ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2022

Họ Bãi Xan

KỂ LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ

ĐỊA PHẬN NAM KỲ

-----------------

HỌ BÃI-XAN

Từ lúc khởi lập tới sang kiêm thời

-----------------

I. - Gốc tích họ Bãi-xan từ năm 1780 tới năm 1808.

Nghe tiếng: Bãi xan thì ai ai cũng hiểu là chỗ mé sông có sóng gió ba đào chuyển động. Mà thật tới mùa gió chướng, trên đầu Cùlao-bàng nước chảy qua cuộn cuộn và gió mạnh đánh bước vào mé Bãi-xan, làm sanh sóng lớn. Mỗi năm, lúc gần Tết Annam, ghe buôn chở hàng đi ngang đó, nhiều chiếc phải chìm, dưa hấu, dừa xiêm gì trôi lỉnh ghỉnh!. Dầu tàu bè chạy mùa đó cũng thất kinh, vì nhớ chiếc Pluvier, năm 1903, chìm ngang vàm Láng thé, bộ hành lớn bé bỏ mạng cũng nhiều, còn hàng hóa mất tiêu hết thảy!

Bây giờ nói đến họ Bãi-xan, bề dài từ vàm Láng thé, theo mé sông lớn Cổ-chiên, chạy thấu khỏi ranh làng Mỷ-hiệp; còn bề ngang ăn riết vô một cái giồng nhỏ, kêu là: Giồng tượng. Đến trước Thánh Đường thì tẻ ra làm ba nhánh, là: Giồng lớn, Giồng nhánh và Giồng giữa, đó là địa đồ nội họ Bãi-xan.

Đây nói sang qua lúc lập họ: Lối năm 1780, lúc giặc Tây-sơn phá rối thiên hạ, thì có nhiều người bổn đạo các nơi tới lập họ nầy, mà nhứt là người Cái-bông tới ở. Mà Cái-bông là một chỗ ở phía nam xứ Ba-tri, gần vàm sông Hàm luông, muốn kêu cho trúng thì chỗ ấy là: Gành mù-u. Chốn nầy là chỗ dân Bình-thuận và Bình-định ưa vô trú ở mần ăn trong Nam-kỳ.

Người đến Bãi-xan đầu hết là ông Bốn, bỡi ông muốn lập nghiệp mần ăn thì chăm lo khai phá đất, mà bỡi thấy đất nầy chật hẹp, chẳng đủ sức ông mần, nên ít lần ông bỏ Bãi-xan mà xuống Giồng-rùm ở dưới. Kế tới phiên bà con cùng người quen của ông Bốn cũng tuôn đến Bãi-xan, là ông Ký và ông Đẩu, song có một mình ông Đẩu biết chế độ việc lập họ, cho nên ông đáng kể là kẻ tạo lập họ nầy.

Vốn người cha ông Đẩu là ông Nguyễn-văn-Siêu thuở ấy có nhiều người yêu chuộng, vì ông làm Thầy lương y giúp việc quan Thượng Bộ ngồi tại Ba giồng. Ông Siêu làu thông chữ tàu, nên dạy con người nào cũng hay chữ, lại nữa ông đã dưng một con trai vào trường Latinh giúp việc Chúa. Mà thuở ấy phải gởi con vô Xiêm, vì bỡi trong nước Annam chẳng có đặng yên, nên phải lập trường chung Latinh ở tại đó.

Trò Latinh trẻ nầy đến sau có tên là: Cha Phaolồ và có công giúp Đức Thầy Phêrô cùng Đức Nguyễn Ánh trong nhiều việc cả thể lắm, theo lời trong sử nói rằng: "Ce fut un prêtre puissant en oeuvres et en paroles.”.  Người là một thầy cả có tài làm mọi việc và tiếng nói ai ai cũng nghe lời.

Vì chăng bỡi ông Đẩu có thân thế cùng quan Huyện Vũng-liêm, vì chưng em gái người kết bạn với quan Huyện, cho nên nhờ đó mà ông Đẩu đến sau lo chuyện lập làng xong xuôi mọi nỗi.

Vốn ông Đẩu sanh ra hết thảy là năm người con: Người trưởng nam tên ông Lượng, có con là bà Sử, bà Lài, rồi bà Sử sanh ra Trùm Thân là ông già cha Các làm thầy Đạc đức;

Còn bà Lài sanh biện Qui còn con cháu bây giờ ở Bãi-xan.

Người thứ ba tên bà Đài là gái ở vậy không con, chừng bà mạng chung, anh em bà đồng dưng đất ruộng gia tài bà, chỗ cất Thánh Đường Bãi-xan bây giờ.

Người thứ tư là ông Tường, có con là bà Thị và Câu Tứ, là ông già cha Cường và Trùm Doan mới chết ít năm nay.

Người thứ năm tên bà Mỹ là bà ngoại cha Phêrô Quờn và Trùm Nghị mới chết đây.

Người con út là bà Nữ, là bà Giáo Trực, biện Nguyên, năm Nhẩn bây giờ.

Đã nói xong về gia thất ông Đẩu, còn phải nói đến chi ông Lại đồng Bường, cũng ở Cái-bông mà đến Bãi-xan, Chi nầy đông đắn tới tám anh em: Người thứ hai tên Bường, thứ ba tên Tự, thứ tư tên Mây, thứ năm tên Oai, thứ sáu tên Nhu, thứ bảy tên Minh, thứ tám tên Mẫn và người út tên Năng.

Ông Đẩu tương phân cho chi nầy phần đất cần mé sông cái, chổ vàm rạch Giồng tượng, chỗ nầy nhiều lần phải nguy hiểm vì dễ cho quân cướp biển xông vào phá hại. Trong các chi mới lại đây thì có ông Khả là người mạnh mẽ gan dạ hơn hết, một mình ông dùng trâu khai phá đất, mà hết thảy bà con xúm lại mần không bằng. Khi đã làm nhiều việc, trưa mệt mỏi, có người ta nói ông uống một lần hết một tĩn nước mới đã khát cho !..

Còn trong phần rẩy-trên thì có ông Lê-ngọc-Lành là quan cựu ở Huế, bị giặc Tây-sơn, nên trốn và ở Cù-lao-tây một ít lâu, rồi khi vua Gia-long đã toàn công thắng trận thì gia thất đông đắn nầy đến ở Bãi-xan đây.

Ông Lê-ngọc-Lành sanh con cái đông: Người trưởng nam tên ông Lịch, có con là bà Lành là bà ngoại cả Xến ở họ Cần thơ.

Người thứ ba là bà Lãm, bà nầy sanh đặng năm con: Một là bà Phượng; hai là bà Dưỡng; ba là bà Gương là bà ngoại ông Trùm Ngoạn ở họ Chợ-đũi;

Bốn là bà Tàu, sanh bà Loan, thầy phó Kiểng ở Vĩnh-long, bà Sánh là mẹ phủ Thiệt, phủ Thuận, sau hết là ông phán Nam là Trùm cựu họ Bến-tre nữa;

Năm là ông Tây, sau cãi tên lại là Cả Quế. Người thứ tư tên ông Xang, có con là ông Nguơn, ông nầy sanh đặng 12 người con, người nào sống cũng trường thọ bỡi cách ăn ở hiền từ, như ông sáu Tấn là ông Trùm họ Giồng-rùm đến chừng quá 80 tuổi mới chết; bây giờ còn sót ba người ở Bãixan: Ông năm Quờn 86 tuổi; bà bảy Lực là vợ ông Trùm Tý 84 tuổi và bà út Lợi cũng quá 70 mà còn mạnh giỏi cả ba.

Người thứ năm là ông Xê sanh con trai bảy người là: Ông Thứ, ông Thanh, ông Thơ về ở Rạch-dầu, là ông nội cha Vạng, ông Hợi, ông Mùa là Ông già biện Út, ông nầy lúc cấm kín có công giấu ẩn các cha và cố chính Hòa (R. P. Borelle) đã chết tại nhà ông Mùa, năm 1860;

Ông thứ bảy là biện Màng sang về ở Cái-mơng, có con là bà hai Mẫn còn sống bây giờ,

Sau hết con út là ông Đặng là cha tham Hài, ba Quí ở Bãi-xan.

Thật dòng họ Lê nầy còn đông đắn lắm, nội họ Bãi-xan kể hết cũng có trót ngàn nam phụ lão ấu bỡi dòng ấy mà ra.

Dưới rẫy dưới, gần vàm Láng thé, có ông Phạm-văn Minh là cha bà Điều, khi đã điệu gia thất ông về Bãi-xan rồi thì đã khai phá trót năm chục mẫu đất. Còn một ít gia thất nữa cũng về Bãi-xan lúc khởi đầu nan lập họ, là gia thất ông cả Huyên, ông Của, ông Xuyên, ông Tần, ông Long sau về làm ông Trùm họ Tha-la và ông Ẩn là ông nội Cha Truyền. Bỡi đó cho nên, theo lời người ta nói, thì họ Bãi-xan lúc ban đầu số bổn đạo chừng một trăm rưỡi người. Phô kẻ ấy tới ở Bãi-xan xong rồi thì chí thú tra tay làm việc cực khổ biết bao nhiêu; nào muỗi mòng cọp heo gì cũng làm cho vỡ chạy, cho tới tượng voi cùng kinh hãi nữa. Mà sự kẻ ấy ưa kiếm tìm hơn của ăn là sự bằng an trong họ, lúc giặc giả ít có lắm!. Lúc ấy ở Bãi-xan đặng khỏi bắt lính, khỏi sưu thuế, còn mấy làng ngoại cũng vì nể, chẳng ép bổn đạo giúp việc dị đoan.

Bỡi ở Bãi-xan đặng bình an vậy thì làm cho nhiều người có đạo ai nấy đua nhau tuôn đến, cho nên chưa tới hai mươi năm, mà số bổn đạo họ nầy đặng chừng sáu trăm nam phụ lão ấu.

Lúc ấy, theo việc Nước thì họ Bãi-xan thuộc về Làng Đức-mỷ, ăn dài theo sông cái, từ Rạch Láng thé cho đến vàm Rạch Vũng-liêm.

Trong năm 1800, có một ít người ngoại sẵn lòng tính với nhau mà chia Làng Đức-mỷ ra làm hai, đặng lập một Làng mới, lấy hiệu là Làng Bình-hòa, song hoặc bỡi lập làng lật đật quá, hay là vì lẽ nào khác chẳng rõ, nên lập Làng Bình-hòa, là nơi bổn đạo tựu ở, có sáu năm thì tiêu mất hiệu làng.

Bấy giờ có ông cả Đẩu hiệp đồng với ông Bốn mà lập làng cho xong, rồi đặt tên là Làng Phước-toàn, lối đầu đời vua Thiệu trị, năm 1840. Đến sau đổi tiếng Phước-toàn mà đặt lại là Làng Phước-hãi cho tới năm 1819, lúc Phước-hãi, Long-thới giáp ranh sáp lại một làng thì đặt tên là làng Phước-thới cho tới bây giờ.

Vốn tiếng Phước-toàn là gồm trọn phước lộc, thì vua chẳng chút ưng chịu cho Làng, nói có một Ngôi Thiên Tử đặng toàn phước mà thôi, nên phải đổi hiệu làng, đặt lại Phước-hãi là vậy đó. Lại nữa vua dạy làng phải thỉnh “Sắc thần” và lập một đình kính trọng thần ấy. Cái đình nầy đã cất tại chỗ nhà bà câu Mỷ ở bây giờ, song bỡi bổn đạo bỏ phế chẳng lo tu bổ, nên chẳng có bao lâu cái đình hư mất. Còn sắc thần cất tại nhà ông chủ Tứ, rủi bị ngọn lửa cháy cũng đã hóa ra tro.

Vốn làng nầy khi đó có người bổn đạo ở mà thôi và có ông cả Đẩu làm đầu thì đặng thạnh mậu và bền vững trong 30 năm, lúc cấm đạo Thiên Chúa.

Mà họ Bãi-xan lúc đó có nhà thờ, có thầy cả đến giúp họ hay chăng?. Dầu mấy người đang sống bây giờ chẳng ai nhớ rõ, song quả thật là có các thầy Dòng ông thánh Phanxicô ở Cái-nhum biết tỏ tại họ Bãi-san có 600 bổn đạo, vì nhiều họ có giao lân gả cưới với nhau cùng lại dời sang chỗ ở nữa. Và lối năm 1815, có Cố Phan, người Dòng ông thánh Phanxicô ở Cái-nhum có đến giúp họ Bãi-xan nầy.

Lại nữa, cha Phaolồ là em cả Đẩu có năng về Bãi-san thăm bà con, thì luôn dịp cũng chỉ biểu cho anh mình đem lòng yêu chuộng trắn triếu các cha hội Giảng đạo ngoại quốc.

Lối năm 1827 cũng có Cố Chính (R. P. Gagelin) và Cố Phương (R. P. Odorico) có đến viếng họ Bãi-xan nầy nữa.

---------------------

II.- Truyện xảy ra trong Họ.

Sổ các cha đã giúp họ Bãi xan.

Cha Điền. Trong số các thầy cả bốn quấc cùng Hội Dòng Sai lại Bãi xan đây mà giúp họ, thì có cha Điền là người thứ nhứt có cất nhà ở lâu. Có kẻ nói cha ấy thuộc về Dòng ông thánh Phanxicô, song chẳng có chắc mấy, lại cũng chẳng ai rõ người đến Bãi xan là khi nào, mà chắc một đều là cha Điền đến ở Bãi xan trước cơn bắt đạo dữ dằn Minh mạng hoành hành năm 1832. Có lẽ lời nói đây là chắc, vì trước cơn bắt đạo, tại Bãi xan đây có một nhà thờ cha nầy cất, rồi tới lúc bắt đạo phải phá tiêu năm 1833. Nhà thờ nầy cất cao cẳng giống nhà người thổ, cất tại chỗ vựa lúa Bãi xan bây giờ. Các bổn đạo lớn nhỏ đã chung lo cất nhà thờ ấy tùy phận sự mỗi người. Còn muốn cho ghe dễ tới lui và nhứt là cho có nước uống thấu đến nhà cha, thì họ đào thêm rạch Giồng tượng vô thấu con giồng chừng 400 thước nữa. Những người có dư như ông Điểu, ông hương Nhu, ông Trùm Tường thì nuôi ăn cho bọn làm đất. .

Lúc cất nhà thờ vừa rồi, liền đem sang đồ thờ bên ông Trùm Tường về nhà mới là: mấy cái bàn thờ, màn trướng, áo lễ và ảnh chuộc tội cùng một ít món khác nữa. Mấy đồ thờ kể đó, có một phần là của cha Phaolồ, lúc cha ở họ Cái đôi (thuộc về tĩnh Long-xuyên) đau liệt gần chết, thì cha trối cho cháu mình là Trùm Tường đặng dùng tại nhà thờ họ Bãi xan, Lúc đó ông đã qua đời, thì ông Lại-đồng-Tự kế tiếp. Ông nầy làm chức ông cả lại làm Trùm họ, mà bỡi ông có công khó nhiều, nên Bề trên cho người làm trùm Phủ. Bổn đạo lúc đó chẳng những lo cho có nhà thờ, mà lại cũng lo cho nhà thờ có huê lợi..

Đây còn ba tờ dưng cúng đất. Tờ thứ nhứt chép rằng: “Chúng tôi ký tên sau đây bằng lòng dưng cúng cho Thánh Đường một miếng đất 72 tầm và một miếng nữa 40 tầm, là phần gia tài của thị Đài là gái ở vậy và chết không có cháu con, miễn xin cầu  nguyện cho 10 linh hồn thì đủ!

Ký tên}Trùm Tường. Danh Luận. Thị Mỷ. Thị Nhi.

Chứng Làng}        Xã đương niên: Huyên.

                             Xã cựu : Tư.

Từ thứ hai thì rằng: “Chúng tôi đồng ký tên dưng cho Thánh Đường: một miếng Giồng 50 tầm (chỗ nhà thờ bây giờ) và một miếng Giồng nữa 4 công (chỗ đất thánh bây giờ) cùng của thị Đài nói tên trong tờ trước. Xin cha coi sóc họ mỗi năm làm hai lễ Misa trong 10 năm thì đủ số.”

 Ký tên}Trùm Tường. Danh Luận. Thị Mỷ. Thị Nhi.

Chứng Làng}        Xã đương niên: Huyên.

                             Xã cựu : Tư.

Đề ngày mồng 7 tháng 2 Annam, năm 1832. Minh mạng Thập tam niên.

Tờ thứ ba truyền lại rằng: “Chúng tôi đồng ký tên dưng cho Thánh Đường 10 mẫu đất ruộng của thị Loan là bà chúng tôi đã chết, đặng lấy huê lợi làm việc phước đức.”

Ký tên}Toán .Thi. Nên. Hiệp. Danh. Cơ

Chứng Làng}        Xã đương niên: Huyên.

                             Xã cựu : Tư.

Đề ngày 13 tháng 10 Annam, Minh Mạng thập tam niên,

Lo việc thờ phượng Chúa vừa yên trong họ, kế có chiếu chỉ đầu hết cơn bắt đạo cả thể, nhằm mồng 6 Janvier 1833, rồi có lính Huyện Vũng liêm sai đến triệt hạ Thánh đường Bãi xan. Đang lúc phá nhà thờ, có một tên lính tình cờ bị vít thì nó cứ chưởi miết mà nói rằng: “Datô có phép linh thật, nên việc nầy chẳng dễ gì đâu”. Đến khi lính phá xong đi mất thì bổn đạo lật đật chôn cột nhà thờ dưới ao một bên đó, có ý để sau cất nhà thờ lại, song khỏi 30 năm cơn bắt đạo, lúc cha Hiển vào đến Bãi xan, thì bỗn đạo dở cột đem lên, mà cây mục hết trơn chẳng dùng được việc gì nữa.

Còn cố Du (R. P. Marchand) có đi đến viếng họ Bãi xan trong năm 1830 và có ở ít ngày với cha Điền. Đến năm 1834, cha nầy trốn cơn bắt đạo và ở Cái nhum chẳng yên mấy thì đến trốn ẩn tại Bãi xan, rồi lần lần đi xuống Giồng rùm, Thâu râu, Rạch rập.

Một ngày nọ, đang lúc lính tìm bắt cố Du thì chúng nó gặp cha Điền. Mà bỡi chẳng kiếm được miếng ngon hơn thì miếng thường nó cũng ních. Nó liền trói quách cha lại mà hỏi cho biết cố Du trốn đâu thì cha Điền đáp lại câu nầy: “Các người kiếm ông cha, mà cha đó là tôi đây.” Người có ý nói vậy cho quan cai hết lo tìm cố Du thì cố có giờ mà trốn cho kín. Quan thấy cha Điền nói trớ trinh vậy thì giận mà rằng: “Mà chẳng phải là ta kiếm chú, ta một kiếm thầy đạo Tây mà thôi.” Cha Điền nghe vậy chẳng có rối trí, tức thì cãi lại mà quả quyết mình cũng là thầy đạo người tây thật.

Bỡi vậy, phải mà bổn đạo chẳng có lật đật chung nhau góp tiền khá mà lo cho quan thả cha Điền, thì cha cũng chẳng yên đặng lúc ấy. Còn cha Phêrô Phanxicô Xavie Thán, trước đã bị đày tại Long-xuyên, đến lúc xử trảm Á thánh Lái Gẫm ở hiện diện đó, cũng có tới ở Bãi xan với cha Điền một ít lâu, vì có lãnh đến cầm đầu rửa tội cho ông Hương sư Tám sanh năm 1834.

Vốn cha Điền trước khi đến Bãi xan thì người làm việc trong họ Đất đỏ, ngày nọ người qua Lái thiêu viếng Đức cha ở đó thì người gặp hai người học Latinh, mà thầy Hạp một mình ở tại Búng giúp cha Giáo, Đức cha (Monseigneur Taberd) muốn thử hai người coi tánh ý thế nào, thì giao cả hai cho cha Điền và khiến đem thẳng về Bãi xan. Lúc ấy thầy Hạp đã đặng 30 tuổi và đã chịu bốn chức nhỏ rồi, còn người kia tên Châu, 20 tuổi, quê ở Đất đỏ và chưa có chịu chức nào..

Khi cả hai vào đến Bãi xan thì thầy Hạp làm thầy dạy con nít, còn chú Châu lo việc làm từ, kêu là Từ Chua. Song le hai người Latinh nầy, hoặc bỡi chẳng ưa làm thầy cả, hoặc bỡi bị cơn khốn khó mà phát sợ, nên chẳng có bền. Cả hai bèn cưới vợ ở Bãi xan và lập nên gia thất đông đắn. Từ Chua có một con gái đi tu nhà phước Cái mơng. Mà hai người Latinh nầy hằng ngày ở trung tín với cha Điền lắm và lo lắng mọi việc cho cha cho đến khi người qua đời, năm 1840.

Vậy cha Điền đã ở Bãi xan gần mười lăm năm trọn, đến cơn bắt đạo phá rối, cha ở trong nhà chẳng yên, cha liền vào nhà các chức lớn mà trốn ẩn, là nhà Hương Nhu và ông Trùm Tường con ông cả Đẩu.

Còn ông Trùm Tự, khi đã già cả và yếu đuối mệt nhọc thì về ẩn dật tại Cái mơng với mấy con gái người gả trển.

Đến lúc Ngụy Khôi thất trận và ngoài trào nghi cho bổn đạo theo phe nó, thì số bổn đạo phải bỏ Bải xan cũng nhiều mà lo liệu lánh ẩn: kẻ thì đến ở họ khác, người thì rải rát chung ở với kẻ ngoại.

Lúc ấy cha thầy làm lễ trong nhà riêng bổn đạo, ngoài đàng thì có kẻ canh gác ra vào các nẻo, mà hễ trong nhà nghe ra dấu chi nghi hoặc, thì lật đật góp đồ thờ vô trong rương đem chôn liền xuống đất. Khi cha Điền đã cao niên lớn tuổi và bị bịnh suyễn không thuyên, thì đã qua đời tại Bãi xan, bổn đạo táng xác người nơi đất thánh họ.

Lối năm 1887, cha sở Báu (R. P. Leprince) muốn lấy cốt cha Điền đem trong nhà thờ, thì đã hỏi mấy ông già cả cho biết chổ mồ mả người ở đâu, thì có ông Tham Trị tuổi đã quá tám mươi chỉ chỗ đã táng người. Song khi đào lên thì xác cha chẳng còn chút gì sót lại, gặp được có một Ảnh chuộc tội người ta nói là của cha Điền, nên mới biết đào thiệt trúng chỗ đã táng xác cha.

Vậy đã góp hết đất đồ chổ mả ấy, rồi lấy một cái hòm nhỏ bỏ vô làm một cùng hài cốt cố chính Hòa (R P. Borelle) và của cha Hiển mà đem chôn trong nhà thờ, thuở ấy ở gần mé sông cái.

2. Cha Gioang Thiềng.

Từ năm 1840 tới năm 1846. Trước khi cha nầy lãnh coi sóc họ Bãi xan thì người ở Cái nhum lo coi một nhà in nhỏ. Tại Bãi xan, cha thường ngày ở ẩn trong nhà ông Trùm Tường đương niên làm Hương cả trong làng. Khi có ai đến rước cha đi làm phước kẻ liệt, thì người hay mặc áo dân làm mướn mà đi, trên vai thì vác cái cần câu, rồi đến bàu vùng nào cũng ghé, cho kẻ qua lại thấy tưởng là người đi câu. Lúc nào rảnh việc thì cha làm lặt vặt ngoài vườn. Người ta còn nhớ cha Thiềng mỗi tuần làm lễ có ngày Chúa nhựt mà thôi, vì người có ý phạt mình đã ở rộng rãi quá mà giải tội cho một người cho vay ăn lời tỏ tường trong họ.

Đang lúc cha nầy lo giúp Bãi xan, thì có tên Thiềng, Bích, Hào và Đương, là con cháu ông Khả, đã dưng cho Thánh Đường một sở ruộng 12 mẫu, là phần gia tài Trần thị Hội chết không con. Đến sau, lúc Langsa qua lấy Nam kỳ, thì các quan Annam bắt cha nầy và lên án tử tại Mỹtho, song bỡi cha già cả, 88 tuổi, nên các quan đổi án tử mà xử đày chung thân tại Bà rịa, ở đó cha phải mang gông cực khổ và đã chết năm 1861.

3. Cha Lôrensô Lân.

Cha nầy ở Mặc bắc mà đến Bãi xan lúc ban đầu đời vua Tự Đức, thấy có chiếu chỉ Đức vua mới tha đạo, thì người tưởng làm sao cũng đặng đem kẻ ngã lòng cùng người có đạo ở giữa kẻ ngoại về cùng Hội thánh. Vậy khi đã giải tội lỗi kẻ ấy rồi, thì tập họ năng tới lui chịu các phép Bí tích. Song rất nên vô phước; vì cách ít tháng sau khởi cơn bắt đạo lại cách dữ dằn hơn ban đầu mới khởi sự.

Mà cho đặng giúp đỡ người thì có thầy Hiển đã chịu chức thánh rồi và ông trùm Tường là ông nội cha Cường cũng là cháu cha Phaolồ nữa. Ông Trùm Tường chẳng những nuôi chứa cha Lân mà lại làm việc bổn phận ông Trùm sốt sắng lắm: Hễ tối lại thì người đi thăm mỗi nhà coi có đọc kinh chung với nhau chăng, mà thường phải đọc kinh thầm nhỏ tiếng vì sợ kẻ ngoại hay ắt là sanh chuyện! Sự ông nầy cần chuyên lo hơn, là ngăn trở kẻ ngoại chẳng cho lại họ Bãi xan, kẻo sanh chia lòng trí bổn đạo mà chẳng còn đặng bằng an trọn hảo.

Chính mình ông Trùm đã dưng cúng đất ruộng cho nhà thờ và hễ có dịp thì người khuyên mời trong bổn đạo phải có người ở cho đại độ mà giúp việc thờ phượng Chúa nữa. Bỡi đó trong năm 1847, Thiệu Trị thất niên, ngày mồng 2 tháng năm Annam, có tên: Trường, Thắng, Hiếu, Quí và Bổn là con ông Của đã làm tờ dưng 3 mẫu ruộng cho Thánh đường làm của.

Sau hết, đến giờ Chúa định thì ông Trùm Tường đã chết trong năm 1854.

4. Cha Á thánh Philipphê Minh năm 1850.

Vốn Đức cha Đôminicô (Monseigneur Lefèbvre) phải ép mình trốn ẩn trong mấy tĩnh trên, thì để cho cố chính Hòa (R.P. Borelle) coi sóc các cha trong mấy tính dưới. Người ở tại Cái nhum mà lo tập tành con trẻ đặng gởi về trường Latinh ở Pinăng. Còn cha Minh thì lãnh lịnh đi ban phép Thêm sức các nơi. Người tới Bãi xan thì trốn ẩn trong nhà ông câu Tị và nhà ông thầy Thanh ở Rẫy trên, Cha nầy ở Bãi xan giúp họ 1ối chừng đặng 3 năm mà thôi. Hồi đó có ông cả Huyên coi sóc thì bổn đạo cất một nhà thờ nhỏ lợp lá, ở gần nhà bà Xuyên: bỡi bà nầy muốn cho thiên hạ đừng biết nhà đó là nhà thờ thì bà để tằm ở đó, song chỗ nhà nầy là nơi cha Minh thường làm lễ Misa. Có cha Bình là học trò cha Minh còn nhớ thường có giúp lễ cho cha tại đó. Họ thuật lại, nói cha Minh hễ lúc nào có giờ rảnh thì người hay đi đánh chim cu đặng nghỉ chơi cho khuây lãng. Khi Bề trên sai cha Minh xuống Mặc bắc mà thế cho cha Lựu và bị quan bắt tại nhà ông Trùm, thì 12 người nhà phước Annam nhờ trời tối mà trốn đặng, thì hết thảy chạy về Bãi xan. Ban đầu họ ẩn mình trong nhà ông Nhu, rồi sau qua nhà ông Huê, ở một ít năm. Trong các người nhà phước ấy thì có người con gái của cả Huyên tên là Bà Hạt.

5. Cha Phêrô Tuyết. Năm 1854.

Đang lúc nầy là thì khốn khó tới một ngày một thêm. Bỡi cha Minh bị bắt, tại nhà ông Trùm Lựu thì làm cho quới chức các họ phải run sợ cho mình.

Ai ai cũng biết rằng: Hễ mình lo giấu ẩn các cha thì là liều mình chết, nhứt thiết là các chức lớn thì họ xem xét hơn mấy người khác. Bỡi đó các cha phải đổi nhà luôn luôn. Ban đầu cha Tuyết trốn tại nhà ông chủ Cư, sau qua ở nhà ông Lại-đồng-Văn. Ở đó cha lo dọn con nít rước lễ Bao đồng và cho bổn dạo chịu các phép Bí tích. Trong năm 1854, có bà Tô-thị-Thọ làm từ dưng cho Thánh Đường một số ruộng hơn 20 mẫu, là phần của em bà là ông Cai thôn Lý chết chẳng có cháu con, còn bà vợ là Nguyễn thị Sữ có chồng khác. Qua năm 1855, các bà con bà Mỷ là bà ngoại cha Quờn còn dưng cho Thánh Đường 5 mẫu ruộng nữa và một chỗ đất Giồng làm đất thánh họ Bãi xan nên lớn rộng..

Qua tháng Juillet năm 1860, nhằm hồi bắt đạo đáng sợ hãi hơn hết, đang lúc cố chính Hòa cấm phòng cho các cha Annam là: cha Tuyết, cha Nhơn và cha Hiển trong nhà ông Mùa, bà Keo, thình lình cố chính xán bịnh nặng, thầy thuốc Annam kêu rằng: Bịnh trái. Xán bịnh cách ít ngày, cố Hòa đã chịu các phép Bí tích sau hết và đã chết tại nhà nầy. Vậy cho đặng khỏi kẻ ngoại thấy thì ban đêm lén sai họ đi mua hòm, song bỡi chẳng toan tính trước, nên mua cái hòm vắn quá chẳng vừa. Bỡi vậy thầy Thoại phải lựa trong nhà một bộ ván tốt bằng gõ đặng đóng hòm mà táng xác cố Borelle. Chôn xác cũng chôn ban đêm trong vườn hai ông bà ấy, lại muốn cho khỏi tay dân tọc mạch, thì hai ông bà trồng trên mả một đám rau răm và một lảnh gừng cho khuất.

Cách hai mươi lăm năm sau, cha sở Báu (R. P. Leprince) lấy hài cốt cố chính Hòa mà đem về trong nhà thờ gần mé sông cái. Bằng về cây gậy vàng trong mấy món đồ của cố Borelle, thì chắc ban đêm ăn trộm đã lén lấy mất chẳng còn.

(…)

1. Họ Long hòa.

Làng Long hòa nầy ở gần mé rạch Láng thé có một ít nhà có đạo về rải rác ở đây. Thấy vậy, cha mua một miếng đất, rồi cất một nhà thờ lá, song bị chúng oán mà đốt đi, đoạn cha nầy lập lại. Sau nhờ có biện Thinh chí tình giúp đỡ, thì cha đã gom đặng một ít nhà có đạo và có ít nhà ngoại trở lại ở họ nhỏ nầy, trong mấy nhà ấy có nhà Văn công Nhưng cũng xin trở lại, cho nên chẳng khỏi hai năm thì cha Lại rửa tội đặng hai chục chầu nhưng trong họ.

2. Họ Long thuận

Làng nầy cũng là một làng nằm trong ngọn nhánh rạch Láng thé. Trong các gia thất mới trở lại đạo ở đó, thì có gia thất ông Tham Sung là đáng hơn hết. Ông nầy đã bán một miếng đất ruộng hơn 30 mẫu đặng lập họ, Cha Nghi (R. P. Martin) ra tiền mua chỗ đất đó, rồi dưng lại làm của nuôi học trò trường Latinh.

3. Họ Đức mỷ

Ở phía tây làng nầy có miếng đất rộng chưa khai phá, thiên hạ giành nhau mà khẩn cho đặng nhờ ngày sau. Cha Lân thấy bổn đạo thiếu đất mần, nên đốc Biện Tây xin khấn đất ấy. Mà rủi thay! Biện Tây bị kẻ ngoại ganh gỗ kiện thưa, lại thêm thất nữa không có huê lợi. Mấy người chầu nhưng mới, nó vay lúa ăn mần rồi chẳng trả đặng cho Biện Tây một hột, nên ông Biện phải buông đất nầy đi. Dẫu vậy cái nhà thờ đã cất cho bổn đạo mới cũng còn lại tại chỗ, và dầu họ đã đi bớt, song cũng còn một ít chầu nhưng đủ mà làm cho họ Đức mỷ còn bền lại.

4. Họ Đức Hòa.

Làng nầy là làng ngoại ở trong rạch Cái hóp cũng ở miệt phía Nam chợ Vũng liêm.

Nguyên có một người ngoại tên Thiết nghe tiếng cha sở Lân và bỡi quyết xin cha giúp mình đặng chống kình cùng một người ngoại khác, nên đến xin cha binh vực nó, cha nghe ngó thì biểu nó phải tính cùng một ít gia quyến mà theo đạo thì cha bảo bọc binh vực cho, mà thật quả đã có y như vậy. Ngày nay họ Đức hòa thật là sung lắm, phần xác bổn đạo làm đủ ăn, phần hồn cũng lo sốt sắng hơn mấy họ nhỏ khác trong sở Bãi xan.

5. Họ Càng-long.

Chỗ nầy là một miếng giồng rộng minh mông cùng đông nhơn số lắm.

Lúc ấy cha Lân cũng làm hết sức và có xin Thầy Quận đến giúp người, song dẫu có lòng tốt bao nhiêu, cũng chẳng làm cho đạo thánh châm gốc rễ nơi Càng long đặng. Dầu vậy, cha Lân bỡi muốn làm cho Càng long được ít chủ theo đạo, thì cũng lấy bạc của cha Nghi (R. P. Martin) mà mua đặng 62 mẫu ruộng, sau cũng để cho trường Latinh.

Thật cha Lân tính phương thế rất trúng là biểu người ta mua ruộng hoặc chính mình cha cũng mua mà cho bổn đạo mới ở, vì chúng nó đã nghèo, lại bị kẻ ngoại gièm chê ganh gỗ, bỡi vậy, nếu cha chẳng giúp đỡ, thì nó biết nhờ ai mà làm ăn cùng giữ đạo cho đặng..

Trong mấy thầy trường Latinh cha Lân xin đến dạy các họ nhỏ Bãi xan lúc mới lập thì kể tên được: Thầy Đặng, thầy Ngọc, thầy My, thầy Đa, thầy Hào, thầy Xứ, thầy Cơ và thầy Qui.

Mà việc thứ nhứt cha Lân quyết lo, là việc cai trị họ Bãi xan. Khi cha về họ một ít năm, thì dân rượu chè, cờ bạc; dân kiện thưa, trộm cướp cũng đều phải sửa mình bằng không thì phải cất gánh đi chỗ khác.

Làm cho được việc thật là sự khó nhọc lắm, song bỡi cha Lân biết khôn ngoan chế độ thì đã sửa Bãi xan bình an vẹn toàn.

Bằng về việc sửa sang nhà cữa thì có nhiều điều đáng cha lo: Trước hết, nhà thờ đã nhỏ quá và cũng là gần hư. Nhà cha sở thì ở không đặng nữa, vì cận mé sông cái, một mai phải lở xuống sông. .

Bỡi vậy cha tính phải dời sang nơi khác mà kẻ tính được, người tính không. Sau hết cha lấy trí khôn ngoan mà nhứt định bỏ mé sông lớn mà dời nhà thờ về trong giồng, nơi đất chi ông Cả Tường dưng là chỗ: trước cơn bắt đạo, đã cất cái nhà thờ đầu hết, năm 1830.

Vậy người lấy trí biện luận mà kiếm số tiền cần dùng, đặng cất một nhà thờ lớn chừng 10 ngàn đồng. Cha tiện tặn thâu góp cùng tìm mọi cách thế cho có số tiền, đến đỗi chưa đầy ba năm mà lập nhà thờ đã xong xuôi hết. Đến năm 1896, có Đức cha Để (Mgr. Dépierre) đến làm phép nhà thờ mới nầy, chọn lấy Bổn Mạng là: “ Thánh Thất Hội”,— Cha Lân dùng cây thau lau mà làm gần hết cái nhà thờ, lúc ấy chẳng ai ngờ là thứ cây tốt, mà thật là cây quí, vì mối chẳng ăn thau lau, nên nhà thờ bền lâu đặng.

Đến năm 1899, cha mua ba cái chuông treo lên trên tháp nhà thờ, làm cho rỡ ràng trong họ thêm nữa.

Làm nhà thờ xong xả, cha liền lo cất nhà cha. Người lấy cây đồ nhà thờ cũ bỏ ra, mà đã làm đặng một cái nhà lớn khoản khoát, tốn hết 3 ngàn đồng.

Cha cũng dùng cây vựa lúa cũ mà làm một cái nhà cho các dì phước Cái mơng ở, đặng cứ dạy nhi nữ trong họ như đã làm nhiều năm trước.

Còn việc Hài đồng lúc ấy cũng phấn chấn, vì có một năm họ bị trái giống dữ dằn. Nhiều đứa con nít kẻ ngoại nên trái giống thì họ bỏ, cha liền cho người ta lo đem về thuốc men cứu nó, rồi phú cho các nhà có đạo nuôi. Về việc bờ cõi trong họ thì có Nhà nước cho cha công xâu, nên cha đắp bờ bao từ phía ruộng, trước là cho thuận tiện mùa màng, sau cho bổn đạo dễ di đọc kinh xem lễ cùng cho con trẻ đi học, lại cho các cha đi kẻ liệt khỏi lội bùn trơn trợt lấm láp như bấy lâu nay.

Đây nhắc riêng về ông trùm Phạm cử Não, dẫu ông chưa lớn tuổi, mà làm chức Hương cả trong làng và làm Trùm nhứt trong họ.

Vã, nếu cha Lân đã đặng sửa sang cách ăn thói ở và nhà cữa, bờ cõi trong họ Bãi xan đàng hoàn như vậy, thì nói đặng: Ông Trùm Não đã có thông phần phân nửa việc của cha. Hẳn thật cha thì biểu bày, sắp đặt, chỉ về, còn sự tẻ mẽ thi hành cho thành công việc thì thiệt là phần ông Trùm lo. Cha Lân có để một lời rất quí về ông trùm Não mà rằng: “Ông trùm là người bằng an”. Mà thật rõ ràng ông trùm có vậy: hễ khi nào ông thấy có hai người bất thuận nhau, thì ban đêm ông lén đến riêng với hai người mà khuyên giải hòa yêu nhau lại. Hoặc cha sở có quở trách ai thì ông trùm lại riêng với người ấy mà cắt nghĩa cho nó hiểu, đặng nó bằng lòng vưng phục đấng bề trên.

Trong 10 năm cha Lân coi họ Bãi xan, thì cha có cho con trẻ đi trường Latinh nhiều, còn nhi nữ cha cho đi nhà phước cùng chẳng thiếu chi, nhứt là đi tu nhà phước trắng.

Cha Lân đang lo lắng làm việc trong họ, tình cờ người xán bịnh làm cho người cực chẳng đã phải trở về Tây mà cầu thầy uống thuốc, nhằm tháng Novembre, năm 1901.

13. Cha Ba (R. P. Bar) năm 1901.

Cha Lân thọ bịnh thì cha Ba đến ở Bãi xan. Cha nầy thấy cha Lân đang lo mần mấy cái nhà cần dùng mà chưa xong chưa đủ thì người làm cho rồi. Vậy cha Ba lo cất hai nhà trường tốt, một cái dạy trò nam, cái kia đã làm trường nữ. Người lo cho con nít giữ phận năng tới trường và sửa đương cách thầy giáo dạy học, nhứt là trong hai năm, lúc cha Trang (R. P. Tranier) làm cha phó Bãi xan, thì trong Địa phận có hai trường Bãi xan đây trổi hơn mấy trường khác. Bằng việc sắp đặt về phần thiêng liêng thì cha cần chuyên cho bổn đạo nên sốt sắng, nhứt là việc rước lễ ngày thứ sáu đầu tháng thì họ Bãi xan giữ hẳn hòi.

Cha sốt sắng xem coi cùng mở mang các họ nhỏ trong sở, nhứt là họ Đức hòa và Đức mỷ có bổn đạo sung, đến đỗi cha xin đặng Đức cha cho cha Thông ở luôn tại Đức mỷ.

Lúc ấy cha quyết chí lập một họ mới tại Phú phong, trong đất Thị Hoén dưng cho nhà thờ, song tình cờ cha phát bịnh nặng, làm cha phải bằng lòng ép mình về Tây, theo lý đoán quan thầy buộc cha như vậy. Thật ai hiểu cho thấu cha chịu khó thế nào mà ngăn ngừa việc cờ bạc trong họ: Hễ cha nghe chỗ nào có đám cờ bạc thì cha âu lo áy náy, ngày đêm chẳng nghỉ, một làm thế nào cho tan đám ấy mới thôi.

Việc bổn đạo mần ăn, cha tận tình lo lắng lắm: Kẻ nào chẳng có ruộng mần thì cha cho mần đất nhà chung mà cũng còn nhiều người thiếu đất. Bỡi vậy, cha đã lo giúp nhiều gia thất mua ruộng của kẻ ngoại mấy làng lân cận bán.

Mà dầu cha lo lắng thế nào cũng còn thiếu đất, vì bổn đạo ở chật cả họ,

Bỡi đó, có nhiều gia thất phải dời sang nơi khác, trong các họ địa phận Nam vang là: Bãi giá, Trà lồng, Trà cú, Rừng cấm mà kiếm thế mần ăn.

Đến năm 1907, khi ông Trùm Não qua đời rồi, thì cha Ba đặt ông Trùm Gioang là em ruột cho Cường lên làm Trùm nhứt trong họ.

(Chung)

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1927

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét