NAM KỲ / COCHINCHINE / NAM PHẦN / NAM BỘ
*&*
Có mấy điểm cần lưu ý:
Tên gọi NAM KỲ là do tiền nhân người Việt định danh
(ra đời hơn nửa thế kỷ trước khi người Pháp đặt sự đô hộ);
Tên gọi NAM PHẦN là danh xưng dưới thể chế Quốc gia VN
(1949-1955) và thể chế Việt Nam cộng hòa (1955-1975).
Trong thực tế (de facto), các tỉnh lỵ trung tâm thuộc
vùng đất phương Nam này đều nằm dưới sự quản trị của những thể chế vừa kể. Kể cả
trên danh nghĩa (de jure), như Việt Nam cộng hòa, dựa theo công pháp quốc tế
(qua Hiệp định Geneve 1954) là thể chế thủ đắc chủ quyền vùng đất phương Nam.
Sau tháng 4/1975 trở đi, thể chế Cộng hòa XHCN Việt
Nam thủ đắc chủ quyền thực tế đối với vùng đất phương Nam, và do vậy danh xưng
NAM BỘ mới trở thành tên gọi phổ cập nơi đây.
I/ NAM KỲ 南 圻
(gồm 6 tỉnh)
Vào năm 1832, vua Minh Mạng định cõi bằng danh xưng là
"kỳ" 圻, gồm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Cùng với sự
ra đời danh xưng "kỳ", lần đầu tiên nước Việt dùng chữ "tỉnh"
省
(trước đó gọi là "trấn", "phủ", "thành"...) trong
phân chia địa giới. Nam Kỳ được chia thành 6 tỉnh, nên còn gọi là "Nam Kỳ
lục tỉnh" 南 圻 六 省.
Gồm: tỉnh GIA ĐỊNH 嘉定, tỉnh BIÊN HÒA 边和,
tỉnh ĐỊNH TƯỜNG 定祥, tỉnh VĨNH LONG 永隆,
tỉnh AN GIANG 安江,
và tỉnh HÀ TIÊN 河仙.
II/ COCHINCHINE (gồm 21 tỉnh)
Người Pháp khi đặt sự cai trị lên nước Việt, họ đã dựa
theo - xin nhắc lại - sự phân ranh 3 kỳ có sẵn của Nhà Nguyễn trước đó cả nửa
thế kỷ, và ĐỔI danh xưng hoàn toàn khác đi! Nam Kỳ được người Pháp gọi là
"Cochinchine" (Bắc Kỳ thì Pháp đổi là "Tonkin", Trung Kỳ là
"Annam").
Thực dân Pháp lập tức xóa đi "lục tỉnh" của
Nam Kỳ, họ chia nhỏ thành 20 hạt (arrondissement). Đến năm 1899, đổi "hạt"
thành "tỉnh" (province), như sau:
Tỉnh Gia Định (thuộc Nam Kỳ, thời Nhà Nguyễn) =>
chia thành 5 tỉnh: GIA ĐỊNH, CHỢ LỚN, TÂN AN, TÂY NINH, GÒ CÔNG (thuộc
Cochinchine, thời Pháp);
Tỉnh Biên Hòa (Nam Kỳ) chia thành 3 tỉnh: BIÊN HÒA, BÀ
RỊA, THỦ DẦU MỘT;
Tỉnh Định Tường (Nam Kỳ) đổi tên thành tỉnh MỸ THO;
Tỉnh Vĩnh Long (Nam Kỳ) chia thành 3 tỉnh: VĨNH LONG,
BẾN TRE, TRÀ VINH;
Tỉnh An Giang (Nam Kỳ) chia thành 5 tỉnh: CHÂU ĐỐC,
LONG XUYÊN, SA ĐÉC, SÓC TRĂNG, CẦN THƠ;
Tỉnh Hà Tiên (thuộc Nam Kỳ, thời Nhà Nguyễn) chia
thành 3 tỉnh: HÀ TIÊN, RẠCH GIÁ, BẠC LIÊU (thuộc Cochinchine, thời Pháp).
Tháng 5/1944 người Pháp cắt một phần từ tỉnh Gia Định,
lập thêm tỉnh TÂN BÌNH.
Như vậy, Cochinchine có hết thảy là 21 tỉnh.
* Người Pháp ngay từ đầu đặt chân đến đã chia ra rất
nhiều tỉnh, NHƯNG người dân Nam Kỳ vẫn hoài vọng "lục tỉnh" thuở tiền
nhân định cõi. Chẳng hạn tên gọi của tờ báo do Trần Chánh Chiếu làm chủ bút, tờ
"Lục tỉnh tân văn", ra đời năm 1908 mặc dù lúc đó ở vùng đất phương
Nam làm gì còn "lục" (6) mà đã hai mươi tỉnh rành rành.
"Nam Kỳ lục tỉnh", hoặc "Nam Kỳ"
trở thành danh xưng chứa đựng niềm hãnh diện, nối kết với truyền thống cha ông
- mà mãi về sau của những thập niên 60, 70 (và thậm chí hiện nay) người dân nơi
đây vẫn còn ưng nhắc đến.
III/ NAM PHẦN (gồm 27 tỉnh thành)
(bản đồ vào năm 1974)
Đô thành SÀI GÒN (địa bàn gồm những quận đánh số như
quận Nhứt cho tới quận 11);
Tỉnh GIA ĐỊNH (tỉnh lỵ đặt tại Gò Vấp, với địa bàn mà
hiện nay gọi là Gò Vấp, Bình Chánh, Bình Tân, Bình Thạnh, Cần Giờ, Thủ Đức, Hóc
Môn, Tân Bình, Phú Nhuận, Nhà Bè, Tân Phú ...);
Tỉnh BÌNH TUY (Hàm Tân, Tánh Linh, Đức Linh, thị xã La
Gi...; thời VNCH tỉnh Bình Tuy xếp vào Nam Phần, nhưng nay sáp nhập vào tỉnh
Bình Thuận thuộc về miền Trung);
Tỉnh PHƯỚC TUY (gần như là địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu hiện nay);
Tỉnh LONG KHÁNH (Xuân Lộc, Định Quán, Gia Kiệm..., nay
thuộc tỉnh Đồng Nai);
Tỉnh BIÊN HÒA (gồm thành phố Biên Hòa, Long Thành,
Nhơn Trạch, Trảng Bom, Vĩnh Cửu... nay thuộc tỉnh Đồng Nai, cộng với Dĩ An, một
phần Tân Uyên nay thuộc tỉnh Bình Dương);
Tỉnh BÌNH DƯƠNG;
Tỉnh BÌNH LONG (An Lộc, Chơn Thành, Lộc Ninh... nay
thuộc tỉnh Bình Phước và một phần Dầu Tiếng, Bàu Bàng, Phú Giáo nay thuộc tỉnh
Bình Dương);
Tỉnh PHƯỚC LONG (nay là một phần của tỉnh Bình Phước gồm
Đồng Xoài, Phước Long, Đồng Phú, Bù Đăng, Phú Riềng, Bù Gia Mập, Bù Đốp...);
Tỉnh HẬU NGHĨA (Đức Hòa, Đức Huệ nay thuộc tỉnh Long
An, Củ Chi nay thuộc tpHCM, Trảng Bàng nay thuộc tỉnh Tây Ninh);
Tỉnh TÂY NINH;
Tỉnh LONG AN;
Tỉnh KIẾN TƯỜNG (Mộc Hóa...; nay thuộc tỉnh Long An);
Tỉnh GÒ CÔNG (nay thuộc tỉnh Tiền Giang);
Tỉnh ĐỊNH TƯỜNG (tỉnh lỵ là Mỹ Tho, nay thuộc tỉnh Tiền
Giang);
Tỉnh KIẾN PHONG (tỉnh lỵ là Cao Lãnh, nay thuộc tỉnh Đồng
Tháp);
Tỉnh SA ĐÉC (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp);
Tỉnh KIẾN HÒA (thị xã Trúc Giang...; nay gọi là tỉnh Bến
Tre);
Tỉnh VĨNH LONG;
Tỉnh VĨNH BÌNH (nay gọi là tỉnh Trà Vinh);
Tỉnh PHONG DINH (Cần Thơ, Châu Thành, Phong Điền,
Phong Phú, Phong Thuận, Phụng Hiệp...);
Tỉnh CHƯƠNG THIỆN (Vị Thanh, Long Mỹ, Vị Thủy...; nay
tương ứng với phần lớn địa bàn tỉnh Hậu Giang);
Tỉnh BA XUYÊN (nay tương ứng với hầu như toàn bộ địa
bàn tỉnh Sóc Trăng);
Tỉnh CHÂU ĐỐC (Châu Phú, An Phú, Tân Châu, Tịnh Biên,
Tri Tôn...; nay thuộc tỉnh An Giang);
Tỉnh AN GIANG (tỉnh lỵ là Long Xuyên; nay tỉnh An
Giang gồm Long Xuyên sáp nhập với Châu Đốc);
Tỉnh KIÊN GIANG (Rạch Giá, Hà Tiên...);
Tỉnh BẠC LIÊU;
Tỉnh AN XUYÊN (nay tương ứng với hầu như toàn bộ địa
bàn tỉnh Cà Mau).
IV/ NAM BỘ (gồm 19 tỉnh thành)
Nhập tỉnh rồi tách tỉnh theo dòng thời gian, đây nói về
thời hiện nay (2021):
Vùng Đông Nam Bộ gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh
Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Vùng Tây Nam Bộ: Thành phố Cần Thơ, Long An, Đồng
Tháp, Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Kiên
Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau.
-------------------------------------------------------------------
"Thương, dân lập đền thờ":
Đức Tả quân Lê Văn Duyệt (hình 1)
Thượng đẳng
đại thần Nguyễn Trung Trực (hình 2)
Bản đồ Nam Kỳ lục tỉnh (1832) (hình 3)
Bản đồ Nam Phần 27 tỉnh thành (1974) (hình 4)
Bản đồ Nam Bộ 19 tỉnh thành (2021) (hình 5)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét