JEAN BAPTISTE CHAIGNEAU,
NGƯỜI LÀM QUAN DƯỚI HAI TRIỀU GIA LONG-MINH MẠNG
Thỏa ước Versailles ký ngày 28.11.1787 giữa đại diện
triều đình Pháp và Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine), đại diện chúa Nguyễn
Ánh, không khả thi vì hai lý do chính:
- Ngân khố Pháp đang kiệt quệ
- Có sự bất đồng gay gắt giữa Bá Đa Lộc và bá tước De
Conway ở Pondichéry, thuộc địa của Pháp tại Ấn Độ, người được Paris giao trách
nhiệm thi hành thỏa ước.
Cảm thấy bị bẽ mặt vì trọng trách không hoàn thành, Bá
Đa Lộc lưu lại Pondichéry một thời gian khá lâu, vận động tiền bạc mua một ít
tàu bè, móc nối được với một số cựu sĩ quan, viên chức Pháp độ hơn chục người,
đưa họ về đất Gia Định phục vụ dưới trướng chúa Nguyễn.
Nhúm người Pháp đó, mà hai người cuối cùng rời khỏi Việt
Nam năm 1824, chính là đề tài mà những người từng đả kích chúa Nguyễn Ánh –vua
Gia Long đã khoác cho ông cái tội “cõng rắn cắn gà nhà” và “dọn đường cho Pháp
xâm lược Việt Nam”
Bài khá dài vì sự phong phú về mặt sử liệu, hi vọng
các bạn dành thì giờ rảnh rổi để đọc hết.
***
Trong số những người Pháp đến Đại Việt giúp chúa Nguyễn
Anh chống lại nhà Tây Sơn, được nhắc đến nhiều nhất có hai người, một là Jean
Baptiste Chaigneau, được chúa Nguyễn đặt cho tên Việt là Nguyễn Văn Thắng và
hai là Philippe Vannier, được chúa Nguyễn đặt tên là Nguyễn Văn Chấn. Họ được
nhắc đến nhiều không chỉ vì làm quan tại triều đình Huế lâu nhất, mà còn vì cả
hai đều có vợ là người Việt Nam, hạ sinh nhiều người con hai dòng máu Việt-Pháp.
Riêng về Chaigneau, từ nhiều năm qua, có một sự nhầm lẫn
rất phổ biến về thời gian ông đầu quân dưới trướng chúa Nguyễn Ánh. Nhiều tài
liệu sử, kể cả bộ Quốc triều Chánh biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn,
đều cho rằng Chaigneau gặp chúa Nguyễn đồng thời với những người Pháp khác, tức
khoảng tháng 6 âm lịch năm 1789. Trên thực tế, theo một tài liệu khả tín viết rất
chi tiết về lai lịch dòng họ Chaigneau đăng trên tập san Đô thành Hiếu cổ
(BAVH) số 1 năm 1923, thì đến tháng 4.1793, Chaigneau mới gặp chúa Nguyễn Ánh lần
đầu, trước đó, ông tham gia những chuyến hải hành đến các vùng đất châu Á khác,
trên tàu Necker dưới quyền của thuyền trưởng Querangal.
Từ thời điểm năm 1793, Chaigneau được chúa Nguyễn giao
cho việc điều khiển tàu Long Phi trong đội thủy quân hùng hậu do các tướng Việt
chỉ huy và tham dự một số trận đánh với quân Tây Sơn. Tháng 6 năm 1795,
Chaigneau lãnh trách nhiệm đi Macao tìm mua thêm vũ khí để tăng cường việc
trang bị cho thủy quân, chuẩn bị những trận thủy chiến quyết định với đối
phương.
Tuy nhiên, phải đợi đến năm 1800, nhiệm vụ, chức danh
và tước vị của ông trong hàng ngũ quân đội của chúa Nguyễn mới được xác định rõ
rệt. Tháng 3 năm đó, ông được cử giữ chức Khâm sai thuộc nội, Cai đội, tước Thắng
Tài hầu. Đầu năm sau, ông được thăng từ Cai đội lên Cai cơ.
Suốt thập niên 1790 và đầu thập niên 1800, Chaigneau
cùng những đồng hương của ông sát cánh bên chúa Nguyễn Ánh trong cuộc chiến chống
nhà Tây Sơn, lúc đó đã suy yếu. Họ đóng góp khá nhiều công sức trong cuộc chiến
đó, riêng Olivier de Puymanel (ông Tín) còn là tác giả của thành Sài Gòn (xây
năm 1790 và bị phá hủy năm 1835) và thành Diên Khánh (Khánh Hòa).
Khi chúa Nguyễn Ánh đã vô hiệu hóa xong những thành
viên cuối cùng của triều đại Tây Sơn, nhiều người cho rằng sự có mặt của những
người Pháp ở Phú Xuân không còn cần thiết nữa. Tuy nhiên, nhà vua vẫn lưu họ ở
lại, giao cho những nhiệm vụ trong thời bình như thông ngôn hay trung gian
trong các mối quan hệ về thương mại và chính trị với bên ngoài.
Trong số những người này, có lẽ Chaigneau là một trong
số ít được nhà vua sủng ái nhất. Nhiều người vào thời đó thường nhắc lại một
câu nói vui của nhà vua với Chaigneau vào tháng 6.1802 : ”Này, chừng nào ông cưới
vợ? Tình trạng độc thân của ông bị mọi người ở đây chỉ trích đấy. Ta đang nóng
lòng mong ông gặp một cô gái Đàng Trong tốt bụng và xinh đẹp sẽ đem hạnh phúc đến
cho ông và ngăn không cho ông bỏ ta. Ta biết rõ là ông phải tuân theo những
nguyên tắc khắt khe, tôn giáo của ông không chỉ có trên đầu môi. Ta có thể tìm
cho ông một phụ nữ, nhưng ông sẽ không chấp nhận cô ta, vì cô ta không theo đạo
Thiên Chúa. Ông hãy đến gặp vị Giám mục (Giám mục Véren -LN), ông ấy sẽ chọn
cho ông một cô gái có đạo Thiên Chúa. Ông sẽ cưới vợ theo nghi thức của đạo
Thiên Chúa và các bạn đồng liêu của ông sẽ không còn cười nhạo ông và gọi ông
là ông quan độc thân nữa…” (LN tạm dịch từ BAVH – tập 1/1923-trang 57).
Cần nhớ là đến năm đó, Chaigneau đã 33 tuổi rồi. Sự phủ
dụ của nhà vua tạo cho ông sự yên tâm, ngày 4.8.1802, Chaigneau mua một ngôi
nhà ở làng Dương Xuân, bên bờ rạch Phủ Cam và mấy ngày sau, làm lễ cưới với cô
Benoite Hồ Thị Huề, thuộc một gia đình giáo dân Thiên Chúa cư ngụ ở phường Thợ
Đúc. Chị cô Huề là Hồ Thị Nhơn lấy chồng là De Forçant (Lê Văn Lăng), trong
nhóm những người Pháp đến Đại Việt năm 1789.
Hôn lễ diễn ra tại nhà thờ phường Thợ Đúc dưới sự chủ
lễ của Giám mục Véren. Cuộc hôn nhân này kéo dài 13 năm và cho ra đời 11 người
con, 6 chết lúc còn rất nhỏ, chỉ còn lại 5 người. Cũng trong năm 1802, vua Gia
Long thăng Chaigneau lên chức Chưởng cơ (tòng nhị phẩm), tiếp tục kiêm chức
Khâm sai thuộc nội, tước Thắng Toán hầu. Về sau, cháu nội ông vẫn còn lưu giữ sắc
chỉ này.
Đúng như toan tính của vua Gia Long, một người vợ Việt
Nam và bốn đứa con (vào thời điểm 1807-1808) là sức mạnh níu chặt Chaigneau ở lại
Việt Nam. Năm 1808, lần đầu tiên ông nhận được tin tức từ gia đình ở Pháp, sau
gần 15 năm xa nhà. Tuy nhiên, năm 1815, một bất hạnh lớn xảy đến với Chaigneau.
Bà Hồ Thị Huề mất đột ngột khi sinh đứa con thứ 11, nhiều người cho là do sự bất
cẩn của bà mụ quen.
Hai năm sau (1817), ở tuổi 48, Chaigneau cưới con gái
của Laurent Barisy (trong nhóm người Pháp giúp chúa Nguyễn Ánh) là Hélène, nhỏ
hơn ông 31 tuổi. Mặc dầu vậy, bạn bè của ông và các giáo sĩ ở Huế đều không phản
đối cuộc hôn nhân này. Có được hạnh phúc gia đình nhưng sinh hoạt cung đình
không làm cho ông cảm thấy hào hứng nữa.
Ngày 1.12.1817, ông viết cho người anh lớn một lá thư
nói lên tâm trạng đó. Mặt khác, đến những năm cuối thập niên 1810, vua Gia Long
đã khá yếu sức rồi, sự thay thế ông là điều có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Để
chuẩn bị cho một chuyến hồi hương, Chaigneau bán ngôi nhà ở Dương Xuân cho công
chúa Bảo Thuận và đến ngày 2.11.1819, ông ngỏ lời xin vua Gia Long cho trở về
Pháp. Lúc đầu, vua Gia Long không thuận với một yêu cầu ngoài ý muốn như vậy, nhưng
trước sự khẩn khoản của Chaigneau, ông chịu cho nghỉ phép 3 năm, sau đó quay lại
Việt Nam tiếp tục công tác.
Ngày 4.11.1819 Chaigneau cùng gia đình đi đường bộ ra
Tourane, dẫn theo một đoàn phu khuân vác hành lý lên đến 200 người. Ngày 13.11,
tàu Henri nhổ neo đưa họ về Pháp. Cùng đi với ông chuyến này, có 5 người con của
ông với bà Hồ Thị Huề, người vợ sau là Hélène Barisy và hai con chung của họ.
Sau một hành trình dài, tàu Henri cập cảng Bordeaux
ngày 11.4.1820. Vì chuyến trở về Pháp của Chaigneau chỉ là một chuyến nghỉ phép
với tư cách một quan lại Việt Nam nên triều đình Pháp không muốn bỏ qua cơ hội
này để mở rộng mối quan hệ với nước ta. Ngày 12.10.1820, vua Louis XVIII ký sắc
lệnh đề cử Chaigneau làm lãnh sự và đặc ủy của nhà vua bên cạnh triều đình Việt
Nam, kèm theo một lá thư gửi cho vua Gia Long. Triều đình Pháp có lý khi tranh
thủ con người này, vì họ đã biết ít nhiều về sự thân tình, gần gủi giữa
Chaigneau và vua Gia Long, hi vọng sự gắn bó giữa hai người sẽ giúp nước Pháp
tiến xa hơn trong mối quan hệ Pháp-Việt. Có điều là với sắc lệnh trên, từ ấy,
Chaigneau sẽ ở vào một hoàn cảnh khá tế nhị là đại diện cho quyền lợi của cả
hai quốc gia đang tìm hiểu, thăm dò nhau.
Đầu tháng 8.1820, Chaigneau đi Albi, ở một thời gian với
người chị, rồi đưa gia đình đi Bretagne, lưu trú ở đó hơn sáu tuần lễ. Ngày
15.10.1820, ông cùng vợ con lên tàu LaRose đi Bordeaux rồi từ đó khởi hành trở
lại Việt Nam ngày 1.12.1820. Tàu chạy ngang Mũi Hảo Vọng (Cap de Bonne
Espérance) ngày 2.2.1821, đến Batavia ngày 5.4.1821 và cuối cùng thả neo ở cửa
Thuận An ngày 17.5.1821.
Vừa đặt chân lên vùng đất quen thuộc, Chaigneau tiếp
nhận một tin buồn: vua Gia Long đã qua đời từ hơn một năm rồi! (đầu năm 1820).
Điều này đã khiến ông hết sức xúc động. Trong bức thư đề ngày 19.8.1821 gửi từ
Huế cho người anh ở Pháp, Chaigneau đã viết như sau:
“Anh thân mến, Tụi em đã về đến đây, sức khỏe tốt.
Nhưng em không còn nhìn thấy Đàng Trong như lúc em đã rời nó. Khi vừa đến đây,
em được biết cái chết của vị vua lớn tuổi đã gây ra nhiều biến đổi. Em thực sự
tiếc rẻ về điều này và sẽ còn tiếc rẻ lâu dài, vì đó là một con người dũng cảm.
Ông mất như một người đã sống với tất cả sự bình tâm và lẽ phải. Ông đã dùng những
ngày cuối đời để khuyên răn người con trai (tức vua Minh Mạng sau này-LN) trước
mặt các vị đại thần mà ông đã tập trung trong căn phòng của mình…..Vị võ quan
thứ nhất mà người ta gọi là tả quân (nguyên văn: tả quừn, tức tả quân Lê Văn
Duyệt-LN) là một hoạn quan, người mà em từng nói với anh là đang đứng đầu triều
đình (đó là một người có năng lực thực sự), nhà vua sau khi gửi gắm con trai
mình cho ông và triều đình, đã căn dặn con là không bao giờ được làm sai những
lời khuyên bảo của những vị này, vì họ là những người phụng sự lâu năm và quen
thuộc với công việc triều chính. Sau đó, ông lệnh cho ông tả quân là nếu con
trai ông ra lệnh điều gì chống lại quyền lợi của vương quốc thì hãy cưỡng lại
và không được thi hành. Ông cũng dành cho người con những lời khuyên phải cư xử
như thế nào để cai trị có hiệu quả, và tất cả những lời khuyên của ông cần được
ghi nhớ. Ông nói với con trai rằng từ khi khôi phục lại ngai vàng, ông luôn bắt
người dân phải làm việc cực nhọc để chất đầy kho chứa, với ý định mang đến cho
con một triều đại tốt đẹp, điều này khiến cho người dân rất mệt mỏi, cần được
nghỉ ngơi. Do đó con ông cần bắt đầu thời kỳ trị vì của mình bằng cách miễn tất
cả các loại thuế và tha cho họ việc lao dịch công ích…..” (LN tạm dịch từ BAVH
–số 1 năm 1923-trang 171-172)
Đoạn thư trên của Chaigneau là một sử liệu khá thú vị,
cho thấy phần nào cá tính của vua Gia Long, sự tôn trọng các công thần đã theo
ông suốt những năm tháng gian khó, hiểm nguy nhất (như Lê Văn Duyệt, Phạm Đăng
Hưng…) và giúp ta hiểu được phần nào mối quan hệ rất tế nhị giữa vua Minh Mạng
và Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt sau này.
Những ngày đầu mới trở qua Việt Nam, Chaigneau được
vua Minh Mạng tiếp khá niềm nở. Nhà vua đã khóc khi nhắc đến cái chết của tiên
đế, trân trọng tiếp nhận quốc thư và quà tặng của hoàng đế Pháp trong một lễ
chính thức diễn ra vào ngày 16.7.1821. Không lâu sau, Chaigneau mua một ngôi
nhà ở chợ Được để cư trú. Tuy nhiên, qua một số sự kiện xảy ra trong việc đại
diện cho triều đình Huế tiếp một số thương nhân nước ngoài, Chaigneau cay đắng
nhận ra rằng mình không được đối xử đúng mực, vừa với tư cách một quan lại Việt
Nam, vừa với cương vị một lãnh sự bên cạnh triều đình Huế.
Sự thất vọng của viên quan người Pháp càng tăng cao
sau khi giám mục Véren, chỗ dựa tinh thần của cả Chaigneau lẫn Vannier, đã mệnh
chung vào ngày 6.8.1823. Chưa hết, trong mối quan hệ với một giáo sĩ Việt Nam
là cha Thật, người đã đỡ đầu cho bốn đứa con của ông, Chaigneau cảm thấy mình bị
“phản bội”, vì bao nhiêu tâm tư giãi bày với ông giáo sĩ này đều bị ông ta báo
cáo hết với triều đình Huế.
Trong lá thư đề ngày 1.11.1823 gửi cho giáo sĩ
Bissachère, Chaigneau đã viết: ” Tôi rất mong sẽ không sống thêm hơn một năm nữa
ở cái xứ sở chết tiệt này. Không còn gì để ở lại nữa. Tôi tin là tôi sẽ điên mất”
(BAVH số 1/1923-trang 91).
Tháng 10.1824, cả Chaigneau lẫn Vannier đều xin vua
Minh Mạng cho về hưu. Ý nguyện này được chấp thuận. Ngày 25.10, Chaigneau bán
nhà và 20 ngày sau, 15.11.1824, hai gia đình Chaigneau và Vannier cùng rời Huế.
Sự ra đi thật gấp gáp như vậy khiến nhiều người suy nghĩ, mãi về sau, người vợ
trẻ của ông tiết lộ là vào lúc ấy, vua Minh Mạng có gửi cho Chaigneau một cái
khay trên đặt một chiếc tàu thu nhỏ và một vuông lụa. Ông ta suy diễn là nhà
vua đặt mình trước hai con đường: hoặc rời khỏi Việt Nam (chiếc tàu), hoặc bị
treo cổ chết (vuông lụa). Tuy nhiên, đó là lời kể lại của người vợ, chứ bản
thân Chaigneau không thấy viết gì về những ngày cuối cùng ở Huế.
Khi rời Huế, Chaigneau và Vannier đi theo thuyền buồm
của người Việt vào Sài Gòn, viếng mộ giám mục Bá Đa Lộc, người đã dìu dắt họ
trong những ngày đầu đến Việt Nam. Tại đây, ông suýt chết trong một cơn đau nặng,
nhưng vẫn không tránh khỏi mất mát: hai con trai của ông với bà Benoite Hồ Thị
Huề là Louis và Joseph lâm bệnh rồi lần lượt qua đời tại Sài Gòn.
Về đến Pháp rồi, năm 1826, Chaigneau được hưởng khoản
trợ cấp nghỉ hưu 1.800 franc/năm (có thể là tiền hưu trong thời gian ông phục vụ
cho triều đình Pháp, trước khi gặp chúa Nguyễn). Ông quay về quê nhà ở Lorient,
sống âm thầm như đã từng ao ước từ bấy lâu. Tháng 10.1827, một điều bất ngờ xảy
ra: ông nhận được thư thăm hỏi đề ngày 26.11 âm lịch (24.12.1826) của vua Minh
Mạng kèm theo một số tặng phẩm gồm các độc bình tráng men lam, các tấm lụa, khiến
các bà, các cô ở Lorient vô cùng thích thú. Năm 1830, triều đình Pháp cắt lương
hưu của ông. Những bất như ý từng xảy ra ở Huế, nay lại tái diễn ở Paris.
Ngày 31.1.1832, sau 45 năm hoạt động tích cực,
Chaigneau tạ thế ở Lorient.
***
Chaigneau có để lại cho đời tập Le Mémoire sur la
Cochinchine (Ký ức về Việt Nam) do ông soạn vội vả trên chuyến tàu Henri trở về
Pháp nhằm đáp ứng yêu cầu của triều đình vua Louis XVIII muốn biết ít nhiều về
Việt Nam. Tập sách này hiện được lưu trữ tại Văn khố của Bộ Ngoại giao Pháp,
nhưng chỉ là một bản sao, không chữ ký, không có chi tiết nào xác định tác giả.
Tuy nhiên, xem qua nội dung tập ký ức, các nhà phân tích xác định tác giả là
Jean Baptiste Chaigneau.
Trong tác phẩm này, Chaigneau đề cập đến nhiều vấn đề
liên quan đến tình hình Việt Nam đầu thế kỷ 19 như: phân chia lãnh thổ hành
chánh, dân số, tổ chức chính quyền trung ương và địa phương, tình hình quân sự,
thuế khóa, tư pháp, phong tục, tôn giáo, nông nghiệp, thương mại, công nghiệp …
Đây có lẽ là một trong những tập ký ức đầu tiên của người nước ngoài đề cập
tương đối chi tiết về tình hình ngoại thương của Việt Nam vào đầu thế kỷ 19.
Song ngoài giá trị về mặt tư liệu mà trong đó không ít những chi tiết cần được
thẩm định lại (như ước lượng dân số VN thời đó từ 15 đến 20 triệu người !!),
tác phẩm của Chaigneau không mấy đặc sắc, có lẽ do ông biên soạn vội vã trong một
chuyến hải hành. Cuốn hồi ký Souvenirs de Hue (Hồi ức về Huế) của con trai ông
là Michel Đức Chaigneau xuất bản gần 50 năm sau (1867), xem ra có nhiều chi tiết
thú vị hơn rất nhiều, nhất là ở những đoạn viết về vua Gia Long và Thừa Thiên
Cao hoàng hậu (mẹ hoàng tử Cảnh).
25.10.2015 – 25.10.2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét