KỂ LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ
ĐỊA
PHẬN NAM KỲ
-----------------
PHẦN
PHỤ THÊM
------------------
I.
- Tích Cố Du bị bắt và chịu tử đạo
(rút
trong Bổn tích 52 Đấng đáng kính trung thần Thiên Chúa)
------------------
Trong năm 1833, vua Minh
Mạng hạ chỉ cấm đạo Thiên Chúa trong nước Annam và bắt đạo nhặt nhiệm lắm, thì
lúc ấy Cố Du đang ẩn tại Mặc Bắc. Qua năm 1834, khi Chánh vệ Khôi chiếm được
thành Gia Định rồi, thì quyết bắt cố Du đặng mà ép người khuyến dụ bổn đạo theo
phe nó, nên nó sai quân lính xuống Mặc Bắc đi tầm soát bắt cố Du dẫn về Gia Định.
Ban đầu thì Chánh vệ Khôi
để người ở yên tại họ Chợ Quán, cũng như giam lỏng người. Cố Du ở đó được ít
lâu, cứ lo việc dạy dỗ bổn đạo và đi thăm viếng mấy họ ở gần Chợ Quán. Chừng
Chánh vệ Khôi nghe binh vua Minh Mạng sai vô dẹp loạn đã gần tới Saigon, thì
sai quan quân đem ngựa voi vô Chợ Quán rước cố Du vào thành có ý cho đặng người
ký tên những thơ nó đã viết sẵn, mà dễ khuyên bổn đạo theo phe nó, song Chánh vệ
Khôi làm thế nào thì cố Du cũng từ chối không chịu, đến đỗi khi nó bắt ép người
quá, thì người nổi giận, nên liều mạng lấy mấy bổn thơ để trên bàn mà bỏ vào lửa
cho cháy tiêu hết. Chánh vệ Khôi ép cố Du không đặng phen đó, thì tính cầm người
lại trong thành để thủng thẳng sẽ ép người phen khác. Cố Du bị nguỵ khôi cầm
trong thành được chừng 18 tháng, đến sớm mai bữa 8 Septembre 1835, khi người
còn đang làm lễ thì nghe tiếng quân lính xôn xao đâm chém thiên hạ rên giết om
sòm, người lo làm dứt mùa lễ, mới vừa cởi đồ lễ ra, thì lính áp vô đánh người một
cây ngang lưng, người té quị xuống đất, lính xúm lại xiềng người mà bỏ vào
trong củi nhỏ hẹp, đặng để sau giải về kinh (Huế) cho vua quan tra xét. Khi đó
quân lính chém giết trói hai ngàn người đã bị ngụy Khôi bắt cầm trong thành,
trong số ấy thì có 66 người có đạo, mà đờn bà con nít đã hơn 40. Còn năm sáu tướng
ngụy, thì lính cũng bắt riêng lại để giải về kinh một lượt với cố Du.
Vua quan nghe nói quân
lính bắt cố Du ở trong thành, thì nghị quyết cho người a tùng với nguỵ Khôi,
nên đã tra hạch kềm khảo người nhiều cách hung dữ độc ác lắm, mà cật vấn người
nhiều phen về đều ấy, song người cứ khắn khắn một lời mà xưng ngay ra rằng:
“Tôi là thầy cả đến xứ nầy cho đặng giảng đạo Thiên Chúa, thì tôi chỉ là một việc giảng đạo mà thôi, chẳng biết
chi tới việc quân ngụy và không có ăn thua gì với chúng nó bao giờ, song bỡi ngụy
Khôi đã bắt tôi mà cầm ở trong thành, không thể nào thoát được nên quân lính
vua đã gặp tôi tại đó”.
Quan làm hết sức, song
không bắt ra được lý nào mà đoán tội người a tùng với nguỵ Khôi, thì quan lại
trở qua bắt tội người về việc giảng đạo Thiên Chúa, là đều quốc cấm, và ép người
khóa quá bỏ đạo, thì người tỏ dấu khinh dễ những lời quan ép và nói rằng: “Chính
mình tôi là thầy cả đến đây cho đặng rao truyền đạo thánh Chúa cho thiên hạ, mà
có lẽ nào tôi lại đi làm đều quái gở như vậy, mà quan ép cho uổng công.”
Sau hết quan phải chịu
thua mà chạy sớ tâu vua tự sự trước sau. cũng có thêm nhiều chuyện dối trá phi
lý mà cáo người có đạo theo một bụng với quân ngụy Khôi, nên vua phê án xử cố
Du phải chịu bá đao, là hình khổ rất độc địa khốn nạn dữ dằn quá sức. Người đã
bị xử bá đao tại Huế ngày 30 Novembre 1835, và sau hết vua quan dạy lý hình phân
thay người ra làm bốn khúc mà thả trôi sông, còn đầu người thì bêu ba bữa giữa
thành, rồi lại đem giã nát mà đổ xuống sông.
Toà thánh xét vụ cố Du chịu
tử đạo và đã tặng phong người lên hàng có lộc (Á Thánh) ngày 27 Mai 1900.
-------------------
II.
Tích Á Thánh Phaolồ Hạnh tử đạo
(rút
trong Bổn tích 52 Đấng đáng kính trung thần Thiên Chúa)
------------------
Phaolồ Hạnh là người đạo
dòng ở tại Chợ Quán. Nguyên quê quán tổ phụ người hồi tiền nhựt ở xứ Tân Triều,
thuộc tĩnh Biên Hoà, đến sau song thân người dời xuống Chợ Quán ở lập gia cư tại
đó đã lâu năm trước khi binh tây qua lấy Saigon, và đã sinh đẻ người tại Chợ
Quán trong năm 1826-1827. Ông Hạnh là con ông Thầy Xoay, thuở xuân thời đã hùn
hiệp với một người bạn hữu mà sanh phương buôn bán tầm lợi chút đỉnh, đến sau
người lại nhập với hai người anh ruột tên Thành và tên Ngãi.
Buổi ấy thiên hạ đồn tiếng
ba anh em ông Hạnh không được chơn chính ngay lành cho mấy; có kẻ lại nói ông Hạnh
trử dưỡng và luyện tập những trẻ bợm nữa. Tiếng thiên hạ đồn thì như vậy, còn
người bạn hữu đã hùn buôn bán với ông Hạnh buổi trước thì quả quyết rằng:
“Trong lúc hai anh em hùn hiệp buôn bán chung cùng với nhau thì ông Hạnh hằng
ăn ở ngay ngắn thật thà trong mọi việc, chẳng bao giờ thấy dấu gì gian dối vạy
vò chút nào”. Bỡi đó nên không dám chắc sự thiên hạ đồn chơn giả thế nào.
Đến sau có một lần người
ta đến giữa quan mà cáo ba anh em về sự ấy, thì quan dạy bắt đem tới tĩnh mà
tra khảo. Khi quan cật vấn về vụ người ta cáo, thì ba anh em nói năng đối nại
cách chửng chàng lắm, chẳng có ngập ngừng hay là có dấu sợ lệnh chút nào nên
quan hồ nghi mà tra hỏi tiên cáo lại cho rõ, thì đàng nọ nói lính quính không
ra vàm, cho nên quan tra xét không ra mối, phải đuổi hai đàng về hết.
Dẫu vậy mặc lòng, thiên hạ
cũng còn đồn tiếng ông Hạnh về nhiều chuyện khác nữa, không hiểu chuyện thiệt dối
làm sao. Người ta nói có một bà kia, là người bổn đạo Chợ Quán, tên là bà Hồng,
bị ăn trộm, rồi bà nầy thuật chuyện đầu đuôi cho ông Hạnh rõ, thì người ngăm đe
ngăn đón biểu sắp bợm đừng có động phạm tới nhà nào ở xóm Chợ Quán, song chúng
nó cũng bất đếm, nên lần khác chúng nó đến quơ hết áo quần của một người bổn đạo
khác trong họ. Chừng ông Hạnh hay được, thì người bắt tụi bợm phải đem trả để lại
cho nhà ấy đủ hết, nên chúng nó giận dữ, quyết lòng báo thù, bèn rủ nhau đứng
đơn tới quan mà cáo rằng: - “Ông Hạnh đã dẫn lộ cho binh tây lên lấy đồn Cây
Mai.”. Khi đó có xã Trị làm thôn trưởng đương niên trong làng, với một người
khác, tên là xã Dệt, cũng đứng làm chứng theo bọn nó.
Bỡi vậy nên quan dạy bắt
ông Hạnh dẫn lên đồn Bà Quẹo mà tra khảo, song khi quan cật vấn người về vụ bị
cáo, thì người đối nại cách dạn dĩ hẳn hòi mà rằng: “Tôi có quen lớn ăn thua gì
với Tây bao giờ, mà nói tôi dẫn lộ cho Tây; còn Tây ở đâu thì tôi cũng không biết,
mà tôi làm thế nào mà dẫn lộ cho được”, - Dầu quan tra khảo ngăm đe thế nào thì
người cũng cứ một lời ấy mà thôi, còn tiên cáo thì chẳng có bằng cớ gì mà làm
chứng về vụ chúng nó cáo người, cho nên quan không biết bắt lý nào mà tra khảo
vụ ấy cho ra mối được.
Song bỡi ý Chúa soi khiến
thế nào không hiểu, nên khi tra vụ ông Hạnh bị cáo không ra mối, thì quan ấy lại
trở qua việc đạo mà hỏi người như sau nầy: “Tao nghe nói mầy với tụi anh em mầy
ở xóm Chợ Quán, bây theo đạo Datô phải không?”
Từ hồi ông Hạnh mới đến
trước mặt quan cho tới khi đó, người đã đối nại cách dạn dĩ vững vàng thể nào về
vụ người bị cáo, thì khi nghe tra hỏi tới việc đạo Thiên Chúa, người lại càng
thêm chắc gan bạo dạn hơn nữa mà đáp lại rằng: “Quả thật như lời quan nói, tôi
là người giữ đạo Thiên Chúa thuở nay.”.
Quan liền ép người khóa
quá bỏ đạo, song người chẳng chịu, thì quan dạy đánh đòn, người cũng chắc một
lòng, chẳng chịu xuất giáo, thì quan dạy lý hình đem kềm nguội mà rứt từ miếng
thịt, người cũng chẳng nao lòng chút nào. Quan thấy vậy thì dạy lính đem bỏ người
vào ngục, để chờ một đôi ngày, họa may người có nao lòng mà chịu khóa quá
chăng.
Qua bữa sau quan dạy dẫn
ông Hạnh ra mà tra khảo và ép người khóa quá một bận nữa, song người cũng cứ một
lòng như trước, nên quan dạy lý hình nướng kềm cho đỏ mà bắt thịt người, thì
người cũng chẳng nao núng chút nào. Quan thấy vậy thì nổi hành hung, dạy lính
đem đe đem búa, rồi biểu lý hình kéo chơn người ra mà dần nát hai ống chơn, coi
người có chịu xuất giáo chăng, song ông Hạnh cũng cam lòng chịu hình khổ rất độc
ác dữ dằn ấy, mà chẳng chịu khóa quá.
Khi quan thấy ông Hạnh chắc
gan dường ấy, thì chẳng còn thế nào mà ép người bỏ đạo được nữa, nên qua phải
khép án xử trảm quyết người.
Đến ngày 28 tháng năm tây
năm 1859, khi quân lính dẫn ông Hạnh đi chốn pháp trường, dọc đàng gặp một người
kia, thấy ông nầy bị hình khổ khốn nạn, đến đỗi phải kéo lết hai chơn, đi không
được nữa, thì người ấy động lòng thương xót, liền trao cho ông Hạnh sáu đồng tiền
điều mà biểu người cho tả đao đặng dặn nó chém một lưỡi gơm cho ngon, cho bớt sự
đau đớn cực lực trong giờ sau hết.
Khi tới chỗ pháp trường
thì ông Hạnh cũng chẳng có dấu sợ hãi chút nào, người một vững lòng chịu chết
vì đạo thánh Chúa, cho nên dầu mà người bị thiên hạ nói người hồi tiền nhựt là
một tay gian dối xảo trá mặc lòng, những kẻ ấy cũng phải hiểu, đến ngày nay người
đã sẵn lòng chịu gia đình khốn nạn cùng chịu đổ máu mình mà xưng đạo thánh Chúa
ra trước mặt thiên hạ, thì máu ấy đã rửa sạch các tiền khiên người, và chúc ấy
người đã được nghe tiếng Chúa phán cùng người, như xưa đã phán cùng kẻ trộm
lành rằng: “Thật hôm nay mầy sẽ được lên nơi vui vẻ cùng Tao,”.
Khi ông Hạnh chịu tử đạo
rồi, thì quân lính chôn nguời gần nơi chỗ đã chém người, song đến sau bỡi đất
chài lở lộn xộn, nên mất dấu không tìm hài cốt người được.
Tòa thánh đã xét vụ ông Hạnh
chịu tử vì đạo, thì đã tặng phong người lên bực Đáng kính ngày 13 tháng hai tây
năm 1879, đoạn đến sau đã tặng người lên hàng Có lộc trong ngày 22 tháng năm tây
năm 1909.
-----------------
III.
– Tích ông Antôn Thiện bị bắt.
(rút
trong Bổn tích 52 Đấng đáng kính trung thần Thiên Chúa)
------------------
Ông Antôn Hồ chí Thiện là
con ông Hồ chí Nghĩa, nhà đạo dòng quê quán tại xứ Sa Đéc, thuở 21 tuổi người
đến cưới vợ tại Chợ Quán, và sau ở lập gia cư tại đó luôn. Vợ người là bà Maria
Huỳnh thị Điều, là con ông trùm Huy, ở họ Chợ Quán.
Ông Antôn Thiện tánh nết
hiền từ, siêng năng sốt sắng việc đọc kinh xem lễ, và xưng tội rước lễ thường,
người chẳng biết rượu trà cờ bạc, cũng chẳng hề khi nào mở miệng mà nói một lời
gì thô tục khó nghe, lại tánh ý ăn ở với anh em bà con không bao giờ mất lòng
ai.
Khi binh tây qua lấy
Saigon rồi là tháng hai tây năm 1859, mà chưa lấy tới miệt trên, nên bổn đạo Chợ
Quán ở không yên, nhiều người chạy qua Xóm Chiếu, mấy người con ông trùm Huy cũng
đã chạy đi hết, còn một mình vợ chồng ông Thiện ở lại Chợ Quán mà thôi. Ông nầy
có một anh ruột làm thầy cả (là cha Hạp), năm ấy đang coi họ Bà Rịa, mà ở đó
quan quân tầm soát bắt bớ nhặt nhiệm lắm, không thể ẩn được, nên cha Hạp phải
chạy lên Chợ Quán trú tại nhà ông trùm Huy được ít lâu. Chừng ở Chợ Quán không
yên; cha Hạp phải dời đi nơi khác, thì người cậy em là ông Thiện lo đem đồ lễ của
người qua Xóm Chiếu mà gởi. Ông Thiện biết việc đem đồ lễ ấy đi là việc rất hiểm
nghèo lắm, song nếu để im lìm tại Chợ Quán rồi rủi quan quân bắt được đồ nầy
trong nhà nào thì khốn tai cho nhà ấy, và sợ cha Hạp không khỏi chết nữa, nên
người thọ lãnh đem đồ lễ đi gởi, và lo xếp gói sẵn trong mo cau, đến tối người
đem giấu dưới đáy ghe lường, còn trên thì chất đầy những trầu cau, giả là ghe
đi buôn bán, rồi lén chèo ghe đi ra vàm. Từ trong nhà đi ra gần tới cầu Bà Đô bằng
an, tưởng có lẽ đi luôn được, nên người lén chèo tuốt ra cầu, không dè có kẻ đã
mạch cho lính giữ ngoài vàm hay rồi, nên khi ghe người chèo ra vừa tới giữa
sông thì lính kêu ghe ghé, người nói ghe đi bán trầu cau, chúng nó không nghe,
bắt trở lại xuống xét ghe, lục được đồ lễ gói sắp ở dưới trầu cau, thì lính
trói ké người lại mà dẫn lên đồn nộp cho quan. Theo sắc chỉ vua Tự Đức, thì tội
ông nầy xử trảm quyết.
Đến sáng ngày quan khỉ sự
xử đánh đòn ông Thiện 50 trượng mà tra khảo về những đồ lễ người giấu dưới ghe,
vì quan quân hồ nghi người là thầy cả.
Khi bà vợ nghe tin người
đã bị bắt dẫn lên đồn rồi, thì lật đật đi theo đến đó mà nghe coi công việc thể
nào. - Chừng bà vợ lên tới nơi thì thấy ông Thiện mang một cái gông to lớn nặng
nề lắm, lại người bị đòn trượng bịnh quá, còn nằm dưới đất, vì khi quân lính
kéo hai cánh tay người mà giăng nọc, thì chúng nó kéo rán quá sức, đến đỗi đã
rách da lòi gân nách ra, còn trọn cái bàn trôn thì bị đòn khoét móc hết thịt,
nên đau đớn cực lực quá lẽ, mà quan tra chưa ra mối nào nên dạy đem cầm ngục
người lại, đặng tra khảo phen khác, song người chổi dậy không nổi, lính phải lôi
đại người vào ngục.
Không rõ lúc sau ông Thiện
đã bị tấn khảo mấy lần nữa. Song bỡi người trượng bịnh mà chẳng ai nuôi dưỡng
thuốc men gì, có một mình bà vợ tới lui thăm viếng, giấu đem cho một hai chút
thuốc, và nhờ mấy người bị cầm ngục một lượt đó giúp đỡ chút đỉnh mà thôi, nên
bịnh người một ngày một thêm, người bị cầm tù được chừng một tháng thì phải chết
trong ngục, rồi quan dạy đem xác người bỏ xó bụi ở phía ngoài đồn. Qua bữa sau,
bà vợ nghe tin ông Thiện đã chết trong tù, thì chạy mượn ít người bà con xóm diềng
đi giúp với mình lên đồn xin lãnh xác đem về chôn trong đất riêng, gần bên nhà
thầy Sáu ở bây giờ, đến nay mồ mả cũng còn tại đó.
Tòa thánh xét vụ ông
Antôn Thiện bị bắt bớ, đòn bọng, gông cùm, tấn khảo cho đến chết vì đạo Thánh
Chúa, thì Đức Giáo Tông Lêô XIII đã tặng phong người lên bực Đáng kính
(Vénérable) trong ngày 13 Février 1879.
Trong bổn tích “35 đấng
đáng kính trung thần Thiên Chúa” của cha Launay làm, thì không nói rõ hồi ông
Antôn Thiện chở đồ lễ đem đi gởi, có ai đi dưới ghe, hay là người đi một mình,
mà nghe trong thân tộc nói khi đó có bà vợ với người chị dâu, hai bà ẳm đứa con
nhỏ đi theo dưới ghe, nên hai chị em hiểu rõ công chuyện lúc đó mà thuật lại rằng:
Khi lính kêu ghe ghé, thì ghe ông Thiện đã chèo qua được hơn nửa sông cái, ước
như người chèo bươn cho tới mé bên kia sông đặng nhảy lên bờ là chạy trốn thì
được lắm, lính không thể theo kịp, song bỡi ý Chúa định làm sao không biết, nên
khiến cho người quay ghe trở lại mà phải bị bắt. Lại nói khi lính xét bắt được
đồ lễ giấu dưới ghe, thì nó lột khăn chế ông Thiện đang bịt trên đầu mà trói ké
người lại, và nói với nhau rằng: “Chắc thằng cha nầy là đạo trường, mà nó giả dạng
chèo ghe đi bán trầu cau đặng có trốn đây,”.
Ông Thiện nói: “Tôi không
phải là đạo trưởng,”
Lính đánh người và nói:
“Mầy đừng chối, mầy không phải là đạo trường, vậy chớ đồ mầy chở đây là của ai ?”
- Ông Thiện: “Đồ của đạo
trường.”
- Lính hỏi: “Đạo trường ở
đâu,”
- Ông Thiện: “Đi đâu
không biết,”
Lính đánh người mà hạch hỏi
không ra chuyện gì, song chúng nó quả quyết người là đạo trưởng, nên bắt người
bận đồ lễ; người không chịu thì nó lại đánh người thêm nữa, rồi lấy đồ lễ mang
đại vô cho người mà dẫn lên đồn nạp cho quan.
--------------------
IV.
- Tích ông biện Phượng và ông biện Du bị bắt
(Tích
nầy lấy theo bổn tích của ông Phủ Minh và ông Huyện Sáu đã làm trước)
--------------------
Ông biện Phượng (Vinhxentê)
và ông biện Du là hai anh em ruột, con ông Trịnh khánh Vân, nhà đạo dòng ở tại
Chợ Quán, thuở cựu trào cả hai anh em có ra giúp việc nhà nước annam, làm chức
biện trạm, nên trong buổi cấm kín thì hai người đã thừa dịp ấy mà cấp tờ phái
cho những ghe chở các cha ở sở nầy sang sở khác, cho khỏi bị mấy phần thủ ngăn
trở tra xét. Hai anh em làm việc trạm đặng ít năm, rồi sau xin thôi, về nhà lo
dạy học trò và làm thuốc; ông biện Phượng có làm biện họ cho tới khi bị nạn.
Nguyên tích nhà đất của
hai ông biện nầy ở giáp ranh của tên chức Giám, là người ngoại đạo, thì hai
đàng cũng đã ghe phen phàn nàn trách cứ nhau trong việc lấn ranh lấn đất, mới
sanh sự cừu thù nhau, mà thuở đời cựu trào thì người ngoại thường hay húng hiếp
con nhà có đạo, cho nên tên chức Giám thừa cơ trong quốc gia biến loạn mà xúi
hai đứa con trai, tên là danh Triều và danh Hiệu (Ông phủ Minh và ông huyện
Sáu, thì nói hai người con chức Giám tên Triều và tên Hiệu, còn những người cố
cựu trong họ thì nói rằng: Chức Giám có hai người con trai tên Triều và tên
Năng mà thôi. Song tưởng tên Hiệu cũng gọi là tên Năng, vì annam thường hay đặt
hai ba tên.) làm đơn lên tĩnh mà cáo với quan rằng: “Hai anh em ông biện Phượng
và biện Du, một người thì cỡi ngựa, một người đi bộ mà dẫn đường cho binh
Langsa lên lấy đồn Cây Mai,”. Bỡi đó cho nên quan tĩnh dạy bắt hai ông biện nầy
đóng gông cầm tù trên đồn mà tra hạch, khảo lược hình khổ ghe phen, và đòi làng
tổng hương chức đến mà cật vấn về vụ hai ông biện nầy bị cáo. Phải chi còn cha
Đoan thì người rõ biết chuyện tích về hai ông nầy lắm, vì khi Tòa thánh dạy tra
xét về các đấng tử đạo trong Nam Kỳ, thì cha Đoan có khai báo rõ ràng về vụ hai
ông nầy, nên đã lấy cốt một lượt với á thánh Gẫm. Bây giờ thì biên theo lời
trong thân tộc của hai ông nầy mà thôi. Khi quan tra hỏi chứng nhơn, thì mỗi
người trong hương thức làng tổng đều khai “không thấy hai ông biện ấy làm đều
như vậy, cho nên quan tra vấn không ra mối nào hết, thì quan lại trở qua bắt tội
về việc có đạo Datô và dạy phải khóa quá thập tự thì tha cho về, song hai anh
em không chịu xuất giáo, cho nên quan dạy đánh đòn văng da xé thịt và làm nhiều
cách độc ác dữ dằn lắm, lại bắt ông biện Phượng mang một cái gông thiết diệp to
lớn nặng nề quá sức, (Gông thiết diệp là gông to lớn mà có đóng kềm sắt lá nặng
nề lắm), nhưng vậy hai anh em cũng chẳng sờn lòng, cho nên sau hết quan phải
lên án trảm quyết mà gởi về kinh (Huế) cho vua xem xét, thì vua phê án rằng:
“Phàm như có đạo Datô mà không chịu xuất giáo, thi hành trảm quyết”. Khi quan tĩnh
được sớ ngoài kinh gởi vô, chưa kịp thi hành, kế binh tây kéo lên lấy đồn Chí
Hòa (kêu là đồn Tân Thứ), thì quan quân vỡ chạy và dẫn hai anh em ông biện Phượng
và mấy tội nhơn có đạo còn cầm trong đồn đem lên tại truông Ổ-gà (Hốc Môn) mà
chém, rồi dập bậy lối đó mà chạy.
Đến khi bà biện Phượng
nghe tin hai anh em ông biện đã bị xử rồi, thì bà nầy đến khóc lóc xin cha Đoan
lo phương thế, mà đem xác hai anh em về; vì nguyên tích là tại cha Doan có gởi
một con ngựa cho hai anh em ông biện Phượng nuôi, cho nên hai đứa con chức Giám
mới lấy cớ ấy mà cáo gian cho hai ông nầy phải bị xử trảm. Bỡi đó cho nên cha
Đoan phải giả dạng mà ăn mặc giống như một “ông quan cựu trào, và người phải
đích thân ra đi với một ít người bổn đạo, giả làm bộ hạ ông quan ấy, rồi dắc nhau
lên tại chỗ đã chém hai anh em ông biện Phượng mà tìm xác đem về chôn tại nền
nhà thờ cũ, là chỗ cất nhà thờ họ bây giờ, đến sau Đức cha dạy lấy cốt đem để tại
nhà trường Latinh cho tới bây giờ cũng còn đó.
Người làm bổn tích nầy là
hậu sanh, nên không rõ được nguyên gốc hồi ông biện Phượng và ông biện Du bị bắt
và bị xử đoán thế nào, song nhờ có con cháu hai ông ấy thuật lại mọi việc đầu
đuôi như vậy, thì mới hiểu mà doãn tích lại, mà từ đó tới nay chưa nghe tin Tòa
thánh xét về vụ hai ông biện nầy làm sao, nên việc ấy không nói chắc được thế
nào..
---------------------
V.
- Tích ông Mátthêu Gẫm tử đạo
--------------------
Tích nầy thì nhiều người
bổn đạo đã hiểu rõ, lại vì ông Lái Gẫm không phải là bổn đạo Chợ Quán, nên
không cần doãn tích lại cho đủ đầu đuôi gốc ngọn làm chi, song bỡi khi quan xử
ông Lái Gẫm rồi, đã táng xác người tại Chợ Quán, nên phải nhắc sơ lại nội khúc ấy
mà thôi.
Nguyên tích khi ông
Mátthêu Gẫm đã bị vua quan lên án trảm quyết người, thì đến ngày 11 tháng năm
tây năm 1847 quân lính dẫn người ra tại dãy bánh tráng mà xử, (Dãy bánh tráng ở
miệt Chợ Đũi, lối xóm các chú khách trồng cải bây giờ, phía gần đường đi lên
trường Đua). Lúc ấy cha Bề trên Thán đang ở tại Chợ Quán, đã trộm ẩn giữa thiên
hạ đô hội mà đi theo tới chỗ pháp trường, cho đặng ban phép giải tội lòng lành
cho ông Lái Gẫm, như lời ông nầy đã xin trước, và cha Bề trên Thán cũng đã hứa
chắc sự ấy với người nữa, nên đang lúc còn đi dọc đàng, thì ông Gẫm ngó quanh
quất kiếm cha Bề trên, và khi thấy người đi lộn xộn giữa thiên hạ thì ông Gẫm
cúi đầu ra dấu cám ơn người.
Khi đến chốn pháp trường,
ông Gẫm xin quan cho phép mình làm việc riêng một chút, đoạn người ngó cha Thán
rồi quì gối cúi đầu xuống đất mà đánh ngực ăn năn tội, thì cha Thán ban phép Giải
tội cho người trong lúc ấy.
Đoạn người ngồi lại cho
quân lính cưa cái gông người còn mang trong cổ, rồi người xin quan dạy lính đừng
có trói người vào trụ, để tự nhiên vậy mà chém, người và nói và quì xuống thẳng
gối, nhướng cổ lên cho tả đao chém, song tả đao không chịu, vì nói luật nước dạy
phải trói; cũng một khi ấy quan ra hiệu lệnh chém, mà tả đao chém hai phát trước
không đứt, qua phát thứ ba mới rơi đầu.
Khi xử xong rồi, thì hội
Tống chung Chợ Quán võng xác ông Matthêu Gẫm đem về, đoạn cha Thán biểu người
ta may đầu dính lại với xác mà liệm về hòm người đã mua sẵn, rồi đem táng tại đồng
Mật Cật (đồng tập trận). Đến khi yên giặc rồi, cha Đoan lo dời xác ông Gẫm về
chôn lại gần nền nhà thờ cũ, là chỗ cất nhà thờ họ Chợ Quán bây giờ. Đến sau Đức
cha dạy lấy hài cốt người đem về để tại nhà trường Latinh Saigon.
Tòa thánh xét vụ ông
Matthêu Gẫm tử đạo và đã tặng phong người lên hàng Có lộc ngày 27 Mai 1900, và
khi đó Đức cha mới cho phép phân phát hài cốt Á thánh Gẫm trong mấy nhà thờ lớn
cho bổn đạo tôn kính.
----------------------
VI.
- Tích cha Chữ bị bắt hụt
----------------------
Nghe nhiều người tuổi tác
cố cựu trong họ thuật chuyện sau nầy: Cách chừng đôi ba năm trước khi binh
Langsa vô lấy Saigon, lúc cha Chữ đang ẩn tại Chợ Quán, ở nhà ông trùm Xuân,
(năm 1857-1858), có một đêm kia trong nhà đã dọn sẵn đồ lễ đặng đến khuya cha
làm lễ, thình lình lối chín mười giờ tối, trong nhà nghe kêu cữa biểu mở cho
mau, lịnh ngoài thành dạy vô có việc. Ông trùm và bà trùm nghe nói sợ hết hồn,
vì hiểu là có kẻ mạch cho quan biết nhà mình chứa thầy cả, lại vì nhằm lúc có
cha Chữ đang ở trong nhà, khó bề tháo trúc. Bà trùm hết lòng kêu xin Đức Mẹ cứu
giúp trong cơn ngặt nghèo ấy, nhờ ơn trên soi trí mở lòng cho hai ông bà luận
được một kế hay, nên bà trùm hối cha Chữ thay áo mà mặt đồ cụt đặng giả là con
cái tôi tớ trong nhà, và biểu người ta đem giấu đồ lễ cho mau, rồi ông trùm biểu
người đi ra mở cữa ngỏ, thì ở ngoài dộng cữa thúc mở cho mau, làm cho ai nấy đều
sợ quính.
Khi mở cữa ngõ ra, thì có
ông Hạp Cang với đôi ba người vô. Ông trùm Xuân bước ra chào các ông, thì có chừng
hơn một chục lính kéo vô bao vây bốn phía nhà; ông trùm hỏi các ông đến có việc
chi ?
Ông Hạp Cang nói: “Người
ta cáo ông già có chứa đạo trưởng trong nhà, nên lịnh ngoài thành dạy vô xét bắt.”
Ông trùm nói: “Tôi có chứa
đạo trưởng nào bao giờ ở đâu.
Hạp Cang: Nếu không có
thì để cho người ta xét nhà.
Ông Trùm: Việc có hay là
không thì một ngày một rõ, các ông muốn xét nhà tôi thì thủng thẳng sẽ xét, song
bỡi tôi là con dân ở trong làng, dầu bị gì cũng xin các ông để cho tôi đi mời
quan thầy của tôi đến đây đã, rồi các ông sẽ xét.
Hạp Cang: Có muốn mời việc
làng thì đi đi cho mau.
Và ông Trùm kêu trong
nhà: “Thằng Tư, thằng Bảy, hai đứa bây bưng trầu rượu, đi mời chú xã lại cho
mau bây giờ, nói có việc cần, nghe không con!
Hồi ông Trùm đang nói
chuyện với ông Hạp Cang ở ngoài sân, thì trong nhà bà trùm nói cho cha Chữ với
bảy Long, (Bảy Long là con riêng bà Mô, là vợ sau của ông Trùm Xuân,) hiểu rõ
mưu kế hai ông bà đã luận với nhau cho đặng phi tang, cho nên khi cha Chữ với bảy
Long nghe ông trùm kêu”Thằng Tư, thằng Bảy”, thì hai người lên tiếng dạ,
rồi bảy Long cầm đèn ra đi trước, cha Chữ giả là con ông Trùm, bưng khay trầu
rượu đi theo sau, cả hai người mặc áo quần vắn. Chừng hai người ra khỏi nhà,
thì đi thẳng lại nhà Tư Trường, (Tư Trường là con ông Trùm Xuân, hồi đó ở chỗ
miếng đất trống phía trước nhà bà Tư Thủ ở bây giờ,) hối tư Trường lấy áo quần
cha chữ mặc hồi đó mà bận vô cho y một sắc, đặng thế lại cho cha Chữ đi trốn, rồi
tư Trường với bảy Long đi lại mời xã Dệt, (Xã Dệt là thôn trưởng đương niên,
khi đó ở chỗ đất tám Lễ, phía trên cầu sắt ở giữa đường đi xuống nhà đèn khí,
bây giờ bán lại cho ông Phủ Năm,) và nói tự sự trước sau như vậy, thì ông xã lo
sợ thất vía hồn kinh, vì nếu chẳng may mà người ta xét bắt được đạo trường ở
trong làng mình, thì phải bị tội vạ cả làng, không phải việc chơi, song khi xã
Dệt nghe nói cha Chữ đã thoát thân ra khỏi nhà và đi trốn rồi, thì mới tỉnh hồn
lại mà sắm sửa ra đi.
Trong lúc hai người đi mời
ông xã, thì ông Trùm nghĩ bây giờ cha Chữ đã thoát thân khỏi rồi, mà đồ lễ hãy
còn trong nhà; không thể đem giấu đi đâu mà phi tang cho được, cũng là một đều
rất khó, nên ông Trùm năn nỉ lo lót với Hạp Cang cho dễ tính việc.
Chừng hai người đi mời
ông xã trở về tới nhà, thì có một lão trong mấy người ở ngoài thành vô đó, có ý
hồ nghi, nên chỉ tư Trường mà nói: “Thằng đi hồi nãy coi bộ không phải thằng nầy
mà”.
Ông Trùm Xuân nói: “Tôi
có hai đứa con ở trong nhà, tôi sai đi hồi sớm đó, chớ có đứa nào khác ở đâu”.
Xã Dệt nghe vậy cũng ứng
lên quả quyết rằng: “Hai đứa đi mời tôi đó, thì trong làng tôi biết chắc chắn
là thằng tư Trường với thằng bảy Long là con ông già nầy, chứ không phải đứa
nào lạ”.
Ông Hạp Cang nghe vậy
cũng tính phui pha cho rồi, không cần tra hạch làm chi cho dông dài, nó lên tiếng
hỏi ông Trùm: “Vậy bây giờ có việc làng tới đó, ông già đà chịu cho người ta
xét nhà hay là chưa?
Ông Trùm: “Các ông muốn
xét thì xét.”
Chừng đội Thậm, là người
đi xét, vô nhà đi soát cùng hết mà không thấy người nào lạ mặt, song khi lục
trong giường thì thấy có đồ lễ giấu dưới chiếu, cho nên đội Thậm tri hô lên rằng:
“Xét không có người mà có đồ”, lại đòi bắt ông Trùm, thì ông Hạp Cang nói: “Đồ
của ông già mà bắt ổng làm chi, lại lịnh ngoài thành sai đi xét mà bắt người,
không ai biểu bắt đồ, như xét không có người thì thôi, để về tin lại đã, chừng
nào có biểu bắt đồ thì sẽ hay”.
Mấy ông ấy còn đang ca đó
một hồi, rồi dắc nhau ra về. Chừng mấy ổng đi khuất thì trong nhà lo dọn hết đồ
lễ, sách vở, ảnh tượng đem gởi cho mấy nhà ở gần, vì sợ tụi đó có trở lại chăng;
đến sáng ngày đem giấu tại nhà biện Thiết, ở xóm trên.
Qua bữa sau, ai nấy đều sợ
mấy ông ở ngoài thành trở vô nữa, song đặng bình yên luôn, không ai lai vãng gì
hết. Còn cha Chữ thì hồi đó trốn đi đâu mất không biết, cách lâu sau mới trở về
Chợ Quán một phen nữa.
-------------------
VII.
– Tích bà Hai Huệ bị đày.
-------------------
Bà Têrêsa Trịnh thị Huệ
là con đầu lòng ông Trịnh khánh Vân, nhà đạo dòng ở tại Chợ Quán, Bà nầy là chị
ruột ông biện Phượng và ông biện Du, thuở trên 30 tuổi làm bạn với ông thầy
Xuân là người đạo dòng, làm thầy thuốc, đã có một đời vợ trước, và có một người
con trai, tên Minh, cho đi học tại nhà trường Pinăng; các quan annam biết rõ đều
ấy, nên có ý muốn bắt ông thầy Xuân nhiều phen, song bỡi ông nầy làm thuốc có
danh, và thường khi có hốt thuốc cho các quan tại Gia Định, nên các quan tin cậy
lắm, để vậy mà nhờ người. Đến tháng hai tây năm 1859, khi nghe tin tàu chiến
Langsa vô tới Cần Giờ, thì các quan làm mưu sai người đi rước ông thầy Xuân vào
dinh mình, đặng coi mạch hốt thuốc cho quan Thượng, khi đó ở tại chỗ tòa bố Gia
Định (Bà Chiểu) bây giờ, sự thật thì quan Thượng chẳng có đau ốm gì, nên khi
ông thầy Xuân vào dinh rồi, các quan dạy bắt người mang gông và dẫn ra mà tấn
khảo, về vụ cho con đi tây, và ép người khóa quá bỏ đạo, song ông nầy vững lòng
chẳng chịu khóa quá, nên bị cầm ngục luôn tại đó. Cũng trong lúc ấy, quan dạy bắt
bà hai Huệ, là vợ ông thầy Xuân, mà cầm ngục, đến khi binh tây lên lấy Saigon,
thì các quan dạy điệu hai ông bà lên tĩnh Biên Hòa mà cầm tại đó. Cách ít lâu
sau, các quan dạy thích tự cho bà hai Huệ và đày bà nầy ra Ải Lao, ở miệt Lạng
Sơn Cao Bằng, Bà Huệ bị ở đó năm sáu năm, chừng yên giặc rồi mới đặng trở về
quê quán, và đến tuổi già đã qua đời tại Chợ Quán.
Còn ông thầy Xuân, thì
qua năm sau các quan lên án trảm quyết vì tội theo đạo Datô bất khẳng xuất
giáo, mà nhứt là vì tội cho con đi học bên nhà trường Pinăng, và đã xử người tại
Biên Hòa trong tháng chạp năm 1860.
Còn thầy Minh là con ông
thầy Xuân, đến sau trở về xứ được ít lâu, rủi mang bịnh điếc, phải về thế gian,
lo đôi bạn và ở tại Thủ Đức. Vợ người tên thị Sáu Đông, là con ông Lái Thu, ở tại
Chợ Quán.
----------------------
VIII.
- Tích bà bảy Hiệp thoát khỏi chết thiêu trong ngục.
----------------------
Bà Lucia Trịnh thị Hiệp,
là con ông Trịnh khánh Văn, và là em ruột bà hai Huệ, ông biện Phượng và ông biện
Du, cả thảy là người bổn đạo Chợ Quán. Thuở xuân thời bà nầy làm bạn với ông biện
Huỳnh và theo chồng về ở tại Bà Rịa.
Khi binh tây lại lấy
Saigon rồi được hơn một năm, đến tháng tám tây 1861, ở Bà Rịa quan quân tầm
soát bắt hết thảy bổn đạo, bất luận đờn ông đờn bà, mà thích tự và cầm trong ngục,
xung quanh ngục thì chất bổi lên sẵn, chờ khi binh tây tới thì đốt ngục thiêu sống
những kẻ bị cầm trong đó. Bà bảy Hiệp cũng đã bị thích tự hai bên bàn tang và bị
cầm ngục với hai ba đứa con nhỏ, cùng các người bổn đạo khác. Đến ngày mồng 7
tháng giêng tây năm 1862, khi tàu chiến Langsa vô tới lối Cỏ May, thì quan dạy
đốt ngục thiêu sống bổn đạo trong đó nhiều lắm. Bên ngục đờn bà, thì nhờ có đội
đề lao và lính canh ngục có nhơn, vì thấy nhiều người có con nhỏ tội nghiệp,
nên trộm lịnh mở cữa ngục cho nhiều người thoát ra khỏi được, song phần nhiều
cũng đã bị chết thiêu trong đó. Bà bảy Hiệp nhờ dịp ấy mà thoát ra khỏi được, song
cũng đã bị cháy một ít. Đến sau bà nầy trở về Chợ Quán, và nhờ ơn Chúa, đã sống
cho tới ngoài 90 tuổi, mới qua đời trong năm 1917.
--------------------
IX,
-Tích bà năm Đỏ được ra khỏi ngục hình
--------------------
Bà Huỳnh thị Đỏ, là con ông
Trùm Huy, ở tại Chợ Quán; bà nầy là chị vợ ông Antôn Hồ chí Thiện (Đấng Đáng
Kính), thuở xuân thời làm bạn với ông Nguyễn văn Thiện, là con ông Cả Toan, ở Đồng
Môn (Biên Hòa) và đã theo chồng về ở Đồng Môn. Đến năm 1860-1861 quan tĩnh Biên
Hòa dạy bắt hết thảy bổn đạo mà cầm ngục, bất luận đờn ông đờn bà, nên bà năm Đỏ
cũng đã bị bắt cầm trong khám đường với nhiều người đờn bà khác tại Biên Hòa.
Trong lúc mấy bà nầy bị cầm tại khám, thì có một đứa con nhỏ của quan tĩnh bị
phong độc nặng lắm, chạy thuốc hết sức mà nó không khá, nên quan ấy chẳng biết
liệu thế nào mà cứu con mình cho khỏi chết. Chừng hết phương thì quan ấy nhớ lại
những Datô mình đã bắt cầm trong khám đường, có khi nó có phép gì hay mà cứu
con mình được chăng, nên người đòi đội đề lao mà biểu hỏi coi trong những đờn
bà Datô đó, có ai biết phương nào mà cứu được con mình, thì sẽ tha cho hết thảy
được phản hồi quê quán.
Khi đội đề lao vô khám đường
hỏi như vậy, thì trong những đờn bà bị cầm tại đó không ai biết thuốc gì mà cứu
con quan tĩnh, song bà năm Đỏ biểu mấy bà kia cầu xin Đức Mẹ ban ơn riêng giúp
mình làm nên việc ấy, thì chị em mình sẽ được trở về quê quán. Nói đoạn bà nầy
phụng mạng ra đi và dặn mấy chị em ở trong khám đọc kinh cầu Đ C Bà, mà xin Đức
Mẹ cho mình làm đắc việc. Vốn bà nầy không biết thuốc men gì, song bỡi lòng tin
cậy Đức Mẹ sẽ giúp mình, nên phụng mạng ra đi với đội đề lao, và khi vừa ra khỏi
khám, gặp một bụi cỏ gì đó không biết, thì người nhổ bụi cỏ bỏ vào miệng mà
nhai và thầm khi kêu ơi trên. Khi đến nơi, bà nầy giổ nước cây cỏ đang nhai vào
miệng đứa nhỏ cho nó nuốt được một hai chút, còn bao nhiêu thì người lấy mà rơi
miệng nó. Cách qua một giây, con quan tĩnh khá lần, và nội ngày ấy nó mạnh lại
như thường, nên quan tĩnh giữ lời hứa mà tha cho hết thảy những đờn bà đang bị
cầm trong khám đường được trở về quê quán. Bỡi đó nên bà năm Đỏ và mấy chị em hết
lòng cám ơn Đức Mẹ đã làm phép lạ mà cứu mình ra khỏi ngục hình.
Chung
về Họ Chợ Quán.
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1919
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét