Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời, thì hơn tin cậy ở người trần gian. Cậy nhờ thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời. Tv 118

Thứ Tư, 25 tháng 8, 2021

Ghi chú: VỀ TÊN GỌI ĐỊA GIỚI: "KỲ", "BỘ"...

 Ghi chú: VỀ TÊN GỌI ĐỊA GIỚI: "KỲ", "BỘ"...

(trong bài này dù ngắn nhưng có cái để chú ý, xin mời)

1/ "KỲ" (): Đời vua Minh Mạng, vào năm 1832 lần đầu tiên cách gọi cho từng miền mới được định ra trên toàn cõi nước Việt, được gọi là "KỲ" gồm: Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ.

Về sau này, khi Pháp xâm chiếm nước Việt, họ gọi ba miền bằng... tiếng Pháp (dĩ nhiên): "Cochinchine", "Annam", "Tonkin". Ở dải đất phương Nam mà Pháp gọi "Cochinchine" họ đặt ra 20 tỉnh chớ không còn 6 tỉnh của "Nam kỳ lục tỉnh" thời vua Minh Mạng.

Nhưng, ký ức "lục tỉnh" không bao giờ xóa nhòa cho nổi, như đầu thế kỷ 20 dù không còn "6 tỉnh" như trước mà dân miền Nam vẫn ra báo và ưng lấy tên là "Lục tỉnh tân văn" đó đa!

Cách gọi "KỲ" (Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ) kéo dài trên một thế kỷ, từ năm 1832 cho đến tháng 3 năm 1945 thì mới dứt hẳn (Pháp gọi tên từng vùng bằng tiếng Pháp, tuy nhiên triều đại nhà Nguyễn và người dân vẫn gọi... bằng tiếng Việt, là "KỲ").

Tính ra, danh xưng "KỲ" hiện diện chính thức được 113 năm.

2/ BỘ (): cách gọi này xuất hiện từ tháng 3 năm 1945.

2a) Tháng 3/1945 ra đời quốc gia mang tên "Đế quốc Việt Nam" với nội các của Thủ tướng Trần Trọng Kim. Lẽ ra vua Bảo Đại (nguyên thủ Đế quốc VN) vẫn dùng danh xưng "KỲ" cho từng miền vì đó là tên gọi do chính tiên tổ trong dòng tộc nhà Nguyễn đặt ra (Hoàng đế Minh Mạng).

Nhưng, vua Bảo Đại và chánh phủ Trần Trọng Kim đã đổi sang cách gọi "Bộ" (thay vì "Kỳ"): "vuốt mặt thì phải nể mũi" vì được cho rằng danh xưng "BỘ" là do Thống sứ phát-xít Nhựt Bổn Nishimura đặt ra ( , người Nhựt đọc là  /bu/, âm Việt là "bộ").

Vì, nói nào ngay, chánh phủ Bảo Đại - Trần Trọng Kim được sự bảo trợ của Nhựt mà thành hình.

2b) Thể chế Việt Nam dân chủ cộng hòa (VNDCCH) tiếp tục áp dụng cách gọi "BỘ" (Nam bộ, Trung bộ, Bắc bộ). Và, thể chế Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN (CHXHCNVN) như hiện nay vẫn dùng cách gọi phân vùng địa giới là "BỘ".

(trong khi đó thể chế Việt Nam cộng hòa, 1954-1975, dùng cách gọi là "Phần" - Nam phần, Trung phần, Bắc phần)

3/ Suốt dòng chảy lịch sử trên 900 năm tự chủ của nước Việt - kể từ năm 938 thời nhà Ngô (Ngô Quyền), rồi nhà Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê cho đến năm 1884 thời nhà Nguyễn - nghĩa là trong những triều đại quân chủ người Việt nắm quyền độc lập trọn vẹn trên toàn lãnh thổ, khi nhìn vào cách phân giới lãnh thổ, thấy gì?

Có những cách phân chia về địa giới lớn nhỏ như: tổng, phủ, dinh, trấn, thành, tỉnh, huyện .v.v.. Nhưng, không thấy xuất hiện cách phân giới gọi là "Bộ" ().

(mở ngoặc: "Bộ" được dùng như cơ quan hành chánh thì có, như "lục bộ"   trong triều đình gồm có bộ Lại, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hình, bộ Công)

Cách gọi "BỘ", trong phân vùng địa giới, chỉ thấy xuất hiện dưới thời Bắc thuộc, bị Tàu đô hộ - "Giao Chỉ bộ"   .

Trong khi đó, nhiều thế hệ tiền nhân người Việt, suốt hơn 900 năm, không chọn cách gọi "BỘ" trong phân vùng địa giới.

(cũng có thể xuất hiện "Bộ", trong ý nghĩa địa giới, vào lúc nào đó chăng? mong quí bạn giúp bổ khuyết, chỉ dẫn cụ thể) ./.

-----------------------------------------------------------

* Hình ảnh đính kèm đọc cho biết: bên nước Giữa (trung quốc), trong quốc phòng, chia thành 5 chiến khu   ("ngũ đại chiến khu").

Dựa theo sự phân định địa giới từng vùng, Tàu gọi là "BỘ"  :

- BẮC BỘ ( )

Gồm Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh, Nội Mông và Sơn Đông.

- TRUNG BỘ (中部)

Gồm Bắc Kinh, Thiên Tân, Hà Bắc, Sơn Tây, Hà Nam, Thiểm Tây và Hồ Bắc.

- TÂY BỘ (西 )

Gồm Tứ Xuyên, Tây Tạng, Cam Túc, Ninh Hạ, Thanh Hải, Tân Cương và Trùng Khánh.

- ĐÔNG BỘ ( )

Gồm Giang Tô, Chiết Giang, Thượng Hải, Phúc Kiến, An Huy và Giang Tây.

- NAM BỘ ( )

Gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, Hải Nam, Vân Nam, Quý Châu, Hương Cảng và Áo Môn.





Nguồn: Nguyễn - Chương Mt

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét