ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2022

Sự tích Cha Vincentê Nguyễn Vinh Phú

SỰ TÍCH CHA VINCENTÊ PHÚ

--------------------

Năm 1890 học trò trường Latinh Saigon bị cúm, cha Vincentê về nhà phụ ấm nghỉ, thì cha người biểu thôi, ở nhà làm thầy thuốc, song người không nghe, cứ giữ lời ông thánh Phaolồ: “Tôi không nghe tiếng bà con máu thịt”

Năm 1897 người chịu chức linh mục, Đức cha sai người xuống Mỹ Tho làm phó đi các họ: Xoài Mút, Chợ Bưng, Vỉnh Kim, Xoài Hột, rồi đổi qua Kinh Điều coi mấy họ Phú Đức, Phú Túc, Quới Sơn. Cách 4 năm người xuống cữa Balai coi họ Vũng Luông. Bổn đạo họ nầy là những người hạ bạc, cũng có bổn đạo nghèo khổ ở An Đức, và mấy họ nhỏ về cù lao Phú Đức xuống ở làm củi, lần hồi cất nhà lập xóm. Cha phải làm lưới chài đóng đáy cho dễ bề trợ dân cùng khỏi ở không. Chẳng may bão năm thìn 1904 phá tán nhà cữa bổn đạo, xô nhà thờ lụi hết. Cha con liệu điệu chở đồ xuống ghe xuống xuồng, ngược sông Balai tìm đất khẩn cho dân độ hồ khẩu. Cha thấy cuộc đất Kiến Vàng (Cánh Giàng) rộng lớn, thì cha lên Mỹ Tho vay mượn đặng khẩn đất và khai phá 100 mẫu ruộng. Chốn mới nầy là ổ cọp là tổ ăn cướp, đầy những chà là, mấm, vẹt, cóc kèn, bụi bờ dày bịt. Trọn trong mười bảy năm cha con xúm xít cực khổ, năm nào nước mặn lửng sớm thì cha phải lên Mỹ, lớp mượn lớp xin, đặng mua bắp bẹ về cho cha và dân ăn, để dành lúa làm mùa tới. Cha đốc dân trồng bí, trồng khoai ăn đỡ ngặt, cha cũng ăn như dân; bỡi xa chợ thì cũng phải đặt đó kiếm cá, tôm tép ăn cho đỡ tốn hao. Cha đem nhà thờ cũ Vũng Luông về làm nhà ở, và lo cất nhà thờ lợp lá su sơ. Cha ham việc hát xướng dọn dẹp nhà thờ cho xứng đáng oai quờn Chúa cả trời đất, giữa dân ngoại giáo, nên cha tập nội họ tưởng gẫm phe nam, phe nữ rập ràng khoan thay. Cha xin cha già Đường dưng cho họ một cái chuông cũng vừa. Hễ nghe chuông sớm tối, thì ai nấy phải bắt đầu đọc kinh không đặng bỏ. Mùa khô thì tối phải tựu vào nhà thờ đọc kinh chung, mùa ướt thì mỗi tuần một lần. Thật là thói rất lành. Dẫu nghèo khổ, cha cũng chẳng nệ tốn kém, rước Đức Cha tới tại họ xức trán đặng hai lần; cờ xí trống phách, pháo, nhạc, lọng kiệu, rước đưa đi tới ngàn thước.

Bỡi cha nhơn từ rộng rãi, nên trong họ đều nhờ nhỏi cha và thương cha lắm. Cha bỏ Kiến Vàng đã bốn năm, mà cũng như mới đổi, giàu nghèo cũng còn ngậm cơm cha và nhà cữa còn ở đất cha khai phá. Mấy năm cha ở Kiến Vàng, các cha lân cận vì tình cha cũng tới lui thăm viếng giúp cấm phòng, khi cha Villeneuve lại nhậm họ Vang Quới và các họ nhỏ, cũng hết lòng kính và thương cha như anh em ruột, đi đâu cũng ghé cha bàn tỉnh, giúp đỡ tiền bạc, cho chác của kia vật nọ, vì biết cha nghèo cực lắm. Cha cũng còn phải coi hai họ là Giồng Tre, và Cù Lao Lá. Đi Giồng Tre thì liền đàng đi ngựa, còn Cù Lao thì phải đi ghe ngược sóng ngược gió. Năm nào tới lễ Sinh nhựt cha cũng lo bong thủy lục đặng đi Cù Lao, cùng chịu các phần tổn phí, cho các họ đủ cơm nước đặng hiệp nhau cho dễ. Có năm cha dọn kiệu Chúa hài đồng, bỡi không nơi cao cho thiên thần bảo, nên mới trèo lên nhánh chưn bầu, rủi gãy té chụp đè mục đồng. Ai cũng tức cười, vì không sao hết.

Năm 1912 cha lập thêm họ Cù Lao Lá trên, chẳng may 1913 gió lớn thổi nhà thờ sập ngã xuống. Nhà cha ở tại Kiến Vàng cũng sập, nhà thờ lá cũng tốc hết, cha con lo tu bổ lại. Mấy năm cha ở Kiến Vàng, vì xa chợ nên mỗi tháng phải mướn ghe, đi tàu lên Mỹ Tho đặng mua đồ cần dùng, cùng lo việc riêng: tiền tàu tiền ghe ít là năm đồng mỗi chuyến. Cha cần mẫn lo khai phá khuôn đất Kiến Vàng: bờ ngay thẳng rộng lớn, trồng chưn bầu (trâm bầu) cho im mát và có củi chụm. Cha lựa phần xấu mà làm, còn phần tốt thì cho các con mướn rẻ mắt mà kiếm ăn.

Đức cha biết cha đã mệt mỏi, thì đem cha về Đất Đỏ. Cha về họ Đất Đỏ ngày thứ tư tuần thánh năm 1919, chở theo mình có ba cái rương đồ lễ áo quần, với hai valises, còn bao nhiêu cha chia cho các con tại Kiến Vàng hết.

Bấy lâu cha coi họ nhỏ, nay về họ lớn có hơn 1000 bổn đạo, cha liền tra tay làm các việc cũng như một cha còn trẻ. Rảnh việc dạy học trò, thì cha lo giồi mài hát xướng tập đờn, viết bản đờn, tập kia sang tập nọ, kinh hát đôi ba phần. Một cha trẻ quen thạo, thì chẳng nặng gì, mà cha già yếu, bỏ hát bỏ đờn trên 20 năm, mà còn lẽ nào tập đi sửa lại, thật công phu rất dày.

Cha dọn dẹp đất thánh cho có rào giậu và một khuôn cữa đá xanh, giữa dựng một bia thánh giá bằng ciment armé. Cha đã phố khuyến trong họ cho có mà làm đất thánh, và mua đặng một cây đờn cho xứng họ lớn. Cha còn xây lại hai khuôn cữa ngỏ vòng rào nhà thờ, cho có thứ tự khỏi kẻ ra người vô ban đêm. Cha muốn dọn dẹp nhà thờ cho trang hoàng, mà không đặng, vì xưa đã cất tuy chắc mà thấp thỏi lắm. Lần nào cha lên Bàrịa thấy dọn dẹp, thì cũng nói nhà thờ Đất Đỏ dọn vậy không đặng. Các cha bản sở cũng đốc cha lo làm nhà thờ mới. Nhứt là buổi cha Phaolồ Nhượng còn sanh tiền, cha không thấy tiền bạc đâu mà làm cho nổi, nên mới xin phép Đức cha trong tháng Septembre 1922 cho lập hội trong họ, chung cọng kẻ ít người nhiều, lâu lâu thành số bạc muôn mới dám tra tay.

Từ ngày thi hành góp đặng hai kỳ, kế cha li trần! ai ai cũng trông cha còn sống mà lo việc cho toàn hảo, như lòng cha sở ước.

Từ khi cha về coi họ Đất Đỏ, cha cũng đã đau một phen, tưởng không còn sức gánh vác; mà cha cũng gượng thuốc men cho khá, kẻo cực cho bề trên trong lúc eo hẹp các cha. Cha hay cảm, hay rét, nhứt là từ tháng Septembre năm ngoái, Đức Cha đổi cha sở Xuyên Mộc về Hồi Xuân, cha phải gánh thêm hai họ nhỏ cách xa 22 ngàn thước, chuyến nào cha đi làm lễ về thì mỏi mê đôi ba ngày, có khi trót tuần. Từ đây cha mới nói rằng: Bấy lâu tôi biết tôi già, mà chưa rõ; đi Xuyên Mộc về mới biết rõ, sợ e ăn chịu chẳng bao lâu. Như cứ vậy hoài khi phải xin đổi, hay là phải hưu trí. Than thì than, chớ cha cũng liệu phương tiện đi thăm hai họ nhỏ không bỏ, cũng không dám cho bề trên biết.

Cách một tháng trước khi cha chết, là ngày 27 Février, cha còn lo dọn dẹp làm lễ hát cho cha Phaolồ Nhượng và cha Thoma Nhựt rất trọng thể, làm đủ lễ nhạc. Có tám cha đến chầu lễ, cha còn coi cho đồng nhi hát ba phần rập ràng trong hai bữa. Chẳng dè cha coi hát ba phần lần nầy là lần sau hết, cách một tháng nữa cũng hát tiếp lại nữa, hát tới bốn phần (có phần khóc) mà cha nằm trở mặt ra im lìm không còn nghe chi nữa! Ngày 16 Mars cha phát nóng nảy đau mình quá cực; tưởng là cảm gió, không hay là trái trời, cha nói già rồi trái gì nữa. Bỡi vậy không rước thầy trái, cách một tuần mới hay mà trễ rồi, bị hơi, bị lặm, trái mọc trạt mình như về cơm cháy, đen thui, nhứt nhói quá sức.

Đức Cha nghe tin cha đau nặng thì thảm não cũng làm Tam nhựt, kính á thánh Minh và các á thánh Linh mục bổn quốc tử đạo, cầu nguyện cho cha an thuyên.

Đức Cha cũng xin cha sở Bàrịa liệu phương trợ giúp cha cho dễ chịu và mau mạnh. Trong ngoài có chín mười người giúp đỡ cha, thuốc men. Bà nhứt nhà phước Thủ Thiêm cũng sẵn lòng cho hai Dì nên trái rồi, vào ra nuôi cha.

Nội họ tối bữa nào cũng tựu lại nhà thờ, làm việc bảy sự cầu cho cha sở mình, cả ngày chong đèn bàn thờ Đức Mẹ. Cha sở Bàrịa cũng xin họ cầu nguyện cho cha. Hết thảy đều cậy trông phép Chúa, quan thầy thuốc tây đến thăm cha ba lần, đều lắc đầu, thầy thuốc annam cũng chê hết. Cha cực lực trót tuần, chẳng than một tiếng, lột da rát rao quá đỗi.

Chiều thứ sáu trước lễ lá, tôi đến có ý ở giúp cha luôn, vào thăm cha, cha hỏi tôi tưởng cha làm sao. Tôi ngậm ngùi làm thinh, vì hai năm cha còn ở Kiến Vàng tôi có dạy trong mấy họ của cha, đã mến cha rồi, và từ bốn năm cha về Đất Đỏ hằng tới lại giúp đỡ cha khi mệt mỏi, đã gần gũi cha, nay hết trông gặp cha cho lâu nữa, phần thấy trong họ ai thăm cha cũng sa nước mắt. Sáng Chúa nhựt lễ Lá cha xin tôi đem Mình Chúa, tôi gởi lời cho mấy người giúp cha, thưa với cha như cha xin rước lễ Viaticô, thì tôi đem liền, còn như cha xin rước lễ thường thì xin cha đợi, vì bịnh cha phải sợ cho kẻ khác, cha vui lòng chịu vậy.

Qua một giờ trưa cha mệt hơn thường, tôi lên an ủi cha dọn mình. Đúng bốn giờ tôi xin cha xưng tội, cha giục lòng ăn năn cùng lặp đi lặp lại rằng: Tôi buồn, tôi xưng hết các tội, cha nói nhiều không đặng vì mê mệt, và trái chận cứng cuốn họng, Tôi sửa soạn ban phép giải tội ba bốn lần, cha cứ nhắm tay biểu đợi đợi, cách nửa giờ cha chắp tay đánh ngực, tôi đọc và làm phép giải tội cho cha; cả mình tôi run sợ vì thấy giờ sau hết đã cho là kinh hãi!. Tôi hỏi cha bằng an không, cha nói bằng an, sẵn rồi. Tôi an ủi cha về đời sau, cha muốn khóc mà khóc không nổi, vì trái mọc sít con mắt cha. Cha và tôi dùng tiếng Latinh và Langsa cho dễ hơn, cha hối lấy áo surplisstola mặc vô, cha còn biểu lấy áo dòng mặc nữa, tôi xin cha thôi, vì tay cha sưng lớn, lại mặc áo dòng ngoài áo surplis stola sao đặng.

Rước lễ xong cha nằm xuống chịu phép xức dầu, nội đêm Chúa nhựt nầy chộn rộn quá, tứ phía nghe những tiếng khóc than; đèn trên lầu chong sáng cả đêm.

Mười giờ thứ hai tôi lên thăm cha, cha nói đã tới giờ, tới thì Chúa rồi. Tôi giục lòng cha trông cậy Chúa, thì cha nói tôi trông cậy ba lần và thêm in resurrectionem mortuorum, vì đã dưng hết cho Chúa, đã làm tôi Chúa trong... cha quên 26 năm thì tôi nói 26 năm, cha gật đầu. Tôi thấy bổn đạo khóc quá, thì tôi hỏi cha đi kẻ liệt không, cha nói không, tôi hỏi cha làm lễ Phục sinh ở đâu, cha rán giơ tay lên mà không nổi cùng nói ở trên trời; tôi còn hỏi nữa, cha làm lễ nhạc ngày thứ năm tuần thánh không, cha cũng nói không. Rồi cha nắm tay từ giã tôi, cùng xin tôi cho Đức Cha, cho cha Bàrịa và các cha hay đặng cầu nguyện cho cha khi cha chết rồi. Tôi xin cha đừng lo chi mấy đều ấy, sau hết cha xin tôi cầu nguyện cho cha, tôi cũng xin lại thì cha ừ. Một giờ trưa cha hối họ đọc kinh cho cha nghe, tôi cũng đọc các kinh theo lễ nhạc Hội thánh.

Cha làm xung chừng 2 giờ rưỡi đồng hồ, rồi yếu lần, 6 giờ rưởi cha còn hôn ảnh chuộc tội lần sau hết, rồi bất tỉnh; độ 9 giờ rưởi cha hoi hóp. Thấy xuất mồ hôi, tôi liền đọc tiếp các kinh đưa vừa rồi cha tắt hơi, thiếu một khắc nữa 10 giờ. Mở các cữa nhà cha ở xong, ba chuông trên tháp liền vang vầy một chặp, rồi đổ giọng trầm, báo tin cho đạo ngoại biết cha Vincentê dã lìa thế! Thảy đều rúng động. Họ tựu lại cầu lễ cho cha, cùng liệu phần tống táng, lao xao trót đêm tới sáng. Mà tội nghiệp! Cha mang bịnh nầy ai cũng sợ hơi, không dám đến gần, ở xa mà khóc.

Sáng tôi làm lễ hát cho cha, quan chủ tĩnh sai quan thầy thuốc tây xuống coi việc tẩn liệm cha cho hắn hòi, kẻo lây cho kẻ khác. Đổ mười thùng vôi bột vào săng trên dưới đón hơi, rồi đem quan tài vô nhà thờ, các họ tựu lại cầu lễ cho cha liên tiếp. Thầy thuốc còn lo việc khử độc, dạy phất giấy nhựt trình nội từng nhà cha

cho kín, đốt năm kilos sanh, bít các cữa lại hết để luôn 20 ngày, mới cho mở. Coi rất nên buồn bực!.

Đức Cha đặng dây thép cha đã qua đời, thì đánh dây thép lại nói Ngài đi mai táng cha chẳng đặng, vì mắc thứ năm tuần Thánh. Các cha cũng mắc lo họ mình nội tuần nầy không đi đặng, nên sáng thứ tư đúng 6 giờ có mình cha sở Bàrịa đến làm lễ hát trọng thể, cùng đưa cha ra phần mộ.

Cha đã công khó với họ, nên đã lo đủ đều mà xây kim tỉnh cho cha, năm thợ xây trót đêm mới kịp. Cha nằm trước cây thánh giá lớn trong đất thánh với các con, mà đợi ngày sống lại vinh hiển.

Xưa cha vào Đất Đỏ trúng thứ tư Tuần Thánh, nay cách 4 năm cha ra đất thánh cùng một ngày.

Tên cha chỉ giàu có, mà thật khó khăn, cha chết rồi, mở tủ không thấy dư đồng nào. Vì có bao nhiêu thì cha dùng nuôi dưỡng giúp đỡ người ta: Lớp cha cho mượn mà họ chưa trả, may phước cha còn thiếu đủ chút đỉnh, mấy chỗ cha giùm giúp có trả đủ, thì đủ ăn đủ chung vậy.

(Chung)

PAUL X.

Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1923

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét