HỌ
NĂNG GÙ RƯỚC XƯƠNG THÁNH
-----------------------
Ơn Chúa đoái thương con
nhà Nam Việt, ban cho ta đặng phước lành, là nhắc mấy vì á thánh lên bực cao
sang: thật rất nên vinh hiển cho ta. Năm nay mọi nơi trong nước An Nam làm Tam
Nhựt Kinh Lễ rất trọng thể mà cám ơn Chúa cùng mấy vì á thánh. Họ Năng Gù, về địa
phận Cao Mên, cũng đồng tâm hiệp lực cùng cha sở mà dọn lễ nầy cho xứng đáng;
mà nhứt là cuộc rước Hài cốt các thánh rất trọng thể như sau nầy:
Trong họ lấy 30 chiếc ghe
ken lại làm một cái bè lớn, cùng lấy vải và màn chấn, bông hoa, trau giồi coi rất
đẹp. Phía trước làm như mặt tiền nhà thờ, có ba vòng nguyệt, có treo đèn thứ tự
khéo léo; trên chót treo một cái đèn thánh giá dán bông hoa rực rỡ, và có tên
hai vì á thánh, là Vêrô Đoàn công Quí và
Mân-hòe Lê văn Phụng. Dưới bè có liệt ván dài 10 thước tây. Dọn hai cái rạp
bằng vải bông và treo màn chấn, kết bông hoa đẹp đẽ lắm. Trong cái rạp trước
thì có cái kiệu đặng để Xương thánh. Trong rạp nọ thì có 40 đồng nhi ngồi mà
hát kinh cùng hầu Xương thánh. Đồng nhi nam mặc áo chớn, đội mũ hoa; đồng nhi nữ
mặc áo trắng, đội lúp trắng và đội tràng hoa, thảy đều nghiêm trang chỉnh tề.
Còn quới chức, là 28 ông, thì cha sở Unterleidner dạy mặc y phục cùng mang dây bande cả thảy.
Chánh lễ là ngày 22, 23,
24 tháng hai an nam, mà ngày 20 thì đã mướn một chiếc tàu lớn trên Châu Đốc xuống
Năng Gù, mà dắc bè qua Cù lao Giêng, hầu điệu Hài cốt hai vì á thánh về, 12 giờ
trưa tàu lui, tới Cù lao Giêng là 5 giờ rưỡi chiều.
Đến nơi bổn đạo lên bờ,
thì cha sở Unterleidner sắp lớp lang thứ tự: có lính suisse cầm gươm đi trước, đoạn cha sở đi giữa có 4 tên đồng nhi
theo hầu, kế ông trùm, ông câu và quới chức, rồi tới kiệu có 4 ông chức khiêng;
sau thì đồng nhi nam nữ và bổn đạo hai hàng. Trên nhà trường có cha bề trên và
các cha xuống rước lên. Hai cha nhà trường khiêng hộp Xương thánh để vào kiệu.
Khi rước xuống bè thì cũng sắp lớp lang thức tự; mà phen nầy có thêm các cha, mấy
thầy, học trò nhà trường, cùng cả và nhà phước và bổn đạo theo hầu rất đông đắn
và trọng thể lắm.
Rước xuống bè rồi thì đèn
đỏ 500 ngọn, đồng nhi hát kinh chầu Xương thánh; tàu dắc bè ra giữa sông, đốt
pháo bông, đến 8 giờ tàu mới lui. Dưới bè có 7 cha và quới chức bổn đạo kể hơn
300 người. Khi tàu trở về thì hai bên bờ người ta đâm ghe ra coi mà vô số; mấy
ghe theo coi thì đặng phép buộc theo tàu hết thảy; vì theo lời ông câu Ký, họ
Cái Đầm, khi ông ấy mướn tàu thì có giao phòng hờ trong tờ: phải cho ghe dòng
theo cho tới 100 chiếc.
Tàu về đến nơi, cha J. Conte
mặc áo các phép, xuống rước Xương thánh, dưới bè các cha và bổn đạo sắp thứ tự
đưa lên nhà thờ. Vào nhà thờ, để Xương thánh trên bàn thờ tạm đã dọn sẵn và
chong đèn luôn ngày luôn đêm trong ba ngày Tam Nhựt Kinh Lễ.
Việc trần thiết trong nhà
thờ: bông hoa cờ xí, bản cờ cùng đèn đuốc sắp bày coi rất oai nghi xinh tốt.
Trong cung thánh có xây hai trụ gạch để hai hình á thánh, bề cao một thước năm
tấc tây, hình mặc áo theo xưa, tốt tươi coi như người sống. Còn trong mấy nhà bổn
đạo thì nhà nào cũng có treo cờ thắp đèn hết thảy.
Ngày sau là 21 tháng hai,
chiều lại bổn đạo cấm phòng; có giảng mỗi ngày ba lần; trong ba ngày có 10 cha
ngồi tòa làm phước; mỗi buổi chiều thì làm tuồng nhắc tích hạnh hai vì á thánh,
mỗi bữa làm tới 11 giờ khuya, mà ba bữa mới rồi.
Ngày Chúa nhựt là ngày thứ
ba trong lễ Tam Nhựt, thì có các quan langsa: có ông chánh, ông phó tham biện,
quan biện lý, đốc học, vân vân…, vợ chồng con cái đến đền chầu lễ. Buổi chiều
giờ làm phép lành, thì quan biện lý đánh đờn và có hát bài ca vịnh kính hai vì
á thánh. Làm phép lành đoạn các quan xin cha sở Unterleidner cho bổn đạo nhắc lại
một lớp tuồng cho các quan xem; đoạn mọi người lui về mà ai nấy đều vui mừng phỉ
dạ.
Trong cuộc nầy rất đáng
khen cha sở và bổn đạo có lòng lo lắng sửa sang mọi việc có thức tự nghiêm
trang trọng thể; lòng mọi người đều dặng vui mừng khoái lạc trong chúa. Vậy tôi
xin biên tích nầy đam vào “Nam Kỳ Địa Phận” mà nhớ ơn Chúa muôn đời.
Cúi xin hai vì á thánh
nguyện giúp cho chúng tôi đặng dõi theo đàng chánh, hầu ngày sau chúng tôi đặng
hiệp cùng phô á thánh mà ngợi khen Chúa đời đời.
ANTÔN LÊ THÀNH VỌNG (Năng
Gù).
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1910.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét