ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2022

Sự tích cha Dumas - Cựu Bề trên Nhà trường Latinh

SỰ TÍCH CHA DUMAS

CỰU BỂ TRÊN NHÀ TRƯỜNG LATINH

------------------

Cha Jean Dumas

Năm 1873, ngày mồng 2 Juillet, có mười thầy cả, còn trẻ mới chịu chức, hăm hở đem nhau xuống tàu tại Marseille, mà sang qua rốt Phương Đông, cho đặng giảng đạo thánh cho các dân ngoại đạo bên nầy. Trong mấy cha ấy, có một cha đi nước Birmanie, bảy cha qua Nhựt Bổn, và hai cha sang Nam Kỳ, là cha Greset (Hòa) đã qua đời năm 1899,—và cha Dumas (Đủ) ta biên tích đây.

JEAN DUMAS đã sinh ra ngày 26 Janvier 1848, tại làng Caudecos-te, trong tổng Astafort, tĩnh Lot-et-Garone, về địa phận Agen. Cha mẹ là người thường, làm thợ giầy, trong nhà đủ ăn, song là kẻ ngoan dạo, biết ân cần lo lắng, dạy dỗ, tập luyện, xem sóc, sửa trị con cái theo phép đạo, noi gương các thánh, những thuở niên ấu lo cho nó biết mến Chúa, sợ tội, ham làm lành, ưa nhơn đức. Vì vậy Chúa thưởng công hai ông bà, mà chọn một đứa trong con cái vào hàng đạc đức, lên bực tông đồ, đi xứ xa xuôi giảng rao danh Chúa giữa kẻ ngoại đạo.

Trẻ Gioang nghe lời mẹ dạy dỗ, như đất tốt chịu giống lành mà trỗ sanh một ra trăm; chưa kịp hưởng lộc đất, mà đã mong lộc trời, chẳng sá chi chức quờn vui sướng thế gian, một ước trông dưng mình cho Chúa, chọn phận hèn mọn cực khổ làm tôi tớ trong nhà Chúa. Nên dầu chưa được mấy tuổi, mà đã xin cha mẹ cho mình làm thầy cả. Cha mẹ thấy ơn Chúa kêu gọi con mình lên bực cao trọng dường ấy, thì rất đỗi vui mừng, đã không cảng trở như nhiều cha mẹ khác, lại vội dưng con vào cung thánh, như bà Annà dưng trẻ Samuel xưa, cùng cầu nguyện lo lắng cho con đặng theo ơn Chúa cho trọn. Vậy hai ông bà đã giao trẻ Gioang cho cha sở dạy dỗ tiếng latinh và tập bề đức hạnh.

Trẻ nẩy sáng dạ, mau hiểu, mau thông, lại siêng năng, dễ ăn dễ biểu, ái mộ đàng lành, nên cha sở đã gởi nó nhập trường latinh,

Nhà trường là vườn riêng Chúa yêu dấu, cho trẻ học tập đó, là trẻ Chúa đã lựa, trong muôn đặng một, như cây giống tốt, Chúa ương riêng để sau mà nhờ, đêm ngày ưu cần vun quén, săn sỏc, ấp yêu, Gioang vào đó khác nào cây mới mọc, bứng trồng dọc theo dòng nước im mát đượm nhuần, bèn vượt lên sởn sơ diềm dà tốt tươi rất mực, quá hơn nhiều trẻ trang tác.

Vì vậy bề trên đã vội mừng và trông cậy: hồi đang ngồi lớp tư, thì các cha nhà trường đã đồng ưng thuận, cho trẻ Gioang lột lốt thế gian, mà mang áo dòng, là áo thánh, chỉ chết cho xác thịt cùng thế tục dương gian, hầu sống cho Chúa và chuyên lo về chuyện Chúa mà thôi.

Dễ hiểu từ ngày lãnh y phục tôi tớ Chúa, thì Gioang càng âu lo tấn tới trong đàng lành là thể nào, đáng chúa thêm ơn trọng hơn nữa. Vốn đang hồi dọn mình chịu chức thánh, Gioang đã xem những thơ từ các cha giảng đạo bên rốt cõi Đông Dương gởi về bốn quán, thấy hãy còn muôn muôn vàn vàn linh hồn đang phải khô hạn, đợi chờ trông ước mưa ơn thánh Chúa, đang phải bóng tối sự chết che phủ, chưa đăng sự sáng Êvang chiếu ra ban sống; thấy hằng ngày ma quỷ nhiễu hại linh hồn thiên hạ trong những miền ấy trùng trùng điệp điệp, mà không ai ra tay cứu vớt... Gioang bèn chạnh lòng áo não, và theo ơn Chúa soi, quyết dứt bỏ quê vức, cha mẹ, bà con, mà dưng hồn xác, cùng liều mạng sống mình, cho đặng cứu giúp những linh hồn khốn nạn ấy.

Khi đã lo xong mọi sự cùng cha thiêng liêng, và đặng cha mẹ phần xác ưng thuận chúc lành, lại có bề trên Địa phận ban phép, thì Gioang bèn sang thành Paris, vào Trường Dòng Sai, xin vô sổ tông đồ giảng đạo ngoại quốc.

Tại chốn nầy, nói sao cho xiết Gioang đã vui mừng phỉ chí cám ơn Chúa ngằn nào !... Biết việc mình toan làm ngày sau là cao trong bội nhiều, thì Gioang lại càng nông công dọn mình cho xứng đáng. Các lái toan vượt biển đàng xa, chẳng những lo thu tích lương phạn hành lý cần dùng, dự phòng cho đủ ngày tháng phải ở giữa vời, cho khỏi thiếu thốn, lại thêm lo chở hàng hóa xuống tàu, cho có đủ hầu đổi chác bán buôn trong xứ mình toan di tới. Cũng như vậy, thầy Gioang ở tại trường Paris, thì những lo sắm đủ khí cụ về việc giảng đạo, cứu chuộc linh hồn: hằng ngày lo tấn tới trong việc học hành thông suốt, thường bữa rán bước thêm trong néo đức hạnh vẹn toàn, hầu mãi sau thông qua cho kẻ khác, mà mình chẳng thiệt thòi khuy khuyết.

Xác thì kém tác, mà trí thì lại càng cao sâu lực lượng sắc sảo, học đâu ghi đó, nhất là ưa hạp sách đoán chí thiết, nên chóng làu thông. Không đều chi khúc mắt mà người bỏ qua, chẳng dò cạn lẽ, giải minh bạch, ý Chúa tiền định thể ấy, vì cả đời ngày sau nầy toàn chuyên dạy dỗ sách đoán cho tới chết, mỗi ngày học thêm và tìm thế cho học trò cũng thông tỏ như mình: quam sine fictione di-dici, et sine invidia communico (Sap,. VII, 13).

Trí càng thông hiểu sách đoán dạy về Chúa, lòng càng thêm mến yêu, thờ kính, ái mộ noi dõi theo gương Chúa; nên các nẻo nhiệm về đàng trọn lành người đều trải qua thông thuộc và hằng nắm giữ kỷ cang, làm cho người đẹp lòng Chúa, cùng đủ sức làm tướng dẫn đàng chỉ lối cho các trẻ người sẽ dắc vào cung thánh, đưa đến bàn thờ.

Học hành tập luyện vừa đủ kỳ, thì người lãnh chức chánh tế, ngày 7 Juin 1873. Kế bề trên định cha Gioang phải sang qua Địa phận Nam kỳ, kêu là Đàng Trong phía Tây. Người vui mừng vui vẻ lên đàng: phải giã từ biệt ly cha mẹ, cô bác, cữa nhà, quê vức, không trông gặp lại nữa, mà người chẳng chút bịn rịn, lại hăm hở cho mau tới nơi, lòng những mong mỏi thấy đất Nam Kỳ, cầm bằng đất Chúa hứa.

Người xuống tàu cùng mấy anh em, như ta đã nói ban đầu, mà vượt biển một tháng tròn. Tàu tới nơi, ghé bến Sàigòn là mồng 2 Août.

Chơn bước lên bờ nhậm lẹ gọn gàng, lòng thầm nghĩ lời Thánh Kinh, thề nguyền sống chết cũng náu nương tại đất nầy, chẳng hề dời buớc: hic habitabo, quoniam elegi eam (Ps., CXXXI, 14). Mà hẳn thật, hơn 42 năm người chẳng hề bỏ quê vức mới nầy mà về quê cũ bao giờ.

Hồi người tới nơi, Hội Thánh Nam Kỳ mới đặng an thạnh mấy năm, mọi sự đã sắp đặt thứ tự yên bài; Đức Cha Gioang Miche còn sống ít tháng cho đến gần cuối năm ấy, có Đức Cha phó Isidôrô Colombert, mới chịu chức năm trước, phụ giúp trong việc sửa sang Địa phận, các cha Dòng Sai xem sóc các họ đặng ba mươi lăm đấng, có mười tám cha an nam giúp việc chăn giữ đoàn chiên; bổn đạo nhơn số ngoài ba muôn bảy ngàn. Mọi sự đều kém thua và khác xa những sự cha Gioang đã quen thấy từ thuở bé, song người chẳng lấy làm lạ, chẳng nao núng, vì biết chốn nầy mới khỏi bắt đạo, mãn lúc cấm kín chưa được bao nhiêu năm, và mình sang đến cho đặng mở rộng. nước Đức Chúa Trời ở giữa thành trì ma quỉ.

Vừa tới nơi, người liền lãnh tên annam, cứ thói quen trong Địa Phận. Đức Cha dựa theo tên tây của người, lấy vần đầu mà đặt là Cha Đủ: thật tên rất xứng hạp, vì người đủ tài, đủ đức, đủ sức lực, đủ ý lành, còn chờ cho đủ công nghiệp, đủ ngày giờ mà lãnh triều thiên sáng láng vinh hiển đời đời.

Đức Cha biết cha Dumas thông minh, nên đặt người ở nhà trường latinh làm thầy dạy sách đoán. Việc nầy cực trọng hơn mọi việc khác, là việc nhứt trong đời người: Chúa đã sắp đặt trước, như ta mới thấy, cho người đặng làm việc ấy một cách toàn hảo.

Đang lúc ấy cha Wibaux, là Bề trên nhà trường, mắc đau đi dưỡng bệnh bên Hongkong, có cha Caspar quyền làm bề trên, đã mừng rỡ tiếp rước tân sư, là kẻ Chúa gởi đến giúp mình trong việc rất thánh, là dạy dỗ tập rèn những trẻ sau nầy phải làm đầu mục trong đoàn chiên Chúa. Cha Đủ cũng vui lòng phụng mạng theo ý bề trên phân định, lãnh việc dạy dỗ, cũng lãnh việc lo thuốc men cho những học trò đau ốm về phần xác nữa.

Ta thường thấy các cha tây nam đổi dời, sở này qua sở khác, chẳng ở bền một nơi, có một mình cha Dumas, từ ngày chơn đạp đất an nam, cho đến khi dời chơn khỏi thế, những ở nhà trường luôn, chẳng hề dời đổi. Công việc trong nhà trường, ngày sau giống bữa trước, năm nầy chẳng khác năm xưa, ai chẳng bền chí, mau phải nhàm lờn; ở lâu ngày, có khi chịu không nỗi; phần thì xác thịt yếu đuối, việc làm phải hao tốn tâm thần, khí trời thêm bất thuận... Cha Dumas, ất ghe lần cũng phải cực lực, vì không phải thịt đồng xương sắt, nhưng bỡi đã tế lễ mình, chẳng nghe tiếng xác thịt, một thìn lòng vưng ý Chúa, chẳng xin đổi dời, chẳng từ chịu khó: Chúa đặt đâu, cứ an phận đó.

Bước qua năm 1878, người thôi dạy sách đoán, mà lãnh lớp thử tư, và từ ấy người dạy trường nhỏ, năm thì lớp nầy, năm thì lớp khác. Tới năm 1885, cha bề trên Thiriet mang bịnh về tây, thì người quyền làm bề trên và dạy sách đoán lại trót năm ấy. Đoạn dạy lớn nhỏ luôn, cho đến khi cha Thiriet qua đời, là năm 1897. Chừng ấy người lãnh qui mô làm bề trên nhà trường và dạy sách đoán lại luôn cho đến cùng.

Việc dạy dỗ thì người kỹ cang lắm. Dầu sách đoán người đã nằm lòng, song người hằng xem đi xem lại, và học thêm luôn. Trong phòng người có hơn hai chục thứ sách đoán, người hằng lục, hằng coi, cho đặng cắt nghĩa cho học trò. Khác chi ong kia ân cần khôn khéo, lựa những thứ hoa thơm hơn, ngọt hơn mà hút mật, đem về làm mật ong: người cũng vậy, coi trong các sách có danh hơn, lựa những lẽ trúng nhằm , chắc chắn, lấy những cách phân giải minh bạch hơn, dễ hiểu hơn, mà dạy học trò mình. Lừa lọc rồi người biên chép vào tập riêng, thì còn sửa đi sửa lại nhiều lần nữa. Dầu người dạy lâu năm, mỗi chuyện đã dạy đi dạy lại nhiều lần, mà tới chừng phải cắt nghĩa lại, thì người cũng dọn lại kỷ cang như lần thứ nhứt, chẳng kể chắc mình đã thuộc đủ.

Thường ngày khi lót lòng sớm mai đoạn, thì người dọn bài riết cho đến giờ trả bài. Đang lúc ấy người không muốn rước khách: ai có chuyện gì cần gấp, thì người cực chẳng đã nói sơ qua đôi lời, rồi xin để qua giờ khác.

Vật thực quí báu, ngon lành, nếu dọn sơ, hoặc vụng nấu, bèn hóa ra đồ dỡ, có khi sinh hại, chậm tiêu; dọn kỹ, khéo nấu, dầu vật thường cũng hóa nên tốt, ngon, lành, sinh ích cho kẻ ăn, và lấy làm vui mà ăn. Cùng một lẽ ấy, cha Dumas, bởi chịu khó dọn bài vở chín chắn như vậy, nên học trò, dầu chậm trí, cũng hiểu đặng, và khi nghe người bày vẽ đạo lý phân minh, cắt nghĩa những đều mắt mỏ, thì ai nấy cũng làm vừa ý, ham nghe. Thấy chịu cực, thì học trò sướng: ai có ý tứ chăm chỉ nghe người cắt nghĩa bài phải học bữa sau, thì đã thuộc bài phân nửa rồi, chẳng cần phải học lâu dài, vì lời người nói cặn kẽ, nghĩa lý đành rành.

Chẳng những người lo giải những sự khúc mắt, mà lại lo dùng những tiếng, những lẽ, những cách nào cho kẻ ít trí hơn cũng vừa hiểu kịp. Người lặp đi lặp lại, đổi cách cắt nghĩa, cho đến khi chẳng còn ai mà chưa hiểu, Người chỉ quyết cho học trò hiểu rõ, thấy tường tận mọi điều như mình thấy vậy. Gặp chuyện khó, thì người dặn phải có ý tứ hơn. – Vốn tánh người nóng nảy, nhậm lẹ, song người ép mình nhịn nhục chịu khó với những kẻ chậm lụt. Nên dầu đã phân giải chuyện gì hết thế, mà nếu còn ai hỏi lại, vì chưa hiểu, thì người cũng không bỏ lấy, cũng rán cắt nghĩa lại, cho tới khi nó bằng lòng. Ghe phen có kẻ hỏi đều cớ trêu, kỳ cục, phi lý, có khi vụng về, dầu người la rầy, mà cũng không bỏ qua, cũng lo hết sức cho nó hiểu và xét cho chính đính. Dầu đang giờ trả bài, dầu trong phòng người, thì người sẵn lòng luôn mà cắt nghĩa và phân giải mọi sự cho ai muốn cơ vẩn.

Về việc học hành sách đoán, gương người đà tỏ rõ, mà người còn năng nhắc nhở răn khuyên ai nấy ân cần chuyên lo việc ấy, nhứt là khi hết học trong nhà trường rồi. Người rằng: “Trong chúng con nhiều người cũng giỏi, song đừng ai tưởng mình đã trọn hảo rồi: phải coi đi coi lại sách đoán, phải học thêm luôn... Trong nhà trường chủng con học sách đoán, thì là tập cho biết cách học mà thôi; chừng làm thầy cả rồi, chúng con cứ theo phép ấy mà học hoài cho tới cùng, vì dầu già đời cũng chưa biết hết đặng...”

Lời dặn dò khôn ngoan, ăn rập cùng lời các tấn sĩ và các thánh dạy, cũng là luật đứng bực riêng buộc kẻ làm thầy. Ai nghe và giữ, mới tường là chơn thật và cần kíp dường nào: càng học thêm, càng thấy mình còn thiếu, càng gặp nhiều đều mình chưa biết, thấy thêm những lẽ mình không dè, càng tỏ rõ những đều mình đã biết rồi .. Việc học trong nhà trường chẳng qua là như mình mua lúa mà trử trong kho, còn phải xay, phải giã, giần, sàng, vo, nấu, mới ăn đặng và phân phát mà nuôi con chiên Đức Chúa Trời. Các chuyện văn minh bác vật những đấng thượng trí còn học hành, dò xét, tra vấn cả đời, chẳng hay rồi, phương chi sách đoán gồm cả bao lao muôn chuyện về loài người với Chúa, với nhau, với mình ai nấy, há dễ ngờ là học năm bẩy năm, mà nên thông thạo đặng đâu.

----------------------

Vốn cha Dumas đã bỏ quê vức, quyết sang xứ nầy cho đặng giảng rao đạo thánh Chúa cho những dân còn đang ngồi trong bóng tối sự chết. Song từ ngày người tới đất Nam Kỳ cho đến giờ lâm chung, không biết người có gặp một dịp nào mà nói về Chúa, về phần rỗi cho một người ngoại đạo nào chăng. Có lẽ tưởng không ngơ. Vì người những ở nhà trường luôn, không hề đi đâu; dầu cho một hai khi trong tháng nghỉ người có đi chơi, thì là đi đến cùng các cha mà thôi; phần thì tảnh người tịch mạc, chẳng hay ra mặt, chẳng muốn nói khó cùng kẻ lạ, dầu trong bốn đạo cũng không muốn làm quen, phương chi là kẻ ngoại. Vậy thì phải nghĩ làm sao? Người đã trật việc toan làm, đã hụt chuyện mơ ước quyết lo sao? Không đâu. Thật chính mình người không ra mặt mà giảng giải mở mang đạo thánh, mà người đã dạy dỗ tập rèn đông số kẻ phải lãnh lo việc ấy. Các con cái người bỡi nhà trường mà ra, làm việc ấy thế cho người: người chẳng dùng miệng mình mà giảng đạo, mà người đã dùng năm bảy chục miệng khác mà cao rao danh Chúa. Người chẳng ra mặt, mà người hằng thông công cùng những con cái người đã luyện tập cho đủ công đức thông minh, hầu lãnh việc giảng đạo nầy.

Ta đã thấy phép người dạy dỗ cần quyền chín chắn là thế nào. Song một chuyện học hành cho thông minh mà thôi, thì chưa trọn việc luyện tập tông đồ, chưa xong chuyện dọn con trẻ cho xứng lãnh quờn linh mục. Đó là một cánh mà thôi, cho đặng bay phải có một cánh nữa, là tập tành đức hạnh, rèn tính, sửa nết, uốn tâm tình.

Việc này cha Dumas cũng nên một vì lịch lãm. Người đã tập mình trước, mới tập kẻ khác sau. Đều gì người dạy biểu con cái mình trong đàng thiêng liêng, thì người bằng giữ trước mà làm gương, theo cách Đức Chúa Giêgiu đã làm: Cæpit Jesus facere et docere . (Act . i . 1. ) và theo lời thánh Vêrô, người đã nên khuôn cho bầy chiên mình, forma factus gregis ex animo, làm cho nó đặng in hình ảnh Chúa.

Đều tỏ rõ, thấy trước hết trong cách người ở, là sự giữ luật, giữ ngày giờ theo thứ tự, chẳng khi sai chạy.

Mỗi ngày người thức dậy sớm, đoạn bỏ phòng ngủ, xuống nơi phòng làm việc, đóng cữa lại, chẳng muốn cho ai thấy người. - Người lo cho học trò thức dậy đúng giờ, theo luật; nếu kẻ đánh chuông ngủ quên, thì người kêu liền, có khi chính mình người giựt chuông cho học trò dậy, chẳng chịu trễ phút nào, cho học trò có đủ giờ lo việc bổn phận ban mai.

Một ít phút trước giờ nguyện gẫm, thì thấy người đà tới gần: phòng sách đoán, chờ giờ vào nguyện gẫm chung với các thầy. Bao lâu người còn khỏe mạnh, thì trong giờ gẫm, nửa mùa trước, người quì gối, đoạn đứng thẳng luôn, nửa mùa sau mới ngồi xuống. Gần mãn giở gẫm thì người vào nhà thờ trước, dọn mình làm lễ. Cách người làm lễ thì đằm thắm, nghiêm traug, gọn gàng, chẳng vội vàng lật đật cũng không chậm trễ. Lễ đoạn cám ơn Chúa cách sốt sắng thâm trầm; đúng giờ thì người lui ra, đi lót lòng.

Lót lòng đoạn, người truyện vãn nghỉ sơ một chặp, rồi lo dọn sách đoán, như đã nói trước.

Trả bài rồi, người về phòng cất sách đoạn, việc thứ nhứt người làm là đọc minores horas trong kinh officium dioinum tức thì. Xong rồi mới nghỉ chút đỉnh. Đoạn vào phòng làm việc đến trưa. Khoản này là lúc người sẳn mà ra khách luôn. Trong học trò, lớn bé, ai muốn đến cùng người, thăm viếng, thưa hỏi sự gì, đều thì thong thả; nhứt là các con linh hồn đến nói chuyện thiêng liêng cùng người, cho đặng nghe lời lành người chỉ bảo. Giờ ấy cũng là giờ người làm phước cho những ai muốn xưng tội.

Ăn cơm trưa và chuyện văn rồi, người vào phòng đóng cửa, mà nghỉ. Vừa mãn giờ nghỉ trưa, người liền lấy sách Breviarium mà đọc kinh chiều, Malatinum và Laudes.

Buổi chiều người không dạy. Mỗi ngày thứ sáu, lối ba giờ, người vào nhà thờ đi Đàng Thánh Giá. Mấy năm sau hết, thì mỗi ngày người mỗi đi Đàng Thánh Giá giờ ấy.

Đang giờ học trò làm việc xác, thì mấy ngày phải giảng cho các thầy, người lo dọn bài giảng. Cách người giảng cũng rõ ràng thứ tự, như khi người dạy. Nhưng đều người giảng giải phân minh chắc chắn, có ý cho học trò hiểu trúc mứt sự trọn lành, nhất là lo kết hiệp cùng Chúa trong lòng trí luôn, bởi năng tưởng nhớ đến Chúa trong mọi việc làm cả ngày.

Giảng đoạn - và những ngày không giảng, người cũng cứ giữ giờ nầy - vào nhà thờ viếng Chúa. Xong rồi mới về phòng, cứ làm việc, làm phước, dạy con linh hồn..

Khi mặt trời chen lặn, thì người lần hột.

Chẳng khi nào thấy người đi dạo chơi. Dầu những ngày nghỉ, như Chúa nhựt, lễ cà, thứ tư, ai nấy đi dạo, thì người cũng cứ ở nhà lo công việc mình như mọi ngày khác. Có mấy lúc sau hết, khi người yếu mệt nhiều, thì mỗi ngày ông Naquard đem xe đến rước người đi hưởng gió một hai chút.

Khi dùng bữa tối rồi người vào phòng, đóng cữa ở đó cho đến khi học trò đọc kinh tối rồi và đi ngủ yên lặng hết, lối chỉn giờ người mới bỏ phòng làm việc mà lên phòng ngủ. Khi người lên phòng - cũng như sớm mai khi người xuống - thì người đi và mở cữa nhẹ nhàng êm ái, chẳng khua động, kẻo khuấy giấc ngủ con cái mình.

Cách người giữ ngày giờ thứ tự thể ấy bền luôn, mấy mươi năm cũng như một, chẳng khi sai chậy, làm chứng người hãm mình là thể nào, chẳng theo lúc vui khi buồn mà đổi dời, thêm bớt.

------------------------

 

Trong cách ăn mặc người giữ sự hãm xác, chẳng tìm sự dễ hay là sướng cho mình. Dầu đang những tháng nóng nảy nực nội, người cũng cứ ăn mặc một thế, cứ dùng áo dòng tày luôn, chẳng muốn dùng đồ khác cho nhẹ, cho mát mẻ hơn.

Người có lòng yêu sự tịch mạc thanh vắng cách lạ: hằng tránh những chỗ, những đám đô hội om sòm, e những tiếng tăm inh ỏi bề ngoài làm cho lòng xao lảng, khó hồi tâm an tịnh mà gặp và nói khó cùng Chúa. Người chẳng ưa ra vào cùng thiên hạ, chẳng muốn phô mình, chẳng ham cho người ta biết mình, chẳng mộ làm quen lớn với người thế gian, nhớ lời đã ký chép trong Gương Phước: Quoties inter homines fui, minor homo Tedii: Có ra mặt với người thế, khi về phái hư hao, và những lo giữ lời Ama nesciri, chẳng cần ai biết tới mình. Hắn thật, không phải bởi đông số kẻ quen người biết mà mình dễ chuyên cần việc bổn phận hơn, hay là tiện bề làm sáng danh Chúa hơn, một sinh dịp hao tổn ngày giờ, sinh có nhiều chuyện lo ra; là quen biết với Chúa và rảnh rang một mình mà nắm giữ bổn phận cho trọn thì hơn

Cha Dumas tránh thế gian, không phải vì bổn tánh buồn quạu, không chịu bậu bạn; vốn bổn tính người mau mắn, vui vẻ, dịu dàng, hay thường giúp nên hễ ai quen biết người, thảy đều đem lòng mến yêu, kính chuộng. Ai đến cùng người, thì người tiếp rước, lo cho kẻ ấy đặng thong thả dễ dàng, chẳng cúm núm nghi sợ. Người giữ đức yêu người một cách ý tứ, lo cho khỏi mất lòng ai nấy. Vì đức yêu người, thì người  không sợ hao tổn, không kể công lao khổ nhọc. Muốn cho học trò vui, thì người chụp hình, làm pháo bông, sắm máy nói... Kẻ khó khăn thiếu thốn, thì người giúp đỡ tận tình, một cách kín đáo mọi đàng, không cho tay tả biết việc tay hữu làm. Với kẻ bịnh hoạn thì người chẳng kể thân mình: phải chịu khó nhọc, làm thuốc, xức thoa, săn sóc, thì người sẵn lòng luôn, không khi năn nỉ phàn nàn, chẳng hề tránh sự cực khó nào: nói được về người lời ông thánh Phaolô đã nói về mình rằng: « Libentissime impendam et superimpendar... ", vì người hằng sẵn lòng mọi đàng mà chịu hao tổn, và thêm hao tốn tâm thần cho đặng giúp kẻ mình phải lo giúp.

Người giữ sự khiêm nhượng, không ham chức quờn, chẳng muốn lấn hơn ai, nhớ chức quờn là gánh nặng: honor, onus, mà không xem sao tới sự vinh vang bề ngoài. Khi cha bề trên Thi chết, thì ai nấy kể chắc cha Dumas sẽ thế quờn. Một cha kia đến khi dùng bữa, thấy người cũng cứ chỗ mình mà ngồi như thường, không lên chỗ chủ nhà, thì thúc người bước qua ngồi nơi đầu bàn; người không chịu mà rằng: “Làm chi lật đật? nếu tôi phải ngồi đó, thì thiếu chi ngày mà ngồi!”.

Khi Đức Cha Colombert mãn phần, các cha Dòng Sai đang lo chọn kẻ thế quởn cai trị Địa phận, có nhiều cha chọn cho Dumas. Người hay vậy, thì cứ chối dài, và toàn tỉnh rằng, hễ là mình đặng đủ thăm, mà Toà Thánh trao qườn Giám mục, thì tức thì sẽ xuống tàu trốn về tây. Phải mà đủ tiếng chọn người, ắt là người làm hẳn như vậy. Người đã dưng mình làm tôi Chúa, bắt chước Quan Thầy trong sự khiêm nhượng, mà cũng chẳng quên sự chịu cực khổ, khó khăn thốn thiểu. Người sang xứ nầy chẳng phải có ý tìm vinh vang, không cầu gặp sung sướng, người sẵn lòng chịu mọi nỗi gian nan tàn khổ cho dặng giữ bực mình, cho đặng chí tín vưng ơn Chúa. - Từ khi Tây lấy Nam Kỳ, bỡi các quan đã nhờ các cha Dòng Sai giúp trong việc dẹp an sửa trị nhơn dân, nên Nhà nước đền ơn trả thảo cấp lương phụ giúp các cha hằng năm, đến cuối 1881 Hội Đồng Quản Hạt đã nghị định bãi tiền lương ấy.—Cha Dumas đặng tin nầy thì người nói tỏ tường rằng: “Dầu cha phải ăn mắm, thì cha cũng bằng lòng mà ở lại với chúng con”. (Cũng vì dịp ấy mà nhà trường phải bớt ra hết một ít học trò, vì không còn tiến đủ mà chịu phần sở tổn. Thì cha Dumas đã lãnh mà chịu tiền nuôi một hai học trò cho tới chức thấy cả. )

Người bằng lòng chịu khó bởi người ta làm cực, mà người lại càng bằng lòng khi Chúa gởi sự đau đớn. Khi người còn sức lực, ghe phen người đã phải đau đớn quá cực lắm, bởi bịnh ké hành người, song người đóng cữa phòng chịu một mình. Khi thêm tuổi, bớt sức, các chứng bịnh tới: ngtrời mang chứng nhức gân chơn nhiều năm luôn cho tới chết; người thọ bịnh diabete, phải mòn sức, phải kiêng cử nhiều về của ăn; cùng chịu những sự mệt mỏi hao mòn khác, mà người hằng vưng ý Chúa luôn. Người hay dạy con cái mình rằng: “Ta sống lâu, thì thêm số tội phải đền nhiều thật, mà ta lại có dịp mà chịu khó lập công thêm cho ngày sau sáng láng vinh hiển hơn.” Người lo giữ theo lời ấy cho công nghiệp người đặng đầy hưởng đủ số mà lãnh phần thưởng trên trời.

Người lo giữ mọi nhơn đức làm cho linh hồn mình nên đến thử tốt lành, đẹp đẽ cho Chúa ngự, mà người chẳng quên lo sự sáng danh Chúa bề ngoài. Thiên hạ thường lo sắm cho có những thứ đồ đạc trau giồi nhà cữa mình rỡ ràng. Cha Dumas lo cho có những đổ xinh tốt, quí báu, trong việc tế lễ Chúa, nên chẳng sợ tổn hao mà mua đồ lễ, khăn thánh, áo thánh, chén thánh cho xứng, tùy sức mình. Khi người chưa làm bề trên nhà trường, thì chính mình giặt khăn thánh của người, chẳng chịu để cho các thầy giặt, và giữ hết trong phong cách kỹ lưỡng, mà thay đổi theo bực ngày lễ, chẳng để cho kẻ làm từ lo việc ấy, kẻo có khi vô ý hay là trễ nải mà sinh sự chẳng xứng đáng. Người chẳng sợ hao tổn mà mua đồ mạ bàn thờ cũ nhà trưởng lại, mà chính mình ra tay hết nhiều ngày mà sơn phết bàn thờ ấy. Đến sau, khi liệu đặng, thì người đã đặt bàn thờ khác bên tây, tốt lành xứng đáng hơn. Bao lâu người làm bề trên, thì những lo tìm cách nào mà trau giồi nhà thờ cho vển vang rực rỡ hơn.

Lược qua một ít đều cho hẳn người cần mẫn bề trong bề ngoài thế ấy, cho dễ thấy người đã tập rèn môn đệ theo thể thức nào, cho đặng sai nó đi làm việc trong vườn nho Chúa thế cho người. - Nhiều lần Tòa Thánh đã phán tỏ rõ lời nầy: “Khi nghe tin một con trẻ bồn quốc trong phương ngoại giáo đặng lãnh qườn thầy cả, thì ta vui mừng hơn là nghe muôn vàn người ngoại đặng chịu phép rửa tội”. Này là phần phước Cha Dumas, là tập rèn dạy dỗ đặng đông con trẻ bốn quốc, cho tới chức thầy cả, ngõ dắc nhiều linh hồn ngoại đạo đến cùng Chúa, Thể ấy người đã dắc và toàn công việc người đã có ý sang đây mà làm.

------------------------

Khi người lãnh quờn bề trên nhà trường, thì người biết là gánh nặng nề, bỡi sự vưng lời thì người chẳng chổi, một ra sức làm cho sáng danh Chúa. Cách người cai trị nghiêm trang công bình, lo ích chung trước hết. Khi phải trừng trị kẻ có lỗi, thì chẳng thiên tư, cứ luật phép, mặt mũi oai nghi, mà gia phạt cho nó chừa, cho kẻ khác đừng noi theo. Phải là lỗi nặng mà loại chiên ghẻ ra cho khỏi chiên lành, kẻo bịnh truyền nhiễm loán ra, thì người dầu phiền não châu mày, cũng cứ thẳng tay chẳng nới.

Người cứ theo lòng đại độ rộng xét, chẳng hay mọn mạy vạch lá tìm sâu, chẳng chịu rình mò bắt bớ. Những chuyện nhỏ thì người làm lơ, chẳng phải là vì khinh dễ những sự nhỏ mọn, song vì có con mắt khác thay mặt người mà xem xét, chẳng cần người phải lo, lại kẻ có lỗi thường cũng hiểu đặng lỗi mình kịp và lo sợ mà tìm đàng cải quá, chẳng đợi cho tới chừng mở miệng la rầy.

Cha Dumas cũng đã lãnh việc giúp Nhà Kín nhiều năm, trước hết thì người làm lễ, làm phước, sau lại làm bề trên nữa. Cách người đơn sơ, chơn chất, ngoan ngùy, sẵn lòng giúp tận tình, làm cho các chị thảy đều đem lòng trìu mến, tin cậy, cung kính và biết ơn chẳng khi khuây. Đển sau dầu người không còn lo việc Nhà Kín nửa, thì người cũng hằng sẵn lòng giúp đỡ tùy thì tùy thế, chẳng bỏ qua dịp nào mà chẳng tỏ tình ân hậu.

Trước nầy đã nói cha Dumas đã mang nhiều bịnh đau đớn khốn cực. Có bịnh thuốc trị thuyên được, như bịnh có bịnh bất trị, càng thêm tuổi, càng gia tăng, như chứng nhức mõi gân cốt, chứng chóng mặt. Hai chứng nầy thêm khó chịu cho đến nỗi, năm 1913, vài tháng sau lễ Ngũ Tuần Nhà Trường, người không còn làm gì nổi, phải chịu phép mà ở nhà thương. Thêm rủi nữa, là một lượt ấy cha Humbert cũng đau nặng: hai rường cột nhà trường phải lụy xuống với nhau, nên Đức Cha Quinton (mới chịu chức giữa tháng Avril) phải đến ở nhà trường mà lãnh việc cai trị chạy dỗ tạm để cho đến khi bãi trường nửa năm.

Chuyện ấy bịnh phát ra thể nầy: Đêm kia cha Dumas thức dậy, trên giường bước xuống, thì thấy cả mình nhức mỏi quá chừng, lại thêm chống mày chống mặt, chẳng còn biết ngỏ nào, phải nhào xuống dưới rầm bất tỉnh, nằm đó, chẳng rên la, cũng chẳng lên tiếng mà kêu ai đặng. Phải mà Chúa cất cha khi ấy, ắt là phải chết nguội lạnh một mình, chẳng ai hay biết. Chẳng hẳn phải nằm thể ấy bao lâu; lần lần tỉnh hồn lại, thì cha rán chổi dậy, lò mò vịn vách rờ đàng, bước xuống thang lầu, đi tới phòng làm việc, đoạn lại lụm cụm mà xuống nhà thương. Quan thấy Angier đến thăm khám bịnh, chỉ thuốc men, và biếu cha phải cứ ăn thứ bột avoine mà thôi. Dầu đau đớn cực khổ và nhàm lờn, thì cha cũng cứ vưng lời thầy thuốc. Các thầy lên xuống viếng thăm, mỗi lần thấy cha hai hàng nước mắt muốn tuôn rơi , vì tình thương con cái, tưởng chẳng còn thấy mặt các thầy nữa: rày thấy mà miệng phải làm thinh, chẳng nói chi được. Cách một tuần, bịnh giảm ít hơi, người mới thuật lại được tích cớ mình thọ bịnh là như vậy.

Thẩy mình đi già cả, thêm bịnh hoạn ương ế quá, chẳng còn sức mà gánh nỗi qui mô, thì người xin thôi việc cai trị nhà trường, để rán lo một chuyện dạy sách đoán mà thôi. Nên khi tựu trường tháng Août năm ấy, đã có cha bề trên Delignon về nhà trường, mà lãnh việc sửa sang chế trị.

Qua tháng 0ctobre 1915, khi các thầy di dạy hết, thì người cứ ở nhà trường nghỉ ngơi dưỡng sức. Gần cuối năm ngirời tính đi hưởng gió biển tại Phan Thiết, trông cậy mót thêm được một hai chút sức, hầu đến chừng tựu trường năm sau dặng dạy dỗ phấn chấn hơn. Người ra đi trước lễ Sinh Nhựt, mà trong mấy lời người nói khi ấy, và trong cách dọn dẹp sắp đặt mọi sự trong phòng, Xem ra như người dè rằng mình đi luôn không trông thở lại. Tưởng người sẽ về mà cấm phòng làm một cùng các cha Tây, ngày 9 Janvier, song mắc rét, không về nổi.

Bịnh một ngày một thêm, nên qua tới thứ năm, 20 Janvier, đã rước quan thầy coi, thì quan thầy nói còn chở cha về Sài Gòn được, song phải đi lập tức. Thương hỡi! ý người ta sao qua ý Chúa! muốn cho người về nơi dã ẩn dật hơn bốn mươi hai năm, cho đặng thấy mặt con cái cùng kẻ thiết nghĩa quen biết một phen sau hết, mà Chúa đã định khác, cho cha phải tế lễ ý mình một lần sau rốt, không dặng nếm sự an ủi bề ngoài, ngõ cho sự chết xứng đối với sự sống: sống tịch mạc, chết quạnh hiu ...

Vậy nên chưa kịp liệu chở cha về Sài Gòn, thì bịnh đã trở: ngày thứ sáu, cha phải hạ huyết nhiều, vì lở trong ruột. Thấy bịnh thức, sức mòn, cha liền biết ý Chúa, và bằng lòng tế lễ mạng sống mình, mà rằng: Chúa muốn cho cha chết ngoài nầy, thì thôi. Chết đâu cũng vậy!

Người đã chịu phép Xức dầu thánh cách sốt sắng tỉnh táo. Đoạn nằm liệt luôn. Đến ngày thứ hai, 21 Janvier, người không còn nói năng đặng nữa; qua 10 giờ tối, linh hồn ra khỏi xác một cách êm ái dịu dàng, khác nào trái chín muồi lự nhiên rụng xuống. Thiệt đã đầy đủ ngày giờ, cùng đầy đủ công nghiệp! …

Đang lúc ấy cũng có cha bề trên Delignon và cha Delagnes với một ít cha có mặt tại Phan Thiết. Khi vừa hắn người đã tắt hơi, các cha bèn lo mặc áo lễ cho người, đoạn liệm xác vào quan cửu (đã có ông trùm mua sẵn, đáng 50$), nhưng mà chưa là đậy nắp. Sáng ngày quan thầy khán tử rồi, mới đậy lại, mà đem xác vô nhà thờ.

Cha Ngôn đã lo cho bổn đạo hay mà tựu đến cầu lễ cho người.

Qua sớm mai thứ tư, cha Delignon đã hát lễ trọng thế, có thầy năm thầy sáu giúp. Chầu lễ đặng bốn cha tây, bốn cha An Nam; có một thầy sáu ở Sài Gòn đem đồ lễ ra và thay mặt các thầy và các học trò nhà trường. Lại có mấy người trong gia thất bà huyện Sĩ, đang nghỉ tại đó, cũng đến trong cuộc nầy,

Cùng có tin cho các quan Tây Nam, thì phô kẻ ấy đã sẵn lòng đến chầu lễ, quan tây đặng bốn ông với quan Khâm sứ; còn quan ta, thì có quan án, quan bố, quan phủ và một ông nữa. Quan Khâm sứ có cho một tên đội và bảy tên lính hầu quan tài đang mùa lễ và khi đi chôn: coi cũng ra thể oai nghi xứng đáng. Lễ đoạn các cha và viên quan cùng bổn đạo hết thảy đều đưa người cho tới nơi phần mộ, gởi xương người cho đất thánh Phan Thiết.

Một thầy nhà trường gởi lời than kể cha rằng: “Thương ôi! Sao cha sống giữa các con, rày cha chết một mình nơi xa xác! Khi chúng con lìa cha mà đi lo phần rỗi kẻ khác, tưởng là ít tháng về sẽ gặp cha nữa, hầu nghe lời cha dạy dỗ cho cùng: ai dè rày chúng con tựu đây, mà cha lành đâu mất! Thảm thiểt ngần nào!... Sao cha chẳng để các con báo đáp ơn cha... nhiều chẳng đặng, ít nữa một chút trong giờ sau hết.... cùng cực nứa là đưa xác cha đến phần mộ, hầu khóc than cùng cha đôi lời cho phỉ tình hiểu tử “... Đã mấy năm nay nhờ cha dắc díu, nưng đỡ chúng con đặng lên núi thánh, đến khi cha liệt lão mệt mõi cực lực trong cơn bịnh sau hết, cha chịu một mình, chúng con chẳng giúp đặng chút nào... tức tối lòng con, nói sao xiết..

“Tưởng là cha đi nghĩ cho mạnh, hầu trở về dạy dỗ chúng con, nào hay cha đi gởi thân cho đất xa chốn khuất! Một phen cha đi, ngàn thuở hết trông thấy cha trở lại...

“ Nguyện xin Chúa đem cha vào nơi tiêu sái, hầu nghỉ ngơi đời đời cho xứng công cha!...”

Mấy lời thảm não chi tỏ con cái cha thương tiếc cha dường nào. Mà không phải một mình các thầy còn đang ở nhà trường tríu mến mà thôi; các cha An Nam đã nhờ cha dạy dỗ xưa, chẳng hề quên ngãi người. Các cha chẳng những là lo đền ơn trả ngãi cách riêng, mà lại cũng đã hiệp nhau xin một lễ hát trọng tại nhà trường, ngày 15 Mars mới rồi đây. Cha François Tam Assou đã hát lễ ấy, có Đức Cha già và 17 cha Tây với 37 cha ta đến chầu lễ.

Tôi đã ký chép bấy nhiêu đều trước nầy cũng vì là có ỷ đền ơn trả thảo cho đấng đã cao đầy công nghiệp dưỡng ẩy. Et si quidem bene.., hoc et ipse velim; sin autem minus digne, concedendum est mi-hi (Mach., XV, 39).

Mátthêu Đứe.

 

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1916


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét