Đâu là GIÁ TRỊ của CHỮ NÔM? CHỮ NÔM CẤU TẠO ra sao?
* CHỮ QUỐC NGỮ tiếp nối giá trị của CHỮ NÔM, không tiếp
nối chữ Hán làm chi cho má nó khi (khinh)! Nghĩa là sao?
Đa phần trong chúng ta không phải là nhà ngôn ngữ,
nhưng bởi vì hết thảy chúng ta đều đang nói TIẾNG VIỆT, thành thử cũng nên biết
"chữ Nôm" là gì. Đây, xin diễn giải một cách dễ nhớ (không dùng những
"thuật ngữ" chuyên ngành gì ráo).
1/ Vào cái thuở người Việt còn xài Hán tự (漢 字)
thì những chữ như "mẹ con", "trời xanh", "mây trắng",
"ăn cơm", "sông núi"..., không có cái chữ Hán nào phát âm
như rứa ráo trọi. Chỉ có những chữ Hán đồng nghĩa nhưng đọc âm Việt-Hán, là
"mẫu tử", "thanh thiên', "bạch vân", "thực phạn",
"giang sơn".
"Mẹ con", "sông núi", "trời
xanh", "ăn cơm"... tạo thành vốn liếng âm thuần Việt, kêu bằng
là phải chịu cảnh lang thang bên ngoài văn tự chính thống hồi nẳm (Hán tự). Đâu
thể như vậy chớ! Thành thử giới sĩ phu người Việt mới nghĩ ra CHỮ NÔM, tức là một
hệ thống văn tự ghi lại hết thảy các âm thuần Việt, chấm dứt tình cảnh lang
thang của quốc âm thuần Việt đó đa!
Chữ Nôm, nói nào ngay, coi rắc rối lắm - nhưng có giá
trị đáng ghi nhận. GIÁ TRỊ ở chỗ: Văn tự của một đất nước thì phải ghi cho bằng
được tiếng nói của dân tộc!
Chớ ai đời Hán tự, mang danh là văn tự sử dụng chính
thống ở nước Việt hồi nẳm nhưng lại không ghi được tiếng nói thuần Việt (chỉ
lưu giữ âm Việt-Hán mà thôi)!
2/ MẤY CÁCH CẤU TẠO CHỮ NÔM ( 𡦂 喃
):
(2a) Người Tàu nhìn vô hai chữ trên, bù trất, rõ rành
là dùng ký tự Hán mà sao ... viết lọa rứa?
Là vầy: 字 trong Hán tự đứng mình
ên, nhưng ở đây ghép hai chữ này thành một chữ dính chùm "𡦂",
nghĩa là gì? 字
đọc là "tự" (âm Việt-Hán); còn "𡦂",
đọc là "CHỮ" (âm thuần Việt)!
Chưa hết, còn 口 ("khẩu"), 南
("nam") vốn là hai ký tự tách biệt trong Hán tự, nhưng ở đây sao lại
viết dính sát nhau "喃"? Cái chữ dính 喃,
đọc là: "NÔM" (âm thuần Việt)!
Cả hai ký tự "𡦂",
"喃"
được người Việt chế ra mà trong Hán tự thì không viết như rứa, thành thử người
Tàu khỏi hiểu luôn.
Thêm ví dụ đọc chơi. Người Tàu nhìn vô mặt chữ 媄 đành
bóp trán, quái, sao ghép chữ 女 ("nữ") với chữ
美
("mỹ"), nghĩa là gì đây? Ghép dính như rứa, "媄"
người Việt đọc là "MẸ" (âm thuần Việt), ái chà, người đờn bà (nữ) đẹp
nhứt (mỹ) không gì bằng "Mẹ" đó đa!
("Mẹ" là âm thuần Việt, viết bằng chữ Nôm vừa
dẫn, còn "Mẫu" là âm Việt-Hán đồng nghĩa, viết bằng chữ Hán: 母)
Người Việt nói, "ông trời", "bầu trời":
âm "TRỜI" này, có tìm đỏ con mắt cũng không thấy trong Hán tự! Chữ
Hán chỉ có 天
"Thiên", đồng nghĩa, vậy ... không lẽ "trời" đành đi hoang?
Mới có chữ Nôm viết như ri: 𡗶
(ghép "thiên" 天 và "thượng"上
lại với nhau) và đọc là "TRỜI"!
Tiếng "Trời" bị hất văng ra khỏi Hán tự,
nhưng "Trời" ở lại trong chữ Nôm của người Việt.
Cách thức (2a) là cách lắp ghép mấy chữ Hán lại với
nhau, để tạo thành 1 chữ Nôm.
(2b) Mượn nguyên xi chữ Hán (không lắp ghép), nhưng đọc
khác (không đọc âm Việt-Hán) mà đọc theo âm thuần Việt & mang nghĩa khác. Tức
DỊ ÂM DỊ NGHĨA.
Ví dụ, dùng nguyên xi ký tự 嗔
(âm Việt-Hán "sân", nghĩa là "nổi giận, nổi cáu") nhưng đọc
thành âm thuần Việt là: "XIN", mang nghĩa "tỏ ý muốn người khác
cho cái gì".
(2c) Mượn nguyên xi chữ Hán (không lắp ghép), mượn
nghĩa luôn, nhưng đọc theo âm Nôm (không đọc âm Việt-Hán). Tức DỊ ÂM ĐỒNG
NGHĨA.
Ví dụ, ẵm nguyên con ký tự 於,
ẵm luôn cái nghĩa là "có mặt ở một nơi chốn nào đó", nhưng thay vì dùng
âm đọc Việt-Hán là "ư" thì đọc theo âm thuần Việt là: "Ở".
(2d) Mượn nguyên xi chữ Hán (không lắp ghép), mượn
cách đọc theo âm Việt-Hán, nhưng dùng nghĩa khác (nghĩa Nôm). Tức ĐỒNG ÂM DỊ
NGHĨA.
Ví dụ, dùng y chang ký tự 卒,
mượn lại âm Việt-Hán của chữ này là "tốt" (nghĩa là đầy tớ, kẻ bị sai
bảo), nhưng dùng với nghĩa khác hoàn toàn: TỐT (là tốt đẹp)!
(2e) Mượn ký tự Hán (không lắp ghép), mượn nghĩa của
ký tự lẫn âm đọc Việt-Hán luôn. Tức ĐỒNG ÂM ĐỒNG NGHĨA.
Ví dụ: 醫濟 y tế, 博士
bác sĩ, 封鎖
phong toả, 接續
tiếp tục, 經驗
kinh nghiệm.v.v...
TÓM LẠI:
* Chữ Nôm là nỗ lực của tiền nhân chúng ta làm sao có
được một hệ thống văn tự ghi lại tiếng nói của người Việt, tức gìn giữ âm thuần
Việt (trong khi chữ Hán thì không làm được việc hệ trọng này)!
* Mặt khác, trong hệ thống chữ Nôm cũng lưu giữ nhiều,
rất nhiều âm Việt-Hán, bởi vì âm Việt-Hán đã trở thành di sản ngôn ngữ ngàn đời
của người Việt.
-----------------------------------------------------------------
Kỳ tới: CHỮ QUỐC NGỮ tiếp nối giá trị của CHỮ NÔM ra
sao? (chú ý: không tiếp nối chữ Hán!). Đây càng khiến chúng ta trân trọng chữ
Quốc ngữ! Chỉ có đám vong bản mới "công kích" chữ Quốc ngữ, bọn họ đề
cao chữ Hán - lẽ ra phải là đề cao CHỮ NÔM, mà đã tôn trọng chữ Nôm ắt phải quí
mến chữ Quốc ngữ. Ủa, là sao? Đón đọc.
Hình ảnh: Truyện Lục Vân Tiên viết bằng chữ Nôm, và chữ
Quốc ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét