày thường và lãnh các bí tích mỗi tháng hay thường xuyên hơn. Số
này khoảng 60 đến 80.
• Giáo dân thông thường,
giữ luật chung của giáo hội và rước lễ 1 hay 2 lần một năm, là phần đông.
• Cuối cùng, những người
trễ nãi, cách chung là thờ ơ, theo đạo một cách đại khái vì cha họ đã theo đạo,
và bởi vì họ đã được rửa tội. Không do dự làm việc ngày Chúa nhật và bỏ lễ thỉnh
thoảng. Trong số này khoảng 20 gia đình.
Tất cả đều biết những
chân lý căn bản của đạo chúng ta, nhưng ít bàn đến vấn đề đạo đức trong nhà của
họ, nên các trẻ nhỏ chỉ có thể được dạy đạo khi đến học giáo lý trong các trường
của chúng ta.
Như tôi đã nói trên đây,
từ 60 đến 80 rước lễ đều đặn mỗi tháng, 5 hay 6 người rước lễ mỗi tuần, nhưng
chưa có ai rước lễ thường xuyên.
Ít tham dự đọc kinh ngày
Chúa nhật, các ông quới chức không làm gương tốt về vấn đề nầy, cũng như một phần
lớn giáo dân đi đến khi đọc kinh xong và khi lễ sắp bắt đầu.
Cách chung việc giữ việc
xác ngày Chúa nhật được giữ gìn.
Việc
sùng kính:
a) Thánh Tâm: Thứ Sáu đầu
tháng có 70 đến 80 người rước lễ. Trong tháng dâng kính Thánh Tâm, người ta đọc
kinh cầu trong khi cử hành thánh lễ.
b) Đức Trinh Nữ: Vì tháng
Đức Mẹ nhằm lúc hái măng cụt và vì phần đông giáo dân là nông dân hay người làm
công nhật, tất cả không thể đến dự được. Người ta làm việc sung kính nầy vào
ban tối, có khoảng 100 người đến dự, cùng với các học trò tham dự, thì con số từ
200 đến 250.
Hội Mân Côi được thành lập
trong giáo xứ và có đến 130 người. Trong tuần thì một vài người đến nhà thờ để
lần chuỗi. Cuối cùng, mỗi Chúa nhật đầu tháng, các tín hữu đi kiệu.
Trong một vài gia đình,
người ta lần chuỗi trước khi đi ngủ. có vài đồ dâng cúng ở bàn thờ Đức Mẹ và chủ
yếu là đèn cầy.
c) Thánh Giuse: Hơi bị bỏ
rơi. Người ta ít chăm sóc bàn thờ Thánh Giuse. Trong tháng kính Thánh Giuse,
các tín hữu dự lễ đọc kinh cầu.
+ Về Thánh AnTôn: người
ta dựng một tượng, và những người muốn hưởng được ân huệ nào đó thì dâng cúng,
số tiền nầy không hơn hai đồng mỗi tháng.
d) Các linh hồn ở luyện
ngục: mỗi thứ Hai, người ta người ta cầu lễ cho các linh hồn, và ngày 2/11 đối
với cả họ đạo là một ngày cố định để dự lễ. Chừng ½ dân chúng không xin lễ trừ
ra khi một người trong gia đình chết đi thì xin lễ. Phần đông vì nghèo, những
người còn lại thì chểnh mãng. Còn những người khác thì xin lễ quá lắm là thánh
lễ cho một linh mục duy nhất.
TRƯỜNG
HỌC
Bà Trà gồm 90 tín hữu,
không có trường; Bình Sơn có một trường hỗn hợp do một thầy đã có gia đình đứng
lớp. Vì giáo dân ở đây có vài khu vườn nên họ trich ra từ huê lợi của họ một số
tiền để trả lương cho thầy và các gia đình đóng góp chung nhau để chu toàn việc
nầy.
Búng có hai trường: một
trường dành cho nam, và một dành cho nữ. Trường nam do một thầy cựu chủng sinh
dạy. Ngoài giáo lý, người ta dạy đọc, viết và bốn phép tính, nhưng không thành
công bao nhiêu vì một số trẻ em bị lôi đi học; hơn nữa, cha mẹ không thúc chúng
đến trường và không muốn cung cấp cho chúng những (của ăn) vật dụng (thứ) căn bản.
Lớp nữ thì do một ông biện
đồng nhi dạy. Ở đây cũng dạy các môn như ở trường nam, trừ ra ít dạy chúng viết
và toán. Khi việc mục vụ hưởng được tiền trợ cấp mà chính phủ ban cho các trường
học, thì các em nữ được các nữ tu Thủ Thiêm dạy. Nhưng khi tiền trợ cấp bị bỏ
đi thì giáo dân không muốn làm gì cả để mời họ đến và để không gián đoạn khóa học
của các lớp, tôi bắt buộc phải tìm trong giáo dân một thầy dạy, nhiều lần tôi
đã nói với các nhân vật lớn trong giáo dân để thử mời các nữ tu đến, và tôi
luôn nhân được câu trả lời nầy: “Bẩm cha, chúng tôi nghèo”. Để lập khoản tiền
thầy dạy, việc đóng góp thôi không đủ để trả hoàn toàn, mặc dù việc trả lương
cô giáo tiết kiệm là 60 đồng, có một năm tôi buộc phải chịu trách nhiệm khoản
kinh phí nầy. Trong những chỗ khác, người ta có thể lấy tiền huê lợi, những bất
động sản để cung cấp cho việc dạy trẻ em, điều nầy tránh được việc quyên tiền
hàng năm, điều mà giáo dân chúng tôi chán nản nhanh lắm; nhưng ở Búng tất cả
tài sản đã bị bán hết cách đây 20 năm khi xây nhà thờ.
GIÁO
LÝ LÂU DÀI
Nói chung các cô gái theo
học khá. Còn thanh niên nam thì bỏ từ khi chịu Bí tích Thêm sức, chỉ khoảng 12
người sẵn sàng nhất có mặt thôi. Một số phụ nữ đến dự giáo lý, còn các ông thì
rất ít. Còn các quới chức, con số đến khoảng 20 người, chỉ được 3 hay 4 người
chủ tọa kinh tối.
HỘI
HÀI ĐỒNG
Người ta ít đi tìm những
trẻ em ngoại đạo sắp chết; nhưng khi các giáo dân có dịp gặp chúng, họ vui lòng
cưu mang chúng. Nếu các em có thể qua được bú mẹ thì họ sẵn sàng đảm nhận,
nhưng nếu chúng còn phải bú mẹ thì họ thích gởi chúng đến cô nhi viện ở Lái
Thiêu. Khi họ nhận nuôi thì cách chung họ chăm sóc và xem chúng như con ruột của
họ.
B.
TÌNH TRẠNG VẬT CHẤT
a) Nhà thờ hiện nay có được
khoảng 20 tuổi và có những hàng hiên chưa lát gạch vuông (gạch tàu)
b) Các trường học được dựng
bằng gỗ khá tốt và lợp tranh.
c) Nhà xứ hiện tại được cất
lên cách đây 9 năm, có một lầu và đã được xây trong những điều kiện tốt đẹp
(1902)
d) Các bất động sản đã được
bán đi để xây nhà thờ và chỉ còn một khu đất thổ cư để cho người giáo dân nghèo
ở. Và một miếng đất mà cha Frison trước đó đã mua và nhường lại cho dân có đạo.
Các quới chức, những người
phải lo làm cho những của cải đó có giá trị và lo chăm sóc các cơ sở thuộc về họ,
thì không lo gì cả, cả bổn phận trong trách nhiệm của họ.
Dân công giáo có được một
thánh tích đặc biệt của Á Thánh Phêrô Quí, mà Đức Giám mục Bouchut (14)
rất muốn nhường lại cho ngài năm vừa qua.
Búng,
ngày 10 tháng 02 năm 1911
Joseph
Martin
(Thừa
sai)
Hai chú thích sau bài viết
của cha Martin:
1. Cha Martin qua đời
ngày 8/8/1916. Cha Miều thay thế ở Búng, năm 1913 cha Martin cho xây hai ngôi
trường lớn:- trường dành cho nữ, với vách tường bằng bê-tông;- trường dành cho
nam, có vách ngăn bằng ván, cả hai được lợp ngói. (12/1917)
2. Nhà thờ Bình Sơn (thuộc
họ đạo Búng). Trước khi chết, cha Martin cho xây lại nhà nguyện dự phòng, được
biết dưới cái tên là nhà thờ Bình Sơn. Nhà thờ nầy đã được thánh hiến trọng thể
bởi Đức Giám mục Quinton ngày 21/2/1919 với thánh hiệu là Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
(24/05)
CHÚ
THÍCH
1.
Theo “Le pays d’Annam” trang 10-11, của Eliacin Luro, 1878.
2.
Đức cha Pierre Joseph Georges Pigneau (Bá Đa Lộc), Giám mục hiệu tòa Adran. Đại
diện tông tòa Đàng trong từ 1771 – 1799.
3.
Cha Duông, cha Thông thuộc thế hệ 2 chịu chức Linh mục khoảng từ 1800 – 1849
(trích lục danh sách Linh mục miền nam từ đầu đến 1890).
4.
Cha Tám là Linh mục chuẩn bị cho Thánh Quí đi tu.
5.
Sinh 1803 đến Lái Thiêu năm 1830 và coi 25 họ đạo, chết ngày 30.11.1835, thời
Minh Mạng.
6.
Theo danh sách các linh mục miền nam từ khởi đầu có cha Tám (cha Tại không có
tên, có lẽ viết sai) cha Jb Giáo, cha Ý (không có cha Y), cha Giuse Chữ.
7.
Tả quân Lê Văn Duyệt (1764 – 1832) làm Tổng trấn Gia Định 2 lần; lần 1 từ 1812
– 1816; lần 2 từ 1820 – 1832 qua đời.
“Vua
Minh Mạng kế ngôi Gia Long phải kiêng sợ vị quan tả quân này, chẳng dám bắt người
sự gì. Trong đời quan trấn này tại Sài Gòn thì các bổn đạo đâu đó đều đặng bình
an, khỏi sợ bắt bớ vì đạo. Một việc này cũng đủ làm chứng quan tả quân Lê Văn
Duyệt có lòng thương con nhà giáo hữu. Là ngày kia trong khi người đang chơi xem cuộc đá gà, vừa đặng sắc
chỉ vua Minh Mạng dạy bắt bớ bổn đạo và người Tây (trong năm 1828), thì quan ấy
liền nói lớn rằng: “ Có lẽ nào chúng ta bắt bớ kẻ đồng đạo với Đức Thầy Vêrô và
mấy người Tây làm chi, miệng ta còn đang nhai cơm của Đức Thầy và mấy người Tây
đây…không đâu, bao lâu tôi còn sống thì không ai nên làm chuyện ấy. Chừng tôi
chết rồi đã, vua muốn làm gì thì mặc ý” (NKĐP năm 1918, trang 361). Trích
từ mục “ Buổi sơ đạo Thiên Chúa ở miền Nam”
trong Hồ sơ về Lục Châu Học, trang 261, Gs. Nguyễn Văn Trung.
Vua
Minh Mạng thầm ghét Lê Văn Duyệt vì không cấm đạo gắt gao. Nhưng ông Lê Văn Duyệt
cho rằng, việc cấm đạo, bắt bớ, chém giết các nhà truyền giáo, giáo dân, bế
quan tỏa cảng là một chính sách sai lầm. (wikipedia.org)
Cụ
Phan Thanh Giản, một vị quan tài đức thời ấy có nói rằng: “ Gia Định này thật
có phúc mới gặp dược một Tổng trấn như đại quan…(Về đạo Công giáo) cảnh dân
theo đạo Công giáo trốn chui trốn nhủi như ở ngoài Bắc thành, kinh thành, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, vào đây không thấy. Cha truyền giáo vẫn đi lại bình
thường trên đường phố. Tôi thật mừng, mình làm quan thấy dân vui thì mình vui.
Làm quan chỉ biết vui phần mình thật đáng trách”. (wikipedia.org)
8.
Ngày 16/12/1861. 401 giáo dân bị thiêu sống . Xem
Lịch sử GHCG Việt Nam, trang 352 – Bùi Đức Sinh.
9. Cha
ROBERT, (cố Thuận) Jean-François (1822-1852-1888). Gia nhập Hội Thừa sai Paris ngày 03.
07. 1856. Ngày 27. 08. 1857 lên đường đi Địa phận Nam Đàng Ngoài (Vinh). Vì tránh
bắt đạo nên đi lánh nạn ở Sài Gòn. Coi sóc họ Thủ Dầu Một từ năm 1861-1864. Qua đời ngày16. 02. 1888, tại
Xã Đoài.
10.
Cha François Rémi Lizé (cố Lũy),(1838-1861-1887) đến Sài Gòn năm 1862.
11.
Cha Khiêm thuộc linh mục thế hệ thứ 2 trong danh sách các Linh mục miền nam từ
đầu đến năm 1890. Lời kể trong ghi chú của cha D. Eveillard: “Cha khiêm kế vị ở
xứ Búng sau cha Lizé vào khoảng năm 1863. Ngài ở đó được 1 năm thì những người
phản nghịch đến nhằm đốt dân có đạo và giết ông cha. Bất ngờ bị tấn công, cha
Khiêm trốn giữa một gốc cột và những chiếc chiếu. Các người bên lương chiếm
nhà, lục lọi khắp nơi, dùng giáo đâm chọt khắp mọi góc nhà tối tăm. Không một
cú chọt nào đụng đến cha và họ không tìm ra cha. Sau khi đã đâm nát, họ bắt đầu
đốt nhà thờ và nhà cha ở. Cha Khiêm cuối cùng cũng thoát được.” Cha Khiêm chết
vào năm 1869.
12.
Cha Antôn Nguyễn Văn Võ sinh 1837 tại Thủ Ngữ, Linh mục năm 1866 và chết năm
1886 ở Búng. Vậy không thể ở Búng 30 năm. – từ năm 1856. Cha Khiêm ở Búng năm
1863 nên cha Võ không thể ở Búng trước thời gian đó. Cha Võ ở Búng 13 năm! Sổ rửa tội ở Búng được cha Võ ghi từ
năm 1875.
13.
Cha Phêrô Martinô Nguyễn Tri Thơ, sinh năm 1848, tại Mỹ Hảo, linh mục năm 1878,
qua đời năm 1927.
14.
Đức cha Jean Claude Bouchut (Giám mục Tông tòa Giáo phận Nam Vang)
Người dịch & chú
thích:
Patriciô Nguyễn Văn Tiền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét