KỂ LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ
ĐỊA
PHẬN NAM KỲ
--------------------
TÍCH
HỌ TÂN TRIỀU
Về
sở Biên Hòa
--------------------
Họ Tân Triều đã có từ đời Đức Cha cả Vêrô, người ta nói Đức thầy và vua
Gia Long có ở đó, và vua có lập đền, nên kêu là Tân Triều, nghe nói Đức cha có
lập trường Latinh ở đó nữa, sau đem qua Lái Thiêu; thuở ấy có một quan lớn Danh
Trung có đạo cai xứ ấy, một hai khi về Tân Trều cho đá táng, mấy cha khi ấy làm
nhà lầu.
Cha nào cai thuở xưa
không rõ, mà giữa đời ấy bổn đạo sung đông lắm; người ta trồng trầu mà ít ham
đi buôn bán, đi biển hồ; đời ấy người ta mạnh mẽ, ít đau ít rét, ăn ở kiển vật
cách sang theo phép annam; quan quyền năng tới lui hỉ lạc vui vẻ.
Sau khi Đức thầy Vêrô và
vua Gia Long chết, thì vua Minh Mạng bắt đạo, nên bổn đạo Tân Triều trốn đi ẩn
ánh nơi khác cho đặng giữ đạo; vua Minh Mạng chết, thì vua Thiệu Trị không lo bắt
đạo, để ai muốn giữ nào mặc ý; vua Thiệu Trị qua đời, thì vua Tự Đức lên và bắt
đạo dữ tợn, chẳng những là ngoài Huế mà lại trong Đồng Nai (Saigon), cùng can tầm
đạo trường mà giết, nên bổn đạo ẩn ánh mà giữ đạo.
Từ tây vô 1858 tại Sơn
Chà, thì quan cựu trào bắt đờn ông có đạo chia cho các làng; kế năm sau bắt nhốt
lại một tù, cũng có chém 5, 6 người đạo, rồi dời tù lên Dốc Sỏi; đoạn tây lấy Saigon
và lên gần Biên Hòa thì quan cựu dạy đốt tù ấy, có ít kẻ thoát được, còn bao
nhiêu phải chết thiêu, chừng tây lấy Biên Hòa rồi, thì bổn đạo chạy tới Biên
Hòa và Saigon, cũng còn ít nhà ở lại Tân Triều. Qua năm 1860, cho tới 1863, cha
Ba (P. Barou) là cha sở Chợ Quán lên thăm viếng họ Tân Triều, Biên Hòa; chừng
năm 1863 cha Hạnh (P. Besombes) (Bình Định) vô ở Tân Triều đánh cùng quân ngụy nhiều lần, bổn đạo thế làm lính, cũng làm cai đội đánh đuổi quân ấy cho tới
trên rừng, khi yên ngụy rồi, cha khởi làm nhà thờ, làm lớn lắm phủ hết cái nền
bây giờ đó, xây nửa chừng, Đức cha kêu về Bình Định, sau cha Vọng lên ở đó gần
một năm, kế cha Creuse mới qua ở một năm rồi chết, kế cha Bernard (Huế) ở chừng
một năm rồi về Huế. Tới cha Vĩnh (P. Le Vincent), làm tiếp nhà thờ cha Hạnh đã
xây và làm nhà từng; cha ở hai năm, chừng cha đổi đi thì cha Định (P. Delpech)
tới ở một năm đổi; tới cha Nhơn (P. Duquesnay), cha nầy phá nhà thờ cũ làm vô
nhỏ hơn như bây giờ, cha coi họ đặng ba năm đoạn đổi; kế cha An (P. Briand) ở một
năm bị té ngựa đau chết. Đoạn cha Hòa (P. Greset) tới ở một năm bị rét nên đổi.
Kế năm 1874 cha Dư đến đó ở đặng 17 năm, từ xưa thì không rõ, mà từ tân trào mới
qua tới năm 1885, phần thì còn chộn rộn quân ngụy, phần thì các cha ở một năm
hai năm, bị đất độc đau chết hay là đau thì đổi đi, phần thì các cha bên tây mới
qua, chưa thuộc tiếng annam cho mấy khi biết vừa đủ lại đau chết hay là đổi,
cho nên bổn đạo còn dốt nát. Việc đạo, việc thờ phượng Chúa còn tối tăm, chưa
có sự gì sốt sắng vui vẻ, thì cha Dư tới đó mới phá rừng và lập vườn trồng cây.
Cha Dư khởi sự lập trường nam nữ, đồng nhi lớn thì dạy trẻ nhỏ, tập đọc sách, tập
viết, tập hát tiếng latinh và tập đờn, trong nhà thờ trau giồi cũng tốt vừa vừa,
hằng năm cha Dư bày kiệu ảnh Đ C Bà. Tháng Đ C Bà, tháng Trái Tim Đ C G, tháng ông
thánh Giude, tháng Môi Khôi, làm cách trọng là từ năm đó. Đồng nhi cùng bổn đạo
biết chữ nghĩa, biết đọc sách phần, vui mừng sốt sắng; họ Tân Triều khi ấy tử tế
ít kẻ rối vợ chồng, ít trễ nải, không có cờ bạc say sưa hoang đàng; bổn đạo
Biên Hòa hay lên Tân Triều mà xem lễ vì có dọn trọng thể bề ngoài hơn, bổn đạo
hay xem lễ ngày thường và năng xưng tội rước lễ, nhứt là mấy ngày lễ Đ C Bà
Maria.
Qua năm 1882 cha Dư sắp đặt
việc họ rồi, thì người tập ít ông chức cách giảng đạo, người sai đi giảng cho kẻ
ngoại chỗ nầy nơi kia, nên lập đặng ba họ mới, là: Tân Uyên, Dỗ Sa và Lạc An. Họ
Tân Uyên số là có một người đạo mới họ Chợ Đũi về xứ mình là làng Tân Uyên, hai
vợ chồng và ba đứa con trốn không giữ đạo, mà không bỏ đạo, đã lâu cha Dư đi kiếm
3 lần mà trốn trong nhà, biểu con nói đi khỏi, sau thình lình cha gặp người ấy
đi việc quan dưới Biên Hòa. Cha Dư hỏi, an ủi thì hết sợ hết trốn; vậy cha Dư tới
nhà an ủi cùng giúp đỡ thôi thúc trở lại, đặng lập một họ cho vui, cha Dư sai một
ông chức tên là Câu Cư ở Tân Triều đi giảng dạy đó, người ấy nói giỏi người ta ưa
nghe và muốn vào đạo, rồi cha Dư xin thầy Cậy (sau là cha Cậy) tới dạy dỗ, cũng
còn thêm số chầu nhưng nữa, khỏi mấy tháng cha Thi (P. Thiriet) và cha Liễu (P.
Lallement) đến giúp rửa tội lần thứ nhứt có chừng 70 người, sau thêm lần cũng
có hơn 100.
Sau Đức cha Mỹ (Mgr.
Colombert) có thưởng ông Câu Cư một tượng ảnh Trái Tim Đ C G; từ ấy cha Dư mua
đất làm nhà thờ ngói gạch nhỏ tốt trước mặt kẻ ngoại, cho nó vui mà vào đạo, Đức
cha Mỹ có đến làm phép nhà thờ và xức trán họ ấy, Đức cha thấy bổn đạo mới mà dọn
lòng giữ đạo sốt sắng và thuộc biết như đạo dòng vậy thì vui mừng.
Cha Dư có lập nhà mồ côi
kiếm một bà già ở lo nuôi con nít, có chết các chức lo chôn và đã đặng nhiều
con nít mồ côi; sau đó cha Dư lập họ Châu Sa. Vốn có ba chủ có đạo dòng, cha giảng
thêm 5 hay là 6 nhà nữa; cha cất nhà thờ nhỏ, bổn đạo chừng 36 người; cũng một
năm ấy cất nhà thờ lá tại họ Lạc An; số là khi ấy vốn chỗ đó có một người đàn ông
chừng 50 tuổi tên là Nho đạo dòng, hiền lành ít oi, trốn giặc chạy lạc qua đó
có vợ và một đứa con, sau vợ chết, rồi lấy vợ ngoại ở luôn đó làm ăn, năm 1871
cha Dư ở Tân Định lên thế Tân Triều một tháng. Cha nghe truyện ông ấy muốn trở
lại cùng vợ con nữa và học kinh, cha lên ở đó dạy vợ người ấy, rồi rửa tội gỡ rối
rồi về Tân Định. Sau năm 1874 cha Dư về Tân Triều, người nhớ mấy chỗ ấy lên xuống
một hai khi giảng dụ thêm chừng 15 người, vậy năm nầy cha mới cất nhà thờ đó,
có thầy Đức (sau là cha Tadêu Đức) ở đó dạy và giảng thêm; bây giờ cũng hãy còn
chừng 40 hay là 50 người, mà nhà thờ hư hết; nhà thờ Châu Sa thì cha Sao dỡ, bổn
đạo còn một người; còn nhà thờ Tân Uyên giao lại cho Bến Sắn, cha Oai (P.
Poinat) cất lại bằng ngói gạch. Cha Dư ở đặng 17 năm đổi đi là năm 1890, cha
Châu (P. Legoff) thế chừng một năm đau chết, cha nầy mắc đau để bổn đạo như thường;
kế cha Thể thế cũng sửa ít đều, đặng sáu năm chết; kế năm 1903 cha Sao thế cha
nầy, ở năm năm hay đau rét rồi chết; kế cha Trang (P.Tranier) ở sáu tháng chết,
cha nầy sửa nhà lầu lại ra cao tốt, sốt sắng xem xét việc bài bạc.
Cha Nhơn coi họ Tân Triều
từ tháng Août 1910 cho đến bây giờ.
Còn mấy họ nhỏ nát hết,
còn có họ Lạc An còn khá.
Còn các thầy cả bổn quán
Tân Triều thì nghe nói: Cha Biểu đi nhà trường là tại cha Bề trên Thi (P.
Thiriet) thế Tân Triều rồi cha cho đi nhà trường. – Cha Đức Tadêu thì cha An
(P. Briand) cho đi nhà trường - Cha Duông thì cha Dư cho đi và cũng cho 4 hay
là 5 người nữ đi nhà phước mà chết hết.
(Chung
về họ Tân Triều)
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1919
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét