ĐỘC
GIẢ:
Xin cho biết tên nước ta qua các thời kỳ lịch sử.
AN
CHI:
Sau đây là quốc hiệu qua các đời:
1. Xich Quỷ (thời Kinh
Dương Vương),
2. Văn Lang (thời Hùng
Vương),
3. Âu Lạc (đời An Dương
Vương)
4. Vạn Xuân (đời Lý Nam Đế,
541 – 547)
5. Đại Cồ Viêt (đời Đinh
Tiên Hoàng, 968 – 979),
6. Đại Việt (từ đời Lý
Thánh Tông, 1055 – 1072),
7. Đại Ngu (đời Hồ Quí
Ly, 1400),
8. Đại Việt (từ đời Lê
Thái Tổ, 1428 – 1433),
9. Việt Nam (từ đời Gia
Long, 1802 – 1819),
10. Đại Nam (từ đời Minh
Mạng, 1820 – 1840),
11. Việt Nam (Dân chủ Cộng
hòa) từ 2-9-1945
Sau
khi An Dương Vương mất Cổ Loa và tự tử thì nước Âu Lạc bị Triệu Đà sát nhập vào
quận Nam Hải để lập thành nước Nam Việt. Nước này lại bị nhà Hán chiếm rồi đặt
thành Giao Chỉ bộ chia làm 9 quận trong đó 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật
Nam, chủ yếu là giao Chỉ, rồi đến Cửu Chân, có những phần đất cũ của Âu Lạc.
Năm 203, Hán Hiến Đế cải gọi là Giao Châu. Năm 679, Đường Cao Tông đặt làm An
Nam Đô hộ phủ. Thời Pháp thuộc, nước ta bị chia làm Tonkin, Annam và
Cochinchine. Trước năm 1945, vẫn dịch thành Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Từ năm
1945, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gọi là Bắc Bộ,
Trung Bộ và Nam Bộ. Sau đó, chính quyền thân Pháp gọi là Bắc Phần, Trung Phần
và Nam Phần rồi Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Trước 1945 tên Việt Nam vẫn
có được dùng nhưng đó chỉ là ngôn từ của sách báo hoặc là yếu tố trong tên của
tổ chức (như: Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Độc lập Đồng Minh hội, vv.) mà
thôi.
Kiến
thức ngày nay, số 101, ngày 1-2-1993
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét