Monographie de Tân Qui – Tân Đông
(P.
Tự)
I. Origine de la
Chréstienté de Tân Qui
Thuở xưa họ Tân Qui là một
phần đất hoang không ai ở thuộc về làng Bình Nhan Thượng, tỉnh Gia Định. Năm
1783, thời Đức cha Vêrô (Bá Đa Lộc) có một ít nhà đạo dòng ở Búng và Lái Thiêu
tới khẩn đất và ở luôn đó, lần lần người có đạo các xứ tới thêm, nhứt là người ở
Tân Qui, Rạch Bàng (thuộc về sở Xóm Chiếu bây giờ), gốc là người đạo dòng ở Huế
vô ở đó. Mấy người nầy lên xuống buôn bán, thấy đất tốt, nên xin khẩn ở một xóm
với nhau theo mé sông cái, thiên hạ kêu là xóm Tân Qui, thành tên Họ bây giờ.
Số bổn đạo thêm càng ngày
càng nhiều, không có kẻ ngoại trở lại bao nhiêu, những người đạo dòng tới ở
đông thành họ.
Từ ban sơ cho tới năm
1882, họ Tân Qui thuộc về sở Lái Thiêu, không có cha sở ở họ.
Năm 1880, Cha Lực (P. Azemar) làm cha sở Lái Thiêu, có cất một cái nhà thờ ngói, gần lộ Tân Qui (Gia Định) đôi khi người qua làm phước làm lễ. Chúa nhựt lễ cả, bổn đạo qua Lái Thiêu xem lễ. Đồng nhi nam nữ đi học tại Lái Thiêu.
Cha Henri Azémar (Lực)
Năm 1882, đời Đức cha Mỉ
(Mgr. Colombert), cha Sanh (P. Colson) làm cha sở thứ nhứt họ Tân Qui, lúc ấy bổn
đạo chừng hơn bốn trăm, cha Sanh dời nhà thờ ra mé sông cái, là nhà thờ còn bây
giờ.
Từ đó cha Sanh mới lập
trường học, ban đầu thì người dùng bổn đạo trong họ dạy, sau thì rước Nhà phước
Thủ Thiêm dạy cho tới bây giờ.
II. Historique
Từ năm 1783, những người
có đạo tới ở tại làng Bình Nhan Thượng (Tân Qui bây giờ), không có nhà thờ, thường
qua Lái Thiêu mà xem lễ, xưng tội chịu lễ.
Đời vua Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức bắt đạo, thì bổn đạo Tân Qui ở yên, vì xa quan lại cũng bởi bổn đạo
mỗi năm góp tiền chịu cho làng sở tại nên làng không cáo báo với quan.
Trong lúc bắt đạo các cha
cũng hay tới làm phước làm lễ. Mỗi lần đến thì ở nhà bổn đạo, khi thì nhà nầy,
khi thì nhà kia. Bổn đạo chí tình nuôi dưỡng giúp đỡ, lại có lòng sốt sắng mà
lo việc bổn phận mình.
Bổn đạo ở yên cho tới năm
1859. Lúc ấy nhà nước Langsa chiếm cứ Nam Kỳ, nên kẻ ngoại tùng dịp ấy mà bắt bớ
phá phách bổn đạo theo lịnh quan. Vậy bổn đạo phải bỏ xứ mà đi xuống ở Sài Gòn
tị nạn hết ba năm. Kẻ ngoại ở lại phá vườn tược lấy của cải bổn đạo hết.
Năm 1862 yên giặc rồi thì
bổn đạo trở về lần lần, làng trả đất lại cho mỗi chủ.
Bổn đạo thuở ấy nghèo nàn
thiếu thốn mọi bề. Lúc ấy có ông Biện Đức (sau làm trùm họ Tân Qui) và ông Đẹp
chung tiền mua một cái nhà tranh nhỏ để cho bổn đạo tựu đọc kinh, đó là nhà thờ
thứ nhứt họ Tân Qui.
Năm 1866 cha Lực (P.
Azemar), làm cha sở Lái Thiêu, cũng coi luôn họ Tân Qui.
Vào năm 1880, cha Lực bỏ
cái nhà thờ nhỏ bổn đạo mua mà cất một cái nhà thờ ngói lớn gần lộ. Bổn đạo ai
nấy đều đồng tâm hiệp lực với cha, kẻ của
người công, nên mau rồi.
Năm 1882, cha Sanh (P.
Colson) làm cha sở thứ nhứt ở tại họ Tân Qui, người coi sóc họ chừng 18 năm
(1882 – 1900). Trong mấy năm ấy thì người đã làm nhiều việc: trước hết người dời
nhà thờ ra mé sông, nhà thờ còn bây giờ, người lập trường học, lập nhà mồ côi
nuôi con nít kẻ ngoại.
Năm 1900, cha Sanh đổi đi họ khác, cha Tađêô Bùi Tri Phan thế 08 tháng (1900), cha Phaolô Nguyễn VănThạnh ở gần hai năm, cha Sanh trở lại chừng năm tháng (1902), cha Tôma Phạm Văn Nhựt gần chín tháng (1902 – 1903), cha Y ( P. Bozec) ở gần bảy năm (1903 – 1910). Trong mấy năm cha Y coi sóc họ thì người sửa nhà thờ và cất một cái nhà ở sạch sẽ cao ráo, nhà ấy còn bây giờ.
Khi cha Bozec đổi đi nơi
khác, thì cha Tự thế (1910).
Bổn đạo Tân Qui phần đông
hơn thì nghèo, song có lòng rộng rãi mà giúp việc đạo tùy sức, khi phải sửa nhà
thờ, làm nhà cha sở, hay là có lễ gì thì đồng tâm hiệp lực kẻ của người công mà
phù trợ dọn dẹp thành việc.
Trong đời mấy cha coi sóc
họ nầy cũng có gởi nhiều trẻ đi trường Latinh, song chưa có ai làm thầy cả, còn
lại nhà trường bây giờ, một thầy tư và một thầy sáu, và sáu học trò.
Các nhà viện tu cũng có bổn
đạo Tân Qui: Nhà dòng Cái Nhum có hai, Nhà phước mồ côi có tám, Nhà phước Chợ
Quán có bốn, và Nhà phước Thủ Thiêm có bốn.
III. Etat Present
Bây giờ số bổn đạo Tân
Qui lớn nhỏ là 918 người. Phần nhiều là những người sốt sắng, tử tế, cần chuyên
giữ ngày Chúa nhựt, nghe giảng nghe dạy, năng xưng tội chịu lễ.
Bổn đạo có lòng tôn kính
cách riêng Rất Thánh Trái Tim Đ C G, Đức Chúa Bà và ông Thánh Giude, nhiều người
đua nhau tới nhà thờ mỗi ngày mà làm việc tôn kính chung cùng nhau.
Gần hết mỗi nhà đều lần hột
chuỗi 50 hằng ngày. Có hơn 250 người vào hội Môi khôi.
Việc giúp các đẳng, bổn đạo
cũng hay xin lễ Misa, mà nhứt là có hội các đẳng, là nhiều người chung tiền
cùng nhau mà xin lễ Misa mỗi tháng một lễ.
Có hai trường học nam và
nữ. Học trò hết thảy chừng 130. Trong trường dạy chữ quấc ngữ, kinh phần, sấm
truyền cũ, mới và phép toán. Bổn đạo chịu tiền trả cho thầy dạy.
Mỗi ngày Chúa nhựt trước
khi làm phép lành thì đồng nhi nam nữ đã xưng tội rước lễ rồi, đều tựu tới nhà
thờ mà nghe dạy sách phần, nhiều người lớn tuổi cũng hiệp cùng đồng nhi mà
nghe.
Rửa tội cho con nít trẻ
ngoại không đặng bao nhiêu, vì hễ khi kẻ ngoại cho, thì đem qua nhà mồ côi Lái
Thiêu hết.
Có đôi ba người làm thuốc
hay đi chỗ nọ chỗ kia cũng rửa tội đặng một ít mỗi năm.
Đôi khi cũng có kẻ ngoại
đem con mình mà cho người có đạo, thì bổn đạo vui lòng nuôi dưỡng dạy dỗ như
con mình.
Mỗi năm cũng có một ít
người ngoại xin giữ đạo, thường là kẻ quen biết người có đạo hay là kẻ giúp việc
người có đạo. Cha coi sóc họ dạy chầu nhưng ấy.
Nhà thờ và trường học cha
Sanh lập bây giờ cũng còn, song cũng hư ít nhiều, mỗi năm cũng phải tu bổ lại.
Nhà ở cha Y mới cất còn chắc tốt.
Điền thổ của họ không bao
nhiêu, đất cất nhà thờ là đất bổn đạo dưng, một phần đất khác cũng của một người
bổn đạo dưng, mà xin làm một lễ mỗi năm, đất nầy cho bổn đạo mướn.
Huê lợi mỗi năm không đủ
mà xuất dụng trong họ, song nhờ lòng rộng rãi bổn đạo phụ giúp thì không thiếu
bao nhiêu.
Có một sở đất khác thuộc
về Mission, nguyên là đất vua Gia Long dâng cho Đức cha Vêrô khi người ở Lái
Thiêu. Huê lợi về Mission (Hội Thừa sai Paris).
--------------------
Origine
de la Chréstienté de Tân Đông
Họ Tân Đông là kẻ ngoại
trở lại mà thành họ.
Số là năm 1864, có ông Phủ
Ca là người đạo mới ở Hóc Môn, đến tại làng Tân Đông khuyên bảo làng trở lại,
thì phần nhiều trong hương chức ưng chịu, nên đã dưng đình, miếu để làm nhà thờ.
Quan Phủ nầy tính việc lập họ mớivới cha Lý (P. Galy) ở An Nhơn khi ấy.
Cha Lý xin thầy Dư (cha
Dư bây giờ) đến dạy chầu nhưng đó trước hết, sau có thầy Bình (cha Bình bây giờ).
Những người chầu nhưng
trước hết đã chịu phép rửa tội tại An Nhơn. Qua năm 1866, thầy Bình đã lấy những
đình, miễu làng dưng mà cất nhà thờ thứ nhứt tại Tân Đông.
Số kẻ trở lại đạo khi ấy
chừng 150. Họ nầy không có cha sở ở, thường khi thì thuộc về sở Hóc Môn, An
Nhơn, khi thì thuộc về Bà Điểm, Tân Qui.
Năm 1880, khi cha Điều
làm cha sở Hóc Môn thì nhà thờ cũ Tân Đông đó hư, nên người cất một cái nhà thờ
khác, khi ấy Phủ Ca gồm chịu mọi đều tổn phí mà lập nhà thờ, bây giờ cũng còn
nhà thờ nầy, song đã hư nhiều.
Khi Phủ Ca bị quân loạn
giết năm 1885 thì nhiều người bỏ đạo lần lần, tưởng là phô kẻ ấy chẳng có ý
ngay lành mà giữ đạo, song về cậy thế thần mà thôi.
Bây giờ số bổn đạo còn
hơn 90, thuộc về sở Tân Qui. Bổn đạo nghèo vì không có bề làm ăn.
Về sự giữ đạo thì cũng thậm
thường, phần nhiều người lớn không có đức tin bao nhiêu.
Đất cất nhà thờ, là đất
Phủ Ca mua dưng, không có huê lợi.
Không có trường học, đồng
nhi đi học và nghe dạy tại Tân Qui.
Nguồn:
“Sưu tập các Họ đạo cổ xưa Sài Gòn”, của Lêô Nguyễn Văn Quí.
CÁC
LINH MỤC PHỤC VỤ HỌ TÂN QUI
Từ
năm 1882 cho đến năm 1945
Stt |
Họ
và tên |
Năm
sinh |
Năm
Lm |
Qua
đời |
Thời
gian phục vụ |
1 |
18.11.1846 |
25.05.1872 |
19.07.1913 |
1882 – tháng 02. 1900 |
|
2 |
Tađêô Bùi Tri Phan |
1863 |
10.03.1894 |
04.12.1932 |
03.03.1900 – 10.12.1900 |
3 |
Phaolô Nguyễn Văn Thạnh |
1859 |
1887 |
01.01.1925 |
Tháng 12. 1900 – 1902 |
4 |
Colson, Nicolas-Émile (Sanh) |
18.11.1846 |
25.05.1872 |
19.07.1913 |
1902 (05 tháng) |
5 |
Tôma Phạm Văn Nhựt |
1871 |
1901 |
|
1902 – 1903 (09 tháng) |
6 |
13.04.1875 |
24.06.1900 |
27.02.1916 |
1903 - 1910 |
|
7 |
1865 |
1895 |
29.09.1949 |
Năm 1910 – tháng 03.1930 |
|
8 |
1881 |
08.03.1913 |
14.10.1953 |
Tháng 03. 1930 – tháng 02. 1938 |
|
9 |
11.10.1902 |
25.05.1929 |
21.05.1940 |
Tháng 06.1938 – tháng 05. 1940 |
|
10 |
Phaolô Lê Quang Mười |
1897 |
03.04.1926 |
29.01.1980 |
Tháng 07. 1940 - |
Các Linh mục và Tu sĩ gốc họ Tân Qui
Stt |
Họ và tên |
Năm sinh |
Năm Lm |
Qua đời |
Ghi chú |
1 |
Phaolô Nguyễn Chánh Tâm (Muôn) |
1883 |
20.09.1913 |
02.02.1925 |
Theo báo Nam Kỳ Địa Phận |
2 |
Luca Nguyễn Văn sách |
1881 |
05.03.1916 |
12.05.1963 |
Theo báo Nam Kỳ Địa Phận |
3 |
Giuse Lương Qui Thiên |
1891 |
16.09.1921 |
|
Theo báo Nam Kỳ Địa Phận |
4 |
P.x Trần Công Mưu |
1894 |
22.12.1923 |
29.01.1945 |
Theo báo Nam Kỳ Địa Phận |
5 |
Tôma Lương Minh Ký |
1898 |
18.09.1926 |
|
Theo báo Nam Kỳ Địa Phận |
6 |
Tôma Nguyễn Văn Thạnh |
1907 |
17.03.1934 |
|
Theo báo Nam Kỳ Địa Phận |
7 |
Phaolô Nguyễn Minh Chiếu |
1909 |
1937 |
1990 |
Theo báo Nam Kỳ Địa Phận |
Tu sĩ gốc Tân
Qui |
|||||
1 |
Anna Phước - Sophie |
1894 |
|
23.02.1930 |
Nhà Trắng Sài Gòn |
2 |
Anê Hàng - Eulelia |
1889 |
|
30.01.1932 |
Nhà Trắng Sài Gòn |
3 |
Maria Đặng Thị Hiếu |
20.07.1899 |
|
08.12.1933 |
Nhà Trắng Sài Gòn |
4 |
Lucia Lương Thị Dinh |
1856 |
|
10.09.1934 |
MTG Thủ Thiêm |
5 |
Inê Ràng |
1913 |
Khấn 1934 |
08.11.1940 |
MTG Thủ Thiêm |
Lưu ý: Danh sách Linh mục và Tu sĩ sưu tập trên báo Nam Kỳ Địa Phận.
. Một người cháu của cha Tôma Lê Văn Hiếu sưu tập và gởi đăng.
Xin bổ sung thêm các linh mục gốc Tân Qui có trong link này: https://www.gxtanquy.com/gioi-thieu/linh-muc-tu-si-goc-tan-quy.html
Trả lờiXóa