ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2021

Vai trò của Giám mục Bá Đa Lộc trong cuộc nội chiến tại Đại Việt cuối thê kỷ XVIII

 VAI TRÒ CỦA GIÁM MỤC BÁ ĐA LỘC

TRONG CUỘC NỘI CHIẾN TẠI ĐẠI VIỆT CUỐI THẾ KỶ XVIII

Trong cuộc nội chiến kéo dài hơn 30 năm giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn (1771-1802), Giám mục Bá Đa Lộc là người phương Tây có mặt lâu nhất, từ năm 1776 đến ngày ông qua đời (1799). Ông sát cánhvới chúa Nguyễn Ánh từ thập niên 1780 cho đến những ngày cuộc nội chiến đã nghiêng phần thắng lợi về phía nhà Nguyễn. Song vị trí của Bá Đa Lộc trong cuộc chiến giằng co đó như thế nào, nhất là mối quan hệ giữa ông ta với Nguyễn Ánh ra sao, có nhiều sự miêu tả, nhận định khác nhau, trong đó phần lớn sách báo thường phóng đại vai trò của vị giám mục này.

Tháng 7.1774, Giám mục Bá Đa Lộc rời Pondichéry, thuộc địa Pháp tại Ấn Độ, cùng 4 giáo sĩ châu Âu và 9 chủng sinh đi Macao, tại đây, ông ta cho in một sách về giáo lý Cơ Đốc giáo bằng chữ quốc ngữ. Những năm 1775-1776, ông ta đến sinh sống khi thì ở Hà Tiên, khi thì ở Phnom Penh (Chân Lạp) và gặp gỡ chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần lần đầu rồi sát cánh cùng người còn sót lại của dòng chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh.

Sau thất bại trong sứ mạng do Nguyễn Ánh giao phó tại Pháp vào những năm 1785-1787, Giám mục Bá Đa Lộc trở lại Đại Việt vào tháng 7.1789 và tham gia vào cuộc nội chiến ác liệt giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn. Trong thời gian đầu ngay sau khi ông ta về tới Gia Định, sự bất đồng giữa ông ta và chúa Nguyễn Ánh bộc lộ rất rõ, ít nhất trên hai khía cạnh:

- Về đời sống tâm linh của người Việt, cụ thể là vấn đề quỳ lạy và thờ cúng ông bà, tổ tiên.

- Cách điều hành cuộc chiến chống lại nhà Tây Sơn.

Về vấn đề thứ nhất, trong một bài viết dài 82 trang nhan đề “Documents relatifs à l’époque de Gia Long” (Tư liệu liên quan đến thời kỳ Gia Long) in trong Tập san trường Viễn Đông Bác Cổ năm 1912 (1), cây bút Léopold Cadière, chủ biên tờ Tập san Đô thành Hiếu cổ (2), đã xác định có chuyện hoàng tử Cảnh khước từ việc quỳ lạy trước bàn thờ tổ tiên, không chịu đi chùa và bài trừ việc cúng phẩm vật cho ông bà (3). L. Cadière cũng cho in lại bức thư đề ngày 11.8.1789 của giáo sĩ Boisserand kể lại cuộc thảo luận giữa chúa Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc về vấn đề thờ cúng ông bà.

Qua bài tường thuật này, người ta biết rằng Bá Đa Lộc lên tiếng chỉ trích tục thờ cúng ông bà và Nguyễn Ánh đã trả lời ông ta như sau: ” Ta nhất thiết phải thờ cúng cha mẹ, và cái cách ta trình bày với thượng sư về điều này, theo ta không có gì lố bịch cả. Đó là căn bản nền giáo dục của chúng ta; nó gợi cho những đứa trẻ ở tuổi đời non nớt lòng hiếu thảo, và nó mang lại cho các bậc cha mẹ thứ quyền hành mà nếu không có thì họ sẽ không ngăn chặn được tình trạng rối loạn trong gia đình…” (Cadière - tlđd, trang 20-21).

Trong bài viết của mình, linh mục L. Cadière cũng nêu rõ mưu đồ của Bá Đa Lộc khi bàn về đời sống tâm linh với chúa Nguyễn: “Đây là lý do lớn nhất đã dẫn dắt giám mục Adran (4). Mục tiêu của tất cả những cuộc vận động của ông, đích nhắm duy nhất của cả đời ông, là sự cải đạo (sang Cơ Đốc giáo) của người dân Đại Việt thông qua sự cải đạo của vị chúa mà ông đang gắn bó. Ông muốn loại bỏ những trở lực đã ngăn cản ông thực hiện mong muốn này …” (5). Dù đã thành công phần nào với hoàng tử Cảnh, song với một Nguyễn Ánh đã trưởng thành, dày dạn kinh nghiệm, mọi mưu toan của Bá Đa Lộc đã vấp phải một bức tường thành kiên cố.

Mối bất đồng thứ hai cũng khá gay gắt. Giữa năm 1790, quân Nguyễn Ánh đã chiếm được Bình Thuận, Bá Đa Lộc muốn ông nhân dịp này đánh thốc ra dinh lũy của nhà Tây Sơn ở Qui Nhơn song Nguyễn Ánh còn chần chừ. Sự bất đồng lên đến đỉnh điểm khiến cho vị giáo sĩ này bộc lộ hết với giáo sĩ Letondal trong một bức thư đề ngày 14.9.1791: “ …Nhà vua đã không lợi dụng những phương tiện có được để chiến đấu chống kẻ thù, ông đã để cho họ có thì giờ giải tỏa nỗi sợ hãi và tin chắc rằng tất cả những gì mà người ta nói về sự giúp đỡ của người châu Âu chỉ là ảo tưởng”(6) .

Một số cây bút giải thích sự bức xúc của vị giám mục xuất phát từ nỗi lo sợ quân Tây Sơn sẽ phản công về phía Nam, số phận của ông ta và giáo dân Cơ Đốc giáo sẽ gặp nguy hiểm. Điều lo ngại này không phải là không có lý, vì theo một số nhà nghiên cứu, trong đó có giáo sư người Mỹ George Dutton (7), chính sách khắc nghiệt của nhà Tây Sơn đối với Cơ Đốc giáo không có tính thuần túy tôn giáo mà chủ yếu vì các giáo sĩ đang ủng hộ mạnh mẽ lực lượng đối kháng với họ là quân đội của chúa Nguyễn.

Tháng ba AL năm 1793, chúa Nguyễn lập hoàng tử Cảnh làm Đông cung Thái tử, “dựng nhà Thái học, đặt một Đông cung phụ đạo, 2 thị giảng, 8 hàn lâm thị học, 6 Quốc tử giám thị học, mỗi ngày hai buổi họp các quan đốc học ở nhà thái học để giảng bàn kinh sử” (8). Ngô Tùng Châu được cử làm Đông cung phụ đạo, Đông cung thị giảng là hai trong ba “Gia Định tam gia”: Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định. Không thấy chính sử nói gì đến vai trò của Bá Đa Lộc vào lúc này.

Những năm 1793-1794, vị giám mục cũng không tham gia các cuộc hành quân, ông dịch cho chúa Nguyễn một số tác phẩm cổ điển phương Tây về kỹ thuật quân sự, cách xây dựng công sự. Tuy nhiên đến năm 1795 thì mọi việc thay đổi theo một chiều hướng khác, Bá Đa Lộc tiếp tục đề cập đến chuyện ra đi, lần này nguyên nhân là sự chống đối công khai hay ngấm ngầm của phần lớn quan lại dưới trướng Nguyễn Ánh đối với ông ta.

Trong bức thư đề ngày 30.5.1795 gửi cho giáo sĩ Boiret, ông ta kể rằng có đến 19 cận thần của chúa Nguyễn, trong đó có một vị hoàng thân, đã dâng biểu thỉnh cầu chúa cắt đứt mọi quan hệ giữa ông ta và Hoàng thái tử Cảnh và giao hoàn toàn việc dạy dổ Thái tử cho các quan lại Việt (9). Chi tiết này phù hợp với một đoạn trong sách Hoàng Việt Long Hưng Chí của Ngô Giáp Đậu, thuộc dòng Ngô gia văn phái:” Bá Đa Lộc từng bảo hộ Đông cung Cảnh sang Tây, lại được dự bàn việc binh nhung nơi màn trướng, cậy mình có nhiều công lao nên có ý phóng túng kiêu ngạo, từng bị Trần Đại Luật dâng sớ hạch tội, xin vương thượng mượn kiếm trời chém đầu đi. Nhưng Thế tổ dụ rằng: Bá Đa Lộc đánh đông dẹp bắc, là người ngu xuẩn trí trá, nhưng có thể sai khiến được, hãy tạm để đó đã”(10)

Có thể cũng do mối tị hiềm giữa Bá Đa Lộc và các đại thần của chúa Nguyễn mà chúa không để ông ta ở lại phủ để bàn việc triều chính, cử ông ta đi theo hoàng thái tử Cảnh trong gần suốt thời gian những năm 1793 -1799.

***

Với những dữ kiện trên, có thể tóm lại mấy ý chính về vai trò của Giám mục Bá Đa Lộc vào những năm nội chiến 1789-1799 (theo nhận định chủ quan của người viết):

* Bá Đa Lộc có công giúp chúa Nguyễn trong những ngày đầu gian khổ, khi phải trốn lánh cuộc truy sát của quân Tây Sơn. Tuy nhiên, nhiều cây bút Pháp, trong đó có Charles B. Maybon, tác giả quyển “Histoire moderne du pays d’Annam 1592-1920 – Paris 1920” và linh mục Léopold Cadière, chủ bút Tập san Đô thành Hiếu cổ (BAVH), đã đề cao một cách quá đáng vai trò của Giám mục Bá Đa Lộc trong thời kỳ này nhằm gián tiếp nói rằng nếu không có ông, cơ nghiệp của nhà Nguyễn sẽ không thể tồn tại như chúng ta đã thấy.

Những người Pháp trên quên rằng vào thời khoảng những năm 1777-1782, lực lượng nhà Nguyễn vẫn còn trong tình trạng thường xuyên được tăng cường, bổ sung và đã nhiều lần lấy lại đất Gia Định từ trong tay nhà Tây Sơn. Vào nửa sau năm 1788, khi Bá Đa Lộc và những người Pháp từ Pondichéry chưa sang Đại Việt thì quân đội của chúa Nguyễn Ánh đã đánh bật lực lượng nhà Tây Sơn ra khỏi đất Gia Định và làm chủ vùng đất này cho đến khi cuộc nội chiến kết thúc.

Công đáng kể nhất của Bá Đa Lộc là vận động tài chánh tại Pondichéry vào những năm 1788-1789 và chiêu mộ một số người Pháp có chuyên môn về giúp chúa Nguyễn Ánh, tăng cường năng lực chiến đấu của đạo quân nhà Nguyễn vốn đã tạo được ưu thế trong cuộc chiến

* Trong thời gian 10 năm, từ 1789 đến 1799, ngoài mấy năm đầu có sự bất đồng giữa chúa Nguyễn và Bá Đa Lộc, từ năm 1793 trở đi, với phần lớn thời gian sống cạnh Hoàng Thái tử Cảnh trong cương vị trấn thủ thành Sài Gòn và thành Diên Khánh, Bá Đa Lộc cũng không chứng tỏ được gì khi sát cạnh vị Đông cung Thái tử đã có những đại thần bậc nhất của chúa như Đông cung Phụ đạo Ngô Tùng Châu, Đông cung Thị giảng Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định.

Sự kình chống khá công khai và gay gắt của đa số cận thần của chúa Nguyễn đối với Bá Đa Lộc từ năm 1795 trở đi đã gần như vô hiệu hóa mọi toan tính và những việc cần làm của vị giám mục này.

* Trong mối quan hệ với Giám mục Bá Đa Lộc và các sĩ quan, chuyên viên Pháp theo giúp mình, chúa Nguyễn Ánh luôn cư xử có tình với họ, song ông luôn biết chứng tỏ là một người suy nghĩ, hành động độc lập và cương quyết, không ai dễ dàng khuất phục ý chí của ông. Ông biết tận dụng năng lực của họ, song ông không hề giao cho họ một vai trò quyết định nào.

Một vài cây bút Pháp cũng tỏ ra quá đáng khi cho sự hiện diện của một nhúm sĩ quan và chuyên viên Pháp trên là có tính quyết định cho cuộc chiến. Trên thực tế, nhân tố chính của cuộc chiến vẫn là những danh tướng người Việt như Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Huỳnh Đức…, những người đã lập nên nhiều chiến công có tính quyết định, nhất là trận Thị Nại năm 1801.

* Ngoài ra, cung cách giáo dục con của chúa Nguyễn Ánh cũng đáng được nhắc nhở. Phong làm Đông cung Thái tử không phải để sống trên nhung lụa chờ ngày kế vị, mà phải cầm quân xông pha trận mạc. Kinh nghiệm những tháng năm lăn lộn trên ranh giới giữa cái sống và cái chết từ khi còn là một cậu thiếu niên 15 tuổi đã tập cho ông một thói quen luôn phấn đấu vượt qua nghịch cảnh và ông đã buộc người sắp kế vị ông cũng phải như thế.

(Phần tiếp theo của bài này là “Lễ tang Giám mục Bá Đa Lộc tại Sài Gòn năm 1799”, có in trọn bài trong sách “Xã hội Việt Nam thời Lê-Nguyễn”, sẽ phát hành vào những ngày đầu năm mới 2021)

Lê Nguyễn

26.12.2020

CƯỚC CHÚ:

1) Bulletin de l’École Française d’Extrême-Orient (BEFEO)

2) Bulletin des Amis du Vieux Hue (BAVH)

3) Tài liệu đã dẫn, trang 22

4) Tức Bá Đa Lộc

5) Léopold Cadière – tlđd – tr. 23

6) Georges Taboulet – La Geste Française en Indochine – Paris 1955, tr. 216

7) Giáo sư Đại học Mỹ, tác giả tập sách The Tây Sơn Uprising (Cuộc nổi dậy

của nhà Tây Sơn)-

8) Đại Nam Thực Lục – Tập Một – NXB Giáo Dục – tr. 291

9) G. Taboulet – sđd – tr. 222

10) Ngô Giáp Đậu - sđd – NXB Văn Học – Hà Nội 1993 – tr. 235-236

 Vua Gia Long (1762 – 1820)


 Chân dung Hoàng tử Cảnh qua nét vẽ của Maupérin, họa sĩ cung đình Pháp, năm 1787

Chân dung Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine, Evêque d'Adran) (1741-1799) qua nét vẽ của Maupérin (1787)

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét