Cuộc Hải Hành của Cha Francisco de Pina đến Đàng Trong (1608)
WHĐ (21.8.2020) – Khoảng hơn hai năm về
trước, trong buổi tường trình trong Câu Lạc Bộ Văn Học (CLBVH) ở
thành phố Oklahoma City, tôi đã trình bày một bài thuyết trình về sự
thành hình của chữ Quốc Ngữ (QN). Sau khi trình bày xong, tôi chợt
nhận thấy rằng sự hiểu biết của tôi về các vị thừa sai đang hoạt
động ở Đàng Trong[1] còn
rất nhiều thiếu sót. Cho đến bây giờ, tôi đã hiểu biết rằng lúc ban
đầu, các nhà truyền giáo muốn phát triển chữ QN không phải để cho
quần chúng người Việt mà là cho chính mình vì học và viết tiếng Nôm
quá khó khăn. Vì thế, đó mới chính là động cơ thúc đẩy họ
đã chế tạo ra chữ QN, nhưng tôi vẫn thắc mắc không rõ ràng cho
lắm cách thức mà họ đã thực hiện. Hiện giờ tôi chỉ biết bốn vị
tiền phong trong công cuộc tìm hiểu chữ Quốc Ngữ. Đó là Cha Francisco de
Pina (1586-1625); sau đó là Cha Gaspar d’Amaral (1594-1646)[2],
Cha Antonio Barbosa (1594-1647)[3] và
cuối cùng là Cha Alexandre de Rhodes (1593-1660).[4] Kể
từ năm 1617 cho đến năm 1636, họ đã lần lượt vào Đàng Trong, ra Đàng
Ngoài để giảng đạo. Bắt đầu là Cha Pina, vị giáo sĩ đầu tiên có
thể tự học, nói chuyện một cách lưu loát tiếng Việt và cũng là
thầy dạy chữ tiền Quốc Ngữ cho Cha Rhodes. Tôi cũng biết rằng ngoài
tiếng mẹ đẻ, các tu sĩ Dòng Chúa Giêsu[5] rất
am tường tiếng La Tinh và biết ít nhiều về tiếng Hy Lạp và tiếng Do
Thái. Theo suy nghĩ của tôi, sự hiểu biết về những thứ tiếng này,
nhất là tiếng Hy Lạp và La Tinh là nòng cốt trong việc phiên mã
(transcription) từ âm điệu tiếng Việt ra chữ Quốc Ngữ mà họ
đã theo đuổi và cuối cùng đã thành công vào năm 1651. Nhưng chỉ biết
vài ngôn ngữ đó cũng chưa đủ để họ tiến hành vì họ sẽ cần nhiều
hơn thế nữa, nhất là khi lịch sử chữ Quốc Ngữ đã cho chúng
ta biết rằng chỉ trong một thời gian rất ngắn từ năm 1618 cho đến
1623, nhà ngôn ngữ học tiên phong Cha Pina đã tìm ra căn bản của thanh
vị (tone) của tiếng Việt và hoàn thành một quyển ngữ vựng tiếng Bồ
và tiếng Việt. Đó là không kể đến cuốn giáo lý viết bằng chữ Nôm
mà ngài đã soạn ra dựa theo cuốn giáo lý mà Hồng Y Bellarmine đã
viết vào năm 1614[6].
Theo tôi nghĩ, dĩ nhiên là Cha Pina không thể nào một mình soạn ra
quyển giáo lý này mà cần sự trợ giúp của nhiều học giả Việt Nam
thời ấy và luôn cả Cha Francesco Buzomi (1576-1639)[7] người
đã giúp ngài định nghĩa và dịch ra những từ ngữ trừu tượng trong
thánh kinh ra tiếng Việt. Muốn thực hiện những chương trình qui mô
này, lúc suy gẫm về chữ Quốc Ngữ, Cha Pina suy nghĩ cách thức
chuyển âm ngữ hầu như một mình. Ngoài các tiếng Âu Châu ra, ngài còn
cần hiểu biết thêm về các ngôn ngữ Á Châu khác nữa. Khi đến Goa, Cha
Pina, theo tôi nghĩ, đã có cơ hội học hỏi cả tiếng Nhật và có thể,
cả tiếng Konkani nữa. Hơn thế nữa, ngài cần nhiều sự giúp đỡ của
các nhà ngôn ngữ tiên phong lưu trú tại các quốc gia khác. Khi ngài
bước chân đến Đà Nẵng lần đầu tiên, ngài chỉ là một giáo sĩ trẻ,
mới ra trường từ Macao, tuổi đời còn non nớt, kinh nghiệm chưa đủ. Vì
thế, chúng ta phải tự hỏi khi tạm trú tại Goa (2-3 năm) và ở Macao
(5-6 năm), Cha Pina đã nhìn thấy và học hỏi thêm những gì? Muốn biết
câu trả lời, chúng ta chỉ có thể quay về quá khứ đề tìm hiểu thêm
về cuộc đời của ngài trong những năm gia nhập Dòng Chúa Giêsu cho đến
lúc tàu cặp bến ở Macao (1605-1616) và khi bước chân lên lãnh thổ Đà
Nẵng (1617).
Khi tưởng tượng đến Cha Pina, trí óc tôi nhìn
thấy một vị giáo sĩ trung niên đang ngồi dưới ánh đèn cầy mờ ảo,
tay cầm một cây viết lông gà, nguệch ngoạc viết xuống những dòng chữ
xa lạ. Ông ngồi đấy hàng giờ sau khi cầu nguyện và ăn xong bữa cơm
chiều. Thỉnh thoảng, ông dừng bút, suy nghĩ, đắn đo… Đó là những
hình ảnh tràn ngập trong tâm khảm tôi, đầy sự yêu mến và kính phục
đến với vị tu sĩ này. Hơn 400 năm trước, khi bước lên chiếc tàu gỗ
khổng lồ rời bến Lisbon, nước Bồ Đào Nha, ông đã biết mình có thể
sẽ không có cơ hội về thăm quê hương và gia đình được nữa. Nhưng ông
vẫn tiếp tục bước lên tàu và cuối cùng được mang sang một thế giới
xa lạ để phục vụ một lý tưởng cao cả mà Thiên Chúa đã trao cho. Gần
đây, nhờ vào sự kiên trì trong hơn 10 năm mà ông Roland Jacques bỏ ra
trong cuộc đời ông để nghiên cứu về Cha Pina, cuối cùng những thành
tích về sự phát triển mới mẻ của chữ Quốc Ngữ lúc mới khai phong,
vừa được khám phá. Tuy vậy, chúng ta vẫn không am tường thời niên
thiếu, sự học vấn và cuộc hải hành của ông qua Goa. Mục đích của
bài tường trình này là làm sáng tỏ phần nào cuộc đời ngắn ngủi
của Cha Pina để bổ túc thêm chi tiết mà ông Roland Jacques đã dành cho
người Việt Nam chúng ta.
Hình 1 - Lãnh Thổ Đàng Trong (Xanh Dương) và
Đàng Ngoài (Màu Cam) do Cha Alexandre de Rhodes hoàn thành vào Giữa Thế
Kỷ 17
Thân Thế của Cha Francisco de Pina
Cha Pina sinh ra vào năm 1586 vào lúc đế quốc Bồ
Đào Nha đang trên con đường suy đồi. Khoảng tám năm trước đó, vị vua
Bồ Đào Nha trẻ Sebestian I đã ra một quyết định sai lầm là
mang quân tham gia vào cuộc nội chiến ở Marocco và khiến ông bị thiệt
mạng cùng vô số binh sĩ. Vì vua Sebestian I không có người nối vị, vua
Tây Ban Nha Philip II, chú của cố vua Sebestian I, nhân dịp này sáp nhập
nước Bồ Đào Nha vào với Tây Ban Nha cho đến năm 1640. Dưới sự cai trị
của vua Tây Ban Nha, đế quốc Bồ Đào Nha bắt đầu suy yếu từ đó. Bắt
đầu thế kỷ 17, không may cho họ, trên thế giới có nhiều chuyển biến,
những quốc gia theo đạo Tin Lành như nước Hòa Lan hay Anh Quốc bắt đầu
cạnh tranh với người Bồ trong việc buôn bán gia vị trên thế giới.
Không những thế, họ còn dùng tàu bè tối tân thời bấy giờ để cướp
của và đánh đắm những con thuyền buôn của người Bồ. Đồng thời các
quốc gia thiếu thân thiện này cũng phong tỏa các thành phố quan trọng
trong thềm thương mại như Lisbon hay Goa. Sống và lớn lên trong bối cảnh
này, là một cậu bé ngây thơ, Pina không hề biết thế giới bên ngoài
đang xảy ra chiến tranh khốc liệt như thế nào cho đến khi anh ta gia
nhập vào Dòng Chúa Giêsu.
Cha Pina được chào đời ở thành phố Guarda (Hãy xem bản đồ nước Bồ, Hình 2), một thành phố nằm về phía đông bắc, trên địa phận núi non (cao độ 3.465 ft) gần biên giới giữa nước Bồ và nước Tây Ban Nha - cao nhất so với các thành phố khác ở nước Bồ. Thành phố này được sáng lập năm 1197 để chống lại sự xâm lấn của người Hồi Giáo.[8] Nói một cách tổng quát, người dân Guarda rất sùng đạo thời đó. Dân số ở đây thưa thớt. Không bao gồm các vùng ngoại ô, trong thành phố Guarda, dân số chỉ có khoảng 2.300 người (thống kê năm 1755)[9]. Cho đến nay, không ai rõ gia thế của cha Pina, nhưng dòng họ Pina ở Guarda rất nổi tiếng trong thành phố này, nhất là ông Rui de Pina (1440-1522). Vào năm 1497, vua Manuel I phong chức cho Rui de Pina làm Biên Sử Quan và hưởng lộc vua khi về hưu ở Guarda. Trước đó, nhà vua bổ nhiệm ông làm chức Thư Ký (Secretary)[10] trong phái đoàn được gửi qua Barcelona điều đình với chính quyền Tây Ban Nha. Kết quả là hiệp ước Tordesillas đã ra đời vào năm 1494.[11] Có lẽ lúc đế quốc Bồ thịnh vượng, dòng dõi họ Pina cũng được cơm no, áo ấm. Suốt mấy đời, họ chăm chỉ tu bổ các nhà thờ lớn ở Guarda.
Hình 2 - Bản Đồ Nước Bồ Đào Nha
Hiện tại, vì cha Pina mất quá sớm và chưa có
tài liệu nào cho thấy cha mẹ của ngài là ai. Dựa theo những tài
liệu lưu lại từ nhà Dòng Chúa Giêsu, cha Pina, khi được 18 tuổi (1605),
đã nộp đơn xin gia nhập vào Dòng Chúa Giêsu và đã được chấp thuận.
Có lẽ lúc đang học đại học ở trường Coimbra, ngài đã bắt đầu
ngưỡng mộ nhà Dòng Chúa Giêsu và đã quyết định gia nhập vào đó.
Vào năm đó, ngài từ giã gia đình và nội trú trong trường đại học
College de Jesus tại Coimbra[12] (Hãy
xem Hình 3).
Hai năm ròng rã tập sự trong Nhà Tập[13]
Ngày 28 tháng Giêng năm 1605[14] là
ngày đầu tiên nhập vào nhà Dòng Chúa Giêsu của chàng trai Pina.
Sau khi hoàn tất thủ tục giấy tờ nhập môn, anh Pina được giới thiệu
với mọi người trong Nhà Tập. Cha Bề Trên (Superior) cũng giới thiệu với
anh một sư huynh đỡ đầu để giúp đỡ anh trong thời gian đầu còn bỡ
ngỡ. Vị sư huynh này lúc nào cũng theo anh để nhắc nhở luật lệ trong
học viện. Anh cũng được cho biết những luật lệ nghiêm khắc của nhà
Dòng, ví dụ như tất cả học viên đều phải yên lặng suốt trong những
buổi học, buổi ăn sáng, trưa và chiều. Chỉ trong giờ sinh hoạt mới được
phép trò chuyện với nhau mà thôi. Hàng ngày, anh Pina phải thức giấc
vào đúng 4 giờ sáng và lên giường ngủ vào lúc 9 giờ khuya. Mỗi
ngày, các học viên phải cầu nguyện và tham dự thánh lễ. Các anh cũng
tham gia vào công việc lau chùi, giúp lặt vặt trong nhà bếp hay tỉa
cây chung quanh trường. Ngoài ra, trong năm anh phải đi hành hương, sống
một cuộc đời tha phương bằng cách đi xin ăn ngoài phố trong vài tuần
liên tiếp. Tháp tùng Cha Bề Trên, anh Pina cũng tham dự vào phái đoàn
thăm viếng nhà thương địa phương, nhà giam hay những người nghèo khổ
với mục đích xoa dịu nỗi đau buồn trong lòng họ. Cũng có lúc, theo
sự hướng dẫn của cha Bề Trên và các bài linh thao của Thánh Loyola, tổ
phụ của nhà Dòng Chúa Giêsu, các học viên phải vùi mình trong phòng 30
ngày ngồi tĩnh tâm, với mục đích chính là tự tìm hiểu chính mình
và sự liên quan giữa con người và Thiên Chúa.
Hình 3 - Đại Học Giêsu ở Coimbra vào năm 1732[15] -Biblioteca
Nacional de Portugal
Năm thứ ba nội trú trong Học viện Nhà Tập
Trong thời gian thực tập và nội trú ở trường,
để giúp các học viên không bị gia đình quấy nhiễu, nhà Dòng Chúa
Giêsu khích lệ các học viên không liên lạc với gia đình mà không có sự
cho phép của Cha Trưởng Giám của Nhà Tập.[16] Vì
thế, nhà Dòng khuyến khích học viên quên cả gia đình và chỉ nhớ họ
qua tiềm thức.[17] Đây
là một trong những điều than phiền của cha mẹ các học viên với nhà
Dòng Chúa Giêsu vào thời ấy.
Trong thời gian hai năm thử nghiệm, các chi phí
kể cả học phí và nhu cầu hàng ngày đều được nhà Dòng cung cấp
miễn phí. Trong năm đầu, anh Pina và các bạn phải ôn lại văn phạm
tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp. Vào giờ giải trí, các học
viên đều cố gắng đàm thoại với nhau bằng tiếng La Tinh.[18] Đây
là điều đã được nhắc nhở trong nội qui của nhà Dòng Chúa Giêsu[19]:
“Đặc biệt là các học viên đang theo đuổi nhân văn học (humanities), họ
phải nói tiếng La-Tinh thường xuyên…” Vì thế, ngoài tiếng mẹ đẻ và
tiếng Hy Lạp, không một ai ngạc nhiên khi các vị thừa sai đến Đàng
Trong đều thông suốt tiếng La Tinh. Sự hiểu biết về tiếng La Tinh rất
quan trọng vì khi lên những lớp cao hơn như triết học (philosophy) hay
thần học (theology), các giáo sư đều dạy bài vở bằng tiếng nói này.
Ngoài hai tiếng La Tinh và Hy Lạp (lẫn tiếng Do Thái), anh Pina còn
phải học thêm lịch sử (history) và thơ văn (poetry) trước khi được cho
phép rời chương trình thử nghiệm trong Nhà Tập.
Sau hai năm đầu nội trú, dựa vào chương trình
nhà Dòng, đáng lẽ anh Pina đã thông thạo La Tinh diễn theo lối cổ
điển của tác giả Cicero, nhưng vì một lý do nào đó, Pina vẫn chưa
hội đủ điều kiện này vì bằng cớ cho thấy rằng trong năm học thứ ba
(1607), Pina phải tiếp tục nội trú ở trường đại học Dòng Chúa Giêsu
để học xong lớp Biện Luận (Rhetoric).[20] Có
lẽ là một người sống miền rừng núi ở Guarda và cũng là một người
chất phác, Pina không quen sử dụng lối viết văn vẻ hùng hồn, bóng
bẩy, và kinh điển của Cicero hay các tác giả khác mà các học viên như
anh phải theo đuổi trong lúc trình bày bài tập của mình. Vì thế, anh
bị bắt buộc phải học thêm lớp Biện Luận để trau dồi tiếng La Tinh
của mình và tập trình bày đọc diễn văn một cách uyển chuyển theo
lề lối.
Cuối năm thứ hai trong Nhà Tập, anh Pina được
chính thức chấp nhận vào Dòng Chúa Giêsu với tính cách là một
thành viên thực thụ (approved scholastic). Có lẽ anh đã vui mừng khôn
tả vì anh biết tâm nguyện của anh đã hoàn thành. Nhưng điều mà anh
mong muốn nhất là được chấp thuận đến Nhật Bản để truyền giáo. Cách
đó không lâu, với những lời chân thành từ đáy lòng, anh đã nộp đơn
xin tình nguyện và đang chờ đợi câu trả lời của Cha Claudio Acquaviva,
Bề Trên Tổng Quyền (Superior General) của Dòng Chúa Giêsu. Vào năm 1607,
hoàn tất chương trình hai năm Nhà Tập, dưới sự hướng dẫn của Cha Bề
Trên, anh đã lập lại những lời như sau:[21]
“I, Francisco de Pina, promise to Almighty God, in the
presence of his Virgin Mother and the whole heavenly court, and to you,
Reverend Father Claudio Acquaviva, Superior General of the Society of Jesus and
the one holding the place of God, and to your successors, perpetual poverty,
chastity, and obedience; and, in conformity with it, special care for the
instruction of children, according to the manner indicated in the apostolic
letters and Constitutions of the aforementioned Society.
Coimbra, in such a place, day, month, 1607”
Tạm dịch là:
“Tôi, Francisco de Pina, xin hứa với Thiên Chúa
Toàn Năng, dưới sự chứng kiến của Đức Mẹ Đồng Trinh và toàn thể Triều
thần Thiên Quốc, và với Cha Claudio Acquiviva, Bề Trên Tổng Quyền Dòng Chúa
Giêsu và là người thay mặt Thiên Chúa và với những người kế vị của cha, sự
nghèo khó, tịnh khiết và tuân phục vĩnh viễn; và, phù hợp với nhà dòng,
chăm sóc đặc biệt cho việc dạy dỗ trẻ em, theo cách thức được chỉ định trong
các lá thư tông đồ và nội qui của nhà dòng nói ở trên.
Coimbra,, ngày ___, tháng___, năm 1607”
Sau khi Pina lập thệ ba lời khấn: đó là luôn luôn
giữ gìn mình khiết tịnh, lúc nào cũng sống trong tình trạng khó nghèo
và mãi mãi vâng lời nhà Dòng Chúa Giêsu, anh trở thành một thầy dòng
(brother) trong Dòng Chúa Giêsu. Điều quan trọng hơn nữa là anh đã nhận
thấy một tương lai tươi sáng đang đón chờ mình. Sau khi tuyên khấn, Cha
Bề Trên đã cho anh biết, dựa theo khả năng của anh, thì hiện tại anh
sẽ được chấp nhận vào chương trình Scholastic (Kinh Viện).
Nhưng trước khi tiếp tục chương trình học của
một scholastic, anh phải dành một vài năm đi dạy một lớp La Tinh hay Hy
Lạp ở cấp bậc tiểu học. Cha Bề Trên cũng cho anh biết rằng nếu anh
lựa chọn con dường tình nguyện qua các nước Á Châu để giảng đạo, điều
kiện này sẽ được miễn hạn cho anh.
Trong chương trình Scholastic, việc học của Pina
sẽ chia làm hai giai đoạn. Trước hết anh phải học xong lớp triết lý
(3 năm) - Lớp này bao gồm Lý Luận Học (Logic), lớp Triết Lý Thiên
Nhiên (Natural Philosophy), lớp Đạo Đức (Ethics) và lớp Siêu Hình Học
(Metaphysics). Những lớp triết lý này đều dựa theo sách vở của
Aristotle. Trong lớp Triết Lý Thiên Nhiên, học viên sẽ học cả thiên văn
và toán học. Sau giai đoạn này, anh sẽ được bổ nhiệm đi dạy triết
lý trong một vài năm và sau đó, sẽ ghi danh vào học lớp thần học.
Đây là giai đoạn khó nhất trong lãnh vực tu hành và học vấn của anh.
Trong những năm cuối cùng, các sinh viên sẽ trãi qua chương trình Thần
Học rất khó khăn bao gồm Thần Học Luân Lý (Moral Theology) và Thần
Học Suy Lý (Speculative Theology)[22].
Học xong lớp này, anh có thể giảng đạo và nghe xưng tội của các Kitô
hữu. Trong khoảng cuối năm thứ ba của lớp thần học, một vị Giám Mục
(bishop) dưới quyền Đức Giáo Hoàng sẽ ban cho Pina chức Linh Mục
(Priest) trong nghi lễ Phong Chức (Ordination) của anh. Nhưng điều này
không có nghĩa rằng anh đã xong việc học vì anh sẽ phải học xong năm
thứ tư của lớp thần học.
Học xong năm cuối của thần học, Pina phải trải
qua một năm cuối cùng của thử thách. Giống như hai năm ròng rã
ở Nhà Tập, anh phải tu thân bằng cách ngồi tĩnh tâm theo lối dạy
dỗ của Thánh Layola, đi thăm bệnh nhân trong nhà thương, dạy dỗ trẻ em
hay người già nua và kể cả, đi lang thang khất thực - Anh sẽ phải
thực hiện được mỗi hoạt động này cho mỗi tháng, kéo dài cho đến
hết một năm. Thời gian tu luyện này được gọi là tertianship. Sau đó
anh sẽ tuyên thệ với ba lời thề (giống như những năm trước khi còn ở
trong Nhà Tập) và thực thụ trở thành một Trợ Giáo Tâm Linh
(Spiritual Coadjutor)[23] trong
Dòng Chúa Giêsu.
Cũng có thể con đường học vấn đến đây là chấm
dứt cho anh, nếu số điểm thi trong hai lớp cuối cùng anh kém hơn mức
“mediocre”. Nhưng nếu trình độ học của anh vượt trội hơn đó, anh sẽ
được tuyển chọn, gia nhập vào chương trình Profession[24].
Đây là một lý tưởng cao nhất mà một tu sĩ nhà Dòng thường mơ ước
để trở thành một Bề Trên (Superior), Giám Tỉnh (Provincial), Khâm Sai
(Visitor) hay Bề Trên Tổng Quyền (Superior General). Trong chương trình
Profession, trước khi chính thức trở thành một professed, điều kiện
tiên quyết là anh phải vượt qua chương trình giáo sĩ với ba lời thề.
Sau đó, anh sẽ phải tuyên thệ một lần nữa với 4 lời thề mà trong
lời thề cuối cùng, anh sẽ tuyệt đối, luôn luôn trung thành với Đức
Giáo Hoàng.
Trong trường hợp của Cha Pina, dựa theo lịch sử,
chúng ta đã thấy khi ngài ra trường, ngài chỉ trở thành một giáo sĩ
bé nhỏ với ba lời thề mà thôi. Vì thế, sau nhiều năm phục vụ cho Dòng
Chúa Giêsu, chức vụ cao nhất mà anh có thể được giao phó sẽ chỉ có
thể lên đến chức vụ Giám Học của Nhà Tập (Novice Master) hay
cao hơn nữa là Viện Trưởng (Rector) của một trường đại học[25].
Đến đầu năm 1616, anh Pina cùng bốn người bạn được báo tin sửa soạn
về Malacca để nhận lãnh chức Linh Mục[26],
nhưng mãi đến năm sau, đó là tháng 10, 1617, Pina được chính thức được
gọi là “Cha Pina” hay Linh Mục Pina[27] -
Hãy xem Hình 4.
Nên chú ý rằng ngoài con đường tu hành để trở
thành một Giáo Sĩ trong Hình 4 còn cho thấy con đường lựa chọn khác
của một trong nhà Dòng Chúa Giêsu, đó là giáo chức phụ tá gọi là
Temporal Coadjutor. Dĩ nhiên, Pina không theo con đường tu hành này. Riêng
Temporal Coadjutors là những người theo đạo và tình nguyện tuân theo
nội qui của Dòng Chúa Giêsu, nhưng vì họ thiếu học thức không thể
theo được con đường học vấn để trở thành một vị Giáo Sĩ. Vì thế,
suốt đời họ chỉ có thể là những tu huynh (Lay Brothers) trong nhà
dòng. Họ theo đạo và sẽ trở thành những tu sĩ trông lo việc trần
tục trong nhà Dòng như là quản lý, khuân vác, quản gia, nhà bếp, làm
vườn, v.v… Thí dụ điển hình là các tu sĩ Anh Paul Saito (1576-1633),
Joseph Tsuchimochi (1568-?) và Diogo Dias (1578-?) tháp tùng theo phái
đoàn dẫn đầu bởi Cha Diogo Carvalho (1578-1624)[28] và
Cha Francesco Buzomi (1576-1639)[29] đáp
xuống cửa Hàn, Đà Nẵng năm 1615. Trong phái đoàn này, chỉ là những
phụ tá temporal coadjutors. Họ không có quyền giảng đạo hay giải tội
mà chỉ vâng lời chỉ dạy và sai bảo của các cha bề trên trong những
công việc nặng nhọc hằng ngày. Nhưng họ có thể ghi danh và theo đuổi
việc học như những tu sĩ khác. Họ cũng có thể xin phép tách rời
dòng Chúa Giêsu bất cứ lúc nào mà không phải chịu đựng thêm một
nghĩa vụ hay hình phạt nào.
Hiện tại, dĩ nhiên là Pina nhận lời một cách
vui vẻ vì anh vừa mới xong ba năm thử thách trong Nhà Tập và
tuyên thệ xong là sẽ vâng lời nhà Dòng một cách tuyệt đối. Mặc dầu
chương trình học còn rất dài, hiện tại, anh chỉ hoàn tất khoảng 1/3
đoạn đường. Con đường tiếp theo sẽ là triết lý học (Philosophy) cho ba
năm sau. Đó là không kể bốn năm ròng rã theo thần học (Theology) tiếp sau
đó. Theo anh, đó là việc của tương lai anh không dám nghĩ đến. Hiện
tại, anh đang say sưa thêm một tin vui khác, đó là, Cha Bề Trên Tổng
Quyền Acquaviva đã chấp thuận cho anh tiến hành cuộc hành trình qua
Goa, Ấn Độ.
Trong thực tế, hành trình học vấn và tu hành của anh không hoàn toàn giống như những sự giải thích của Cha Bề Trên. Vì sẽ được qua Goa học hành và sau đó tạm dừng ở Macao, trước khi đến Nhật Bản hành đạo, nhà Dòng Chúa Giêsu đã miễn cho anh nhiều năm phải dạy học trong cấp bậc tiểu và trung học, có lẽ vì cuộc hành trình vượt biển đến Goa quá khó khăn và nguy hiểm - Khoảng hơn nửa số tu sĩ gửi đi qua Á Châu đều bị mất mạng trên biển cả.[30] Ngay cả năm thử thách cuối cùng tertianship có thể cũng được bãi bỏ cho anh.
Hình 4 – Chương Trình Học và Hành Trình Tu Hành của Cha Pina (1605-1617)Cuộc Hải Hành Vượt Trùng Dương Qua Goa, Ấn Độ
Quần Áo, Thức Ăn và Nước Uống Mang Theo
Khoảng giữa tháng ba, năm 1608, trong tay cầm
giấy thông hành đến Goa, được lệnh chỉ thị của Cha Bề Trên rằng anh
không được trình diện quá trễ - Nếu trễ, họ sẽ thay thế anh với một
sinh viên khác, anh Pina đón xe ngựa chạy về hướng trường đại học
Santo Antão, thuộc thành phố Lisbon, nơi tụ họp của các tu sĩ Dòng
Chúa Giêsu trước khi lên tàu đi Ấn Độ[31].
Không hiểu lúc ấy, trước khi rời xa Coimbra, anh có được phép về thăm
gia đình ở Guarda hay không. Nhưng nếu anh theo đường lối của Thánh
Francisco Xavier vào năm 1541 thì anh sẽ không ghé thăm họ[32] -
Điều này rất có thể đã xảy ra vì trong nội qui nhà Dòng Chúa Giêsu
khích lệ học viên nội trú cắt đứt liên lạc với gia đình.
Sau khi trình diện xong, anh mới biết được rằng
phái đoàn Dòng Chúa Giêsu gồm có tám người (Hãy xem Hình 5).[33]
Hình 5 -Danh Sách 8 Tu Sĩ Người Bồ Đáp Cùng Chuyến Tàu Đi Goa Năm 1608
Người đứng đầu
là Cha Bề Trên Nicolas Vieira và Cha Francisco Rodrigues. Ngoại trừ hai
người này, kể luôn cả anh, tất cả những người khác đều là tu sĩ
tập sự như là Manoel Borges (1584-1633),[34]Manoel
Lopes (1583-1627),[35] Avares
Semedo (1585-1658),[36] Bernado
Luis và Francisco Ferraz. Trong sáu người trai trẻ, cả ba anh Borges,
Lopes và Semedo đều lớn hơn Pina một vài tuổi, ghi danh vào chương
trình ở Nhà Tập sớm hơn anh và vì thế, người nào cũng học
xong lớp triết lý trước khi rời Coimbra hay Évora, nơi họ đã gia nhập
vào Dòng Chúa Giêsu. Hiện nay, họ chỉ còn thiếu lớp cuối cùng Thần
Học mà thôi. Thí dụ như, chỉ so sánh với Borges thì Pina còn kém xa
trong việc học vì Borges đã có kinh nghiệm dạy học La Tinh 5 năm trời
ở Braga. Trong nhóm thanh niên khởi hành qua Goa kỳ này, Borges là
người thâm niên nhất.
Biết rõ chuyến hành trình nhiều gian nan và
nguy hiểm, Cha Bề Trên Vieira chắc chắn đã trao nhiệm vụ cho mọi người.
Cha Rodrigues có lẽ được giao cho nhiệm vụ trừ bị thay thế cho Cha
Vieira, nếu chuyện không may xảy ra cho ngài. Kế đó, người thâm niên
nhất phải là Borges; sau đó đến Lopes. Riêng Pina, Luis và Ferraz là ba
sinh viên trẻ trung và thiếu kinh nghiệm nhất (cũng có thể Luis và
Ferraz là hai tu huynh, nhưng hiện nay chúng ta không tìm ra một tài
liệu nào về hai anh này).
Rất có thể Pina đã được giao cho nhiệm vụ nấu
cơm cho mọi người trong nhóm tu sĩ Giêsu - Trên tàu họ chỉ ăn một bữa
vào khoảng 12 giờ trưa. Ngoại trừ các tu sĩ, mỗi hành khách phải lo
cho việc ăn uống hàng ngày cho chính mình. Vì thế, khi họ bị bệnh
và có thể không đi lại được, họ có thể bị mất mạng. Trong những
trường hợp khẩn cấp này, các tu sĩ Dòng Chúa Giêsu thường qua lại,
đút thức ăn hay thuốc cho những bệnh nhân này. Cũng có thể Pina được
giao cho trọng trách này. Ngoài ra, anh có thể được giao cho nhiệm vụ
đến với người bệnh và khuyến khích họ xưng tội, nhất khi họ có rủi
ro gì trước khi qua đời. Đây là một điều rất quan trọng cho những
giáo dân đang có mặt trên tàu. Vì chỉ là một sinh viên trẻ mới trải
qua thử thách của nhà Dòng Chúa Giêsu sau lớp Nhà Tập, anh không
thể giảng đạo hay nghe lời xưng tội của giáo dân trên tàu được. Nhiệm
vụ này chỉ có thể giao cho những giáo sĩ trong phái đoàn đã được
chứng nhận bởi một giám mục mà thôi.
Nghiên cứu kỹ danh sách trên, chúng ta cũng nhận
thấy rằng cả tên của hai nhân vật “Emmanuel Borges” với dấu thập và
“Emmanuel Lopes” được thêm chữ P(adre) ở đầu. Điều này chứng tỏ họ đã
được ban cho chức Linh Mục và chính thức được phép giảng đạo lẫn
giải tội. Riêng Cha Borges, vì gia nhập Nhà Tập sớm hơn (1601),
trước khi lên đường đến Goa, có lẽ anh đã học xong lớp triết lý và
một hay hai năm của Thần Học. Trước năm 1608, tuy anh được phong chức
Linh Mục hơi sớm, nhưng đó là điều có thể đã xảy ra vì trước khi lên
đường, anh đang học lớp Thần Học. Còn Cha Lopes thì sao? Lý do nào mà
anh có thể được thăng chức nhanh chóng như thế? Anh này trước khi lên
đường qua Goa chỉ học xong lớp triết học thôi. Vì thế, anh sẽ cần
phải học thêm 4 năm nữa cho lớp thần học cơ mà. Bình thường nhà Dòng
Chúa Giêsu rất theo đúng nguyên tắc trong nội qui. Họ sẽ không nâng đỡ
bất cứ tu sĩ nào chưa hội đủ điều kiện học vấn. Nếu có, khi nào
họ đã được thăng chức cho anh và ở đâu vì lúc này, anh không hội đủ
điều kiện được phong chức thành Linh Mục? Điều bí ẩn này sẽ cần
thêm nhiều nghiên cứu và một câu giải đáp. Cũng có thể, khi đáp tàu về
Goa, nhờ công lao tận tụy trên tàu chăm sóc cho bệnh nhân nên vị Giám
Mục ở Goa thay mặt tòa thánh Vatican và phong chức Linh Mục cho anh.
Chúng ta nên nhớ rằng tài liệu trích ra trong Hình 5 được phát hành
trong năm 1725 - hơn 100 năm sau chuyến tàu định mạng này. Cho nên sự
kiện trên sẽ cần nghiệm chứng lại.
Tương tự như Cha Dominique Jeunehomme[37] sửa
soạn lên đường đến Goa vào năm 1629 đã mang theo, trước khi khởi hành,
Pina đã sửa soạn kỹ lưỡng cho đồ dùng cá nhân của mình. Trên tàu,
cũng như các tu sĩ khác, anh được phép mang theo một cái rương nhỏ
chứa đựng hai loại quần áo mỏng và dầy sửa soạn cho những vùng
biển nóng bức gần xích đạo hay nơi có nhiều giông tố như Mũi Hảo
Vọng. Ngoài ra, anh cũng mang theo một ít thức ăn, thuốc thang thường
dùng, chăn chiếu, sách vở và một cái bàn thờ nhỏ.[38] Không
may mắn như anh, có một số hành khách trên tàu, ngoài manh áo mặc
trên người, họ không mang theo một tấm vải nào khác. Đây là là một
thiếu sót và lỗi lầm rất lớn vì khi con tàu Vencimento chìm đắm
dưới những cơn mưa nóng bỏng trong vùng Xích Đạo hay ngược lại, cái
rét mướt căm căm do sóng to, gió lớn gần Mũi Hảo Vọng, họ mới nhận
thức rằng mình đã thiếu chu đáo trước khi lên đường. Vì thế, có thể
họ phải trả với một giá rất đắt vì sự lơ là này.
Vài ngày trước khi khởi hành, các tu sĩ Dòng
Chúa Giêsu bắt đầu mướn xe và chở đồ dùng và thức ăn lên tàu ngay
thương cảng Lisbon. Khi dừng ngựa ở bến tàu, không khó khăn gì cho
lắm, họ đã tìm đựợc con thuyền buôn khổng lồ có tên là Nossa Senhora
Vencimento da Monté da Carmo. Đã nhận lãnh phụ trách là một quản lý
viên (procurator), Cha Bề Trên Vieira dĩ nhiên là có nhiều kinh nghiệm
qua lại từ Lisbon đến Goa. Ngài biết đi bằng thuyền buồm sẽ tốn ít
nhất 6 tháng mới đến nơi, nếu thời tiết thuận lợi và không gặp phải
hải tặc. Việc trước tiên bây giờ là lo dự trữ thức ăn cho 8 người họ
tiêu thụ trong vòng khoảng 6 tháng này. Ngài cũng hy vọng, nếu có
việc gì trắc trở, con thuyền sẽ có thể tạm dừng chân ở hòn đảo
Mozambique nằm ở phía đông lục địa Phi Châu để tiếp ứng thêm thức ăn
và nước uống - Hãy xem Hình 9. Tuy hiện nay không một tài liệu nào
còn lại cho thấy họ khuân lên tàu những thứ gì, nhưng sau đây là một
danh sách thức ăn mà các Tu sĩ Dòng Chúa Giêsu được phép tải lên tàu
vào năm 1576 kê khai cho mỗi đầu người (Hãy xem Bảng 1):
Thứ Tự |
Thực Phẩm |
Số Lượng Thực Phẩm/Mỗi Tu Sĩ cho Cuộc Hành
Trình[39] |
Số Dự Trữ cho 8 Tu Sĩ[40] |
Mức Phân Phối cho Mỗi Thường Dân Trên Tàu Mỗi
Ngày[41] |
Ghi Chú |
1 |
Rượu Vang |
75 lít |
Hơn 1 thùng |
1 Lít |
Tất cả thức ăn, nước uống được cung cấp cho
cuộc hành trình trong vòng 6 tháng |
2 |
Nước |
4 thùng |
32 Thùng |
2.7 lít |
570 lít/thùng trung bình (pipa) |
3 |
Bánh Biscuit |
4 Thùng |
32 Thùng |
Gần 1 kg |
|
4 |
Thịt Heo Tẩm Muối |
1 Con |
8 Con |
- |
|
5 |
Thịt Bò Xăn Muối |
30 Kg |
240 Kg |
250 g thịt |
|
6 |
Gà Sống |
100 Con |
800 Con |
- |
|
7 |
Sườn Heo |
50 Miếng |
400 Miếng |
- |
|
8 |
Dồi Heo |
60 Cái |
480 Cái |
- |
|
9 |
Cá Khô Các Loại |
150 Con |
1,200 Con |
5 Con |
|
10 |
Bí Ngô |
15 Trái |
120 Trái |
|
|
11 |
Gạo |
10 Bao |
80 Bao |
|
|
12 |
Mì |
1 Thùng |
8 Thùng |
|
|
13 |
Hành Củ |
3 Bao |
24 Bao |
|
|
14 |
Gia Vị |
1 lb/mỗi thứ |
8 Lbs/mỗi thứ |
|
|
15 |
Olive Oil |
- |
- |
0.4 lít cho 6 tháng |
|
16 |
Dấm |
- |
- |
0.8 lít cho mỗi tuần |
|
17 |
Đường |
- |
- |
325 g cho 6 tháng |
|
18 |
Mật Ong |
- |
- |
325 g cho 6 tháng |
|
Bảng 1 -Số Lượng Thức Ăn Hàng Ngày của Các Tu
Sĩ Giêsu so với Hành Khách Trên Tàu (1576)
Khi so sánh số lượng thực phẩm mang theo từ các
tu sĩ Dòng Chúa Giêsu và của hành khách trên tàu (Cột thứ ba so với
cột thứ năm), chúng ta có thể nhận định rằng ở trên tàu, về phương
diện ăn uống, các tu sĩ đã được ưu đãi hơn rất nhiều. Tuy số lượng
rượu dùng hàng ngày của họ ít ỏi hơn, nhưng họ có nhiều loại thịt
để ăn như thịt bò, thịt heo và thịt gà. Riêng về thịt gà, họ được
phép mang theo 100 con gà sống cho mỗi người. Nếu tính luôn cả số gà
cho 8 người thì số gà này lên đến 800 con; thật sự tôi không hiểu làm
cách nào mà họ có thể mang theo nhiều gà như thế. Có thể người Bồ
mang theo nô lệ để chăm sóc cho gia súc mang theo. Nếu mang theo gà lớn,
ăn sẵn, thì họ không thể nào tiêu thụ chúng trong vòng một thời gian
ngắn được. Còn nếu họ mang theo gà con thì chỉ trong vòng ba bốn
tháng sau, gà lớn lên đủ để ăn. Đây cũng là một điều rất phiền phức
vì phải có đủ thực phẩm lẫn nước uống cho chúng. Đó là không kể
mùi vị hôi thối xông ra từ phân gà nữa. Chúng ta không thể tưởng
tượng rằng trong cuộc hành trình này, lúc đương đầu với sống chết,
họ còn có đủ thì giờ chăm lo cho đám gà mang theo. Đó là không nói
đến số gà chết vì nóng dưới gầm tàu khi thuyền của họ tiến gần
đến đường xích đạo, dọc theo bờ biển Guinea. Nơi đó, vì không có
gió, độ ẩm lại cao; nhiệt độ lại tăng cao lên đến 100 độ F hằng
ngày. Có lẽ số gà bị tiêu vong thật là vô số. Thật sự số
gà sống được mang lên tàu mà các tu sĩ Giêsu nuôi dưỡng là một số
nhỏ. Nếu bao gồm luôn cả những hành khách giàu có, số gà có thể
lên tới hơn 10.000 con[42].
Đó là không kể số gia súc bao gồm luôn cả bò, heo, cừu, vịt và thỏ
nuôi trên tàu.[43]
Con Tàu Buôn Nossa Senhora Vencimento da Monté da
Carmo
Lúc các tu sĩ, kể cả Pina, đang sửa soạn chất
thực phẩm lên tàu. Chung quanh họ, khoảng 900[44] hành
khách khác cũng sửa soạn như thế. Trong số đó, có một hành khách
tên là Jean Mocquet (1575-1617), một nhà thám hiểm người Pháp đang trên
hành trình đến Goa. Mục đích của ông ta là đi du ngoạn thế giới để
mang về cho vua Pháp Henry IV (1553-1610) những vật lạ từ các nước
khác. Vào năm 1608, khi khởi hành đến Lisbon với mục đích qua Goa, Ấn
Độ, đây là chuyến hành trình thứ tư của ông ta trong năm chuyến du
lịch khắp thế giới. Dĩ nhiên là mặc dù đáp tàu cùng một chuyến,
nhưng các tu sĩ Dòng Chúa Giêsu không hề quen biết ông Mocquet. Nhưng sau
chuyến du lịch nhiều mạo hiểm và nguy hiểm vượt trùng dương băng qua
Phi Châu và cuối cùng đến Goa, sau khi về Pháp, ông đã viết trong sách
của ông ấn hành năm 1616. Nhờ đó mà chúng ta mới biết nỗi khổ cực
của những hành khách cũng như các tu sĩ trẻ tuổi với lòng đầy nhiệt
huyết như Pina. Có lẽ chuyến đi này là một thử thách và cũng là kinh
nghiệm cuộc đời rất đáng giá vì sau chuyến hành trình này, họ sẽ
trở thành những con người từng trải và có một cái nhìn về cuộc
sống khác hẳn với những người khác.
Chiếc thuyền buồm Vencimento là một trong số
những con tàu buôn to lớn nhất thế giới vào thời ấy với trọng lượng
khoảng 2.000 tấn.[45] Nếu
đem so sánh giữa nó và chiếc tàu Madre de Deus mà người Anh đánh cướp
được từ người Bồ năm 1592, chiếc Vencimento có phần lớn hơn (2.000 tấn
so với 1.600 tấn). Vì thế, nó có thể dài hơn 165 ft (50m) và rộng hơn
47 ft (14.5m).[46] Số
lượng hàng hóa chứa trên tàu lên tới 120.000 cubic feet.[47] Nó
được chỉ định là tàu chỉ huy dưới quyền Hạm Trưởng Bá Tước Feira,
người đã được bổ nhiệm đến Goa làm chức Thống Đốc. Nhiệm kỳ của
ông sẽ là ba năm. Dựa theo hành trình, nếu mọi việc đều ổn thoả
đoàn tàu buôn của ông sẽ đáp bến thuộc địa Goa trong vòng tháng 9 hay
tháng 10 năm 1608. Ông Jean Mocquet được mời theo làm tùy tùng viên của
Bá Tước Feira. Hạm đội này gồm có 5 chiếc tàu buôn to (carrack) được
hộ tống bởi 7 chiến thuyền (galleon) trang bị đầy đủ bằng súng đại
bác thời ấy và 2 chiếc thuyền chuyên chở thực phẩm (urcas)[48].
Trong thời gian này trong lịch sử, nước Bồ Đào Nha đang bị Tây Ban Nha
cai trị và vì thế, đang lâm vào chiến tranh với nước Hòa Lan và Anh
Quốc. Các tàu chiến của hai nước này thường phục kích hải thuyền
của nước Bồ tại các hải đảo như Azores, São Tóme, São Helena,[49] hay
Mozambique, những nơi có thể cung cấp nước ngọt và thức ăn cho hạm
đội thủy quân Bồ. Vì thế, nếu thời tiết thuận lợi và không gặp trở
ngại trên hành trình, họ sẽ cố gắng không dừng lại nơi nào.
Sau đây là bảng tóm tắt cuộc hành trình của
tàu Vencimento (và một số thuyền khác) đến Goa và Macao (Hãy xem Bảng
2):
Ngày |
Địa Điểm |
Biến Cố |
28 tháng 3, 1608[50] |
Lisbon |
Hạm đội gồm có 5 tàu buôn lớn, 7 chiến
thuyền và 2 thuyền cung cấp. Tám tu sĩ nhà Dòng Chúa Giêsu trên
chiếc Vencimento. Hạm đội chỉ huy bởi Bá Tước Feira. |
9 tháng 5, 1608[51] |
Xích Đạo |
Bá Tước Feira bị sốt; sau 6 ngày qua đời. Xác
ngài được thuyền cung cấp David mang về Lisbon. |
29 tháng 9, 1608[52] |
Đảo Mozambique |
Vencimento cùng ba chiến thuyền dừng chân ở
Mozambique trong 5 tháng. |
20 tháng 3, 1609[53] |
Đảo Mozambique |
Vencimento cùng ba chiến thuyền rời Mozambique. |
26 tháng 5, 1609[54] |
Goa |
Vencimento cập bến Goa, Ấn Độ. |
Khoảng tháng 5, 1611 hay 1612[55] |
Macao |
Sau 3 năm học xong lớp triết lý, Pina đón
thuyền đi Macao. Khoảng 2 tháng sau, anh cập bến Macao. |
Bảng 2 -Tóm Tắt Chuyến Hải Hành của Cha Pina
Vào ngày 29 tháng 3 năm 1608, sau khi Bá Tước
Feira ra lệnh khởi hành (Hãy xem Hình 6).
Trên tàu chỉ huy Vencimento, tiếng súng nổ vang
rền, ra hiệu rời bến. Hạm đội bao gồm 14 chiếc thuyền, lần lượt ra
khơi nhắm về cửa biển Targus. Hàng năm, các tàu buôn nước Bồ thường
xuất hành khoảng thời gian này để qua Ấn Độ để mua các gia vị. Kể
từ khi đánh chiếm được thành phố Goa và tách rời nó khỏi Ấn Độ từ
năm 1510, Bồ Đào Nha chiếm độc quyền trong việc buôn bán và phân phối
gia vị ở Âu Châu. Nước Bồ trở nên hùng mạnh hơn. Một mặt khác, dưới
sự bảo trợ của Đức Giáo Hoàng và vua Bồ, các tu sĩ Dòng Chúa Giêsu
được phép lên đường qua Ấn Độ sang Nhật Bản, Trung Quốc để truyền
giáo.
Có lẽ giống như trong chuyến hành trình của Cha
Matteo Ricci (1552-1610) vào năm 1578,[56] là
những nhân vật được trọng vọng trong xã hội, tám vị nhà Dòng Chúa Giêsu
có thể được trao cho hai phòng ngủ rất nhỏ bé - mỗi phòng chỉ
khoảng 8 ft x 10ft[57] và
trong đó có kê 4 cái giường nhỏ[58] cho
bốn vị tu sĩ, nhưng có cửa sổ hướng ra mặt biển ở phía sau thuyền.
Đây là một vinh dự cho các ngài vì họ được đối xử như những vị sĩ
quan quan trọng trong bộ chỉ huy của hạm trưởng. Nhưng ông Mocquet không
được nhiều trọng vọng như thế. Là một thường dân, giường của ông là
một tấm nệm rơm mà ông mang theo được đặt trên boong tàu.[59] Đêm
về, chiếc màn của ông là bầu trời bao la đầy trăng sao sáng tỏ. Không
những vậy, mỗi ngày ông phải chìa tay xin khẩu phần thức ăn như bao
nhiêu hành khách khác mà thuyền trưởng đã phân phát. Tối ngủ, nằm
trên boong tàu, ông cũng như nhiều người khác phải chịu cảnh mưa đổ
xuống bất chợt khi con thuyền dọc theo bờ biển phía tây Phi Châu. Khác
hẳn với ông Mocquet, các tu sĩ được quyền mang theo thức ăn, rượu vang
và nước uống riêng lên tàu. Nhưng đây cũng là một gánh nặng vì phòng
ốc quá chật chội, các ngài phải chứa chất nào chai, thùng lẫn bao
khắp phòng và ngập lên như núi. Nhiều quá đến nỗi các ngài phải len
lỏi bước đến chiếc giường cỏn con chỉ vừa vặn cho một thân người
nằm. Về đêm, duỗi chân có phần rất khó khăn vì chiếc giường con quá
ngắn. Người nào có chân dài sẽ đụng cả lên đầu người nằm kế bên.
Không những vậy, đêm xuống chuột chạy nhảy tứ tung tìm thức ăn trong
phòng; nó leo cả lên người đang nằm trên giường mà không một chút mấy
sợ hãi.[60]
Có lẽ trong ngày đầu mọi người đều hăng hái
chen lấn nhau trên boong tàu để ngắm vẻ đẹp thiên nhiên, bao la và hùng
vĩ của biển cả. Đối với nhiều người như Pina, là dân sống miền núi
non, có lẽ anh chưa bao giờ được đi biển cả. Chẳng bao lâu, gió căng
buồm, thổi mạnh, con thuyền vượt sóng biển lướt lên trước. Ra khơi
khung thuyền bắt đầu chòng chành, thuyền lắc lẻo theo sóng làm mọi
người cảm thấy không đứng vững. Mặt mày choáng váng. Bụng bắt đầu
muốn ói mửa. Một số người may mắn đứng vịn thành tàu, nghiêng người
hướng ra biển. Sau khi mửa xong, tuy bụng đã cạn, nhưng đầu óc vẫn
còn quay cuồng. Tội nghiệp thay cho những người đứng hay ngồi giữa
lòng tàu, họ không thể kiềm chế được bao tử và bắt đầu ói mửa toé
lên quần áo của người bên cạnh. Cảnh hổn độn, kêu la và chửi bởi
ngập trời không thể diễn tả được.[61]
Đoàn tàu buồm hùng vĩ nối đuôi nhau về hướng Nam, Tây-Nam nơi mà họ sẽ đi qua quần đảo Madeira trước tiên (Hãy theo dõi hành trình của hạm đội trong Hình 7).
Sau 4-5 ngày, nhìn xa xa cảnh hùng vĩ của nước
và núi non, mọi người biết mình đã đến gần quần đảo này. Từ đây,
theo làn gió thổi mạnh, những con thuyền lần lượt vượt trùng dương
bỏ lại phía sau mỗi ngày một xa hơn. Theo tục lệ hải hành vào thời ấy,
khi qua khỏi quần đảo Madeira, hạm đội không cần cấu kết thành một
đội hình mà có thể tiến hành một cách riêng rẽ. Trên tàu, nhìn qua
hông tàu, ông Mocquet nhận ra chiến thuyền Bom Jesus đang rẽ sóng thật
nhanh, vượt qua chiếc Vencimento và mất hút ở cuối chân trời. Thương
thay, mấy tháng sau, khi gặp lại nhau thì nó chỉ còn lại cái vỏ
cháy nám, trôi nổi vô định trên vùng biển Mozambique.[62]
Dựa theo tiến trình gần 100 năm nay, người Bồ
có thể tự tin đã quen thuộc với con đường biển đi qua Goa để mua gia
vị. Nói chung, khi rời hải cảng Lisbon, đoàn thuyền buôn và chiến
thuyền hộ tống sẽ theo dòng nước ngầm Canary chảy xuống phía nam.
Dòng nước này sẽ di chuyển bên cạnh ba quần đảo: Madeira, Canaries và
Cape Verde. Dựa theo chiều gió thổi, buồm sẽ căng ra. Thuận theo dòng nước
biển Canary, thuyền theo gió đẩy thẳng họ xuống phía nam dọc theo bờ
biển Phi Châu, gần Vịnh Guinea. Tuy nhiên, khi đến Cape Verde, dòng nước
ngầm Canary sẽ chia ra làm hai ngả; một nửa sẽ đi về hướng tây và
sát nhập với dòng nước ngầm Bắc Xích Đạo (North Equatorial Current) -
Dòng nước này đi về phía tây, tây-bắc theo chiều kim đồng hồ. Trong
khi đó, một nửa kia được đổi tên là dòng nước ngầm Guinea tiếp tục
chảy dọc theo bờ biển các nước như Senegal, Gambia, Sierra Leon, v.v...
chảy thẳng xuống Vịnh Guinea. Điều đáng lo ngại là sau khi qua khỏi
Cape Verde, khí hậu cũng bắt đầu thay đổi hẳn. Nhiệt độ cũng như độ
ẩm thấp bắt đầu gia tăng.
Khi họ vượt qua khỏi Cape Verde, còn cuộc hành
trình kế tiếp, vị thuyền trưởng không còn tự tin tài năng của mình
cho lắm. Kế tiếp là khu vực biển ảm đạm (doldrum) nằm giữa hai đường
vĩ tuyến số 5 bắc-nam bao gồm cả đường xích đạo. Trong khu vực này
thường thường không có gió hay rất ít gió. Những tàu buôn to lớn như
Vencimento gặp rất nhiều khó khăn để vượt qua khỏi khu vực này. Kinh
nghiệm hàng hải cho thấy con tàu đã tiến vào khu vực biển này rồi
thường lẩn quẩn trong đó rất lâu, đến 2 tháng trời mới có thể lèo
lái ra khỏi. Điều đáng ngại nhất là ở đây khí hậu cũng bắt đầu
thay đổi; không khí trở nên nóng bức và ẩm thấp. Hầu như cách mỗi
giờ đều có mưa to, gió lớn; trời đất mù mịt trong bóng đêm. Thêm vào
nữa, cuộc sống chen chúc trên tàu thiếu vệ sinh nên gây ra bệnh tật
khắp nơi[63].
Nhận định rằng tình trạng của hành khách trên tàu đang trong hoàn
cảnh hiểm nghèo, Bá Tước Feira phải đưa ra một quyết định một cách
nhanh chóng. Hiện tại, ông có ba sự lựa chọn: thứ nhất, quay đầu
thuyền trở về Lisbon; hay, thứ hai, sau khi vượt qua đường quỹ đạo, cố
gắng đưa con thuyền ra khỏi vùng biển chết này bằng cách cố gắng
lái nó về hướng nam, tây nam. Dựa theo dòng nước ngầm có tên là dòng
nước ngầm Nam Xích Đạo (South Equatorial Current) đang chảy ngược chiều
kim đồng hồ dọc theo bờ biển Brazil, họ sẽ bắt theo dòng nước ngầm
này và theo chiều gió đưa con tàu về phương nam. Sau khi gần đến cửa
biển Rio da Plata, con tàu sẽ quay về hướng đông nhắm thẳng về Mũi
Hảo Vọng. Đối với người Bồ, con đường thủy này rất phổ thông vào
thời ấy và được gọi là Đường Vòng Ngoài (Volta do Mar). Đây là con
đường nhanh nhất để cặp bến Mozambique cho đúng kỳ hạn trong khoảng
đầu tháng 8. Nếu được như vậy, Vencimento sẽ còn đủ thời gian và
thuận chiều gió Nồm thổi qua biển Ẩn Độ từ hướng tây nam để đi về
Goa. Nếu không, họ phải cập bến ở Mozambique và phải chờ đợi ở đó
đến mùa xuân sang năm mới có thể khởi hành đến Goa, Ấn Độ. Sự lựa
chọn thứ ba là dùng con đường mà nhà thám hiểm Bartholomeu Dias
(1450-1500) đã khám phá ra con đường biển từ Lisbon xuống Mũi Hảo
Vọng để bắt qua Ấn Độ Dương. Con đường thủy này được gọi là Đường
Vòng Trong (Rota do Mar). Sự khác biệt giữa Vota do Mar và Rota do Mar
là con tàu, khi đến gần đường Xích Đạo, sẽ xuôi thuận theo dòng nước
ngầm Xích Đạo Ngược (Equatorial Countercurrent) cùng với dòng nước
Guinea hiện diện trong Vịnh Guinea đẩy nó chạy thẳng về hướng đông,
ven sát theo bờ biển[64].
Sau đó, để ra khỏi vùng ảm đạm và vịnh Guinea một cách nhanh chóng,
con tàu sẽ nương theo bờ biển, đi về hướng nam, ra khỏi vùng biển
không gió. Bắt đầu khoảng vĩ tuyến 5, phía nam, cơn gió sẽ khơi dậy.
Mặc dù đi ngược dòng với gió và dòng nước ngầm Benguela – Nó là
một dòng nước đẩy mạnh từ phía nam lên bắc dọc theo bờ biển phía
tây Phi Châu - con tàu giờ đây có thể thoát ra khỏi khỏi vùng ảm đạm.
Nhưng sự nguy hiển gần kề sắp đến nữa là khi thuyền đi ngang qua Mũi
Hảo Vọng, tất cả mọi người phải đương đầu với sóng to, gió lớn có
thể đập tan con tàu của họ ra nhiều mảnh vụn.
Vào ngày 9 tháng 5, tương đối một cách nhanh
chóng, cuối cùng Vencimento cũng tiến đến đường xích đạo. Nhưng điều tất
cả mọi người không thể ngờ được là sau 6 ngày nóng sốt, Bá Tước
Feira đã qua đời. Đồng thời, trên boong tàu vô số người ngã gục vì
bệnh hoạn - Theo lời Ông Mocquet kể lại, cứ mỗi lần có người mất,
thủy thủ phải tẩm liệm và bỏ 3 hay 4 xác người xuống lòng đáy
biển.[65] Riêng
về Bá Tước Feira, chính Ông Mocquet tẩm liệm và chuyển xác ngài qua
con tàu cung cấp David[66] để
được chở về Lisbon. Nếu tính theo tỉ lệ tử vong này, giả sử trên
tàu, mỗi ngày họ tổ chức hai lần thủy táng, con số tử vong trong
vòng hai tuần sau khi tiến đến đường xích đạo có thể lên đến 80-110
người[67].
Tuy nhiên, đây chỉ là con số người đã mất. Con số người bị bệnh nói
chung sẽ cao hơn rất nhiều. Có thể con số người bệnh này, theo tôi
nghĩ, lên đến phân nửa số người trên tàu chỉ trong vòng hai tuần lễ
vào đầu tháng 5.
Đứng trước hoàn cảnh khó xử, có lẽ vì số
người bệnh và chết quá cao, vị hạm đội trưởng mới được bổ nhiệm
Christovão de Noronha,[68] thay
thế cho Bá Tước Feira đã quyết định tiếp tục cuộc hải trình theo
sát bờ biển phía Tây Phi Châu.[69] Đã
quyết định như thế, ông đã phủ quyết lời khuyên can của một số sĩ
quan trong bộ chỉ huy của ông. Họ muốn quay mũi thuyền mà trở về
Lisbon. Trong sách, ông Mocquet cũng chống đối quyết định này mà ông
cho là sai lầm.
Trong thế kỷ 17, kỹ thuật hải hành còn rất
kém. Tuy có thể dùng Sextant để đo vĩ độ[70],
họ vẫn chưa phát minh ra một dụng cụ để tính kinh độ[71].
Vì không rõ kinh độ, thuyền trưởng sẽ không thể biết được vị trí con
tàu của mình ở đâu. Trong hành trình, họ cũng rất lo ngại hải tặc
đang hoành hành từ các quốc gia như Pháp, Anh và Hòa Lan đang rình
rập đón chờ họ ở một hòn đảo nào đó. Thêm vào nữa, vì kỹ thuật
tiên đoán thời tiết kém cỏi, khi hạm đội dự trù ngày tháng khởi
hành, họ chắc chắn đã không dự trù cho thời tiết dọc theo bờ biển
Phi Châu, nhất là ở vùng Sierra Leone. Họ đã không biết rằng khoảng đầu
tháng 5,[72] sau
khi tiến vào khu vực ảm đạm, thời tiết bắt đầu thay đổi và xấu đi.
Cơn gió thổi căng phồng các buồm bỗng dưng biến mất. Mấy chiếc buồm
rũ xuống như ngọn lá tàn. Thay thế vào đó là cảnh nóng bức ray
rứt, khó chịu vô biên[73].
Mồ hôi họ bắt đầu đổ ra từng giọt. Nhiệt độ ngoài khơi tuy không cao
cho lắm, khoảng 85-88 độ F, nhưng ánh nắng chói chang của mặt trời
lúc nào cũng ập trên đầu họ. Cộng vào đó, độ ẩm bắt đầu gia tăng
lên hơn 70%.[74] Thêm
vào nữa, thời tiết thường thay đổi bất chợt. Cách mỗi giờ trong
ngày, trên đầu mây đen cùng nhau kéo đến bao phủ khắp khung trời. Cơn
gió biển bất chợt lùa vào khoang thuyền khiến hành khách cảm thấy
dễ chịu. Nhưng không bao lâu, trận mưa nóng, bẩn thỉu ào ạt rơi lên
đầu tóc và quần áo của hành trách đứng trên boong tàu. Trên trời,
sấm sét xoé nhòa màn trời đen với nhiều tiếng nổ vang rền. Nhìn
cảnh tượng vang rền, sáng rực cả bầu trời, cho đến bây giờ họ bắt
đầu run sợ trước sức mạnh của thiên nhiên và lo sợ cho tính mạng của
mình. Mặc dù gió tiếp tục rít lên từng hồi, nhưng những cơn mưa xối
xả này quá ngắn, không đủ làm căng buồm được. Trên boong tàu
Vencimento, mấy trăm người đứng đó chịu trận vì không nơi trú ẩn.
Tuy tiến vào Vịnh Guinea thì dễ nhưng còn đi ra
khỏi thật là khó khăn vì phía nam của vịnh là dòng nước chảy ngược
Benguela từ phía nam đẩy thẳng lên phía bắc, dọc theo bờ biển phía
tây Phi Châu. Vận tốc con tàu sẽ rất chậm hướng về Mũi Hảo Vọng vì
phải chống chọi với cơn gió ngược thổi lên từ hướng đông-nam và cả
dòng nước ngầm Benguela. Còn một điều tai hại hơn nữa là, nếu một
khi đã chọn lựa con đường này, một điều chắc chắn là chiếc
Vencimento sẽ không thể đến đúng hẹn với các thuyền buôn khác mà
phải trễ hơn. Theo lời ông Mocquet kể lại, Vencimento cập bến Mozambique
vào ngày 29 tháng 9.[75] Khi
đã trễ như thế, chiếc tàu buôn sẽ ngừng chân tại Mozambique vài
tháng, thay vì khoảng hai tuần mà thôi, và phải chờ gió Nồm thổi lên
từ hướng tây-nam về hướng Ấn Độ - Thường thường cơn gió mùa này bắt
đầu thổi vào tháng 4 hay tháng 5 mỗi năm.
Tuy nhiên, trong
hạm đội khởi hành năm 1608 có hai chiếc tàu mà tôi biết chắc chắn
đã theo hành trình dọc theo bờ biển Brazil vì khác hẳn với
Vencimento, chúng cặp bến rất đúng ngày giờ tại Mozambique hay Goa. Tôi
muốn nói đến hai chiếc Bom Jesus và Oliveira. Vì cập bến Mozambique
đúng ngày giờ trong tháng 8, chiếc Bom Jesus lọt vào ổ phục kích của
tàu chiến Hòa Lan. Tương tự như thế, chiếc tàu buôn Oliveira, khi đến
gần Goa bị chặn đường bởi ba chiếc tàu chiến Hòa Lan. Biết mình khó
lòng chống cự, thuyền trưởng của Oliveira ra lệnh đốt tàu để nó
khỏi lọt vào tay người Hòa Lan. May mắn thay, các thuyền buôn như Vencimento,
Bartholomeu, Antonio và Jeronimo vì theo một hành trình khác dọc theo
bờ biển phía tây Phi Châu nên đã lẫn tránh được cuộc phục kích đẫm
máu này. Đến mãi cuối tháng 9, những thuyền buôn này lần lượt đáp
bến Mozambique mà không phải chạm trán thủy quân phục kích của quân
thù nghịch - Lúc này, người Hòa Lan đã dời hạm đội của mình đến
Goa. Nếu các con thuyền này theo đúng lịch trình thì giờ đây
lịch sử Việt Nam cũng có thể không biết Francisco de Pina là ai nữa.
Theo ông Mocquet, mùi hôi thối là do những cơn mưa
nóng gây ra. Có lẽ cát bụi từ Sa Mạc Sahara bị bốc lên khí quyển,
trộn trong không khí, rồi rơi xuống thành mưa bùn. Hòa trộn trong cát
bụi có cả trứng côn trùng. Khi cơn mưa bẩn thỉu tắt hẳn, thật tội
nghiệp cho những hành khách đứng trên boong tàu. Lúc đầu, họ cũng
chịu khó thay quần áo. Nhưng khi quần áo không còn đủ dùng, như ông
Mocquet đã trình bày, họ chỉ có thể đứng đó hứng nước mưa bẩn thỉu
rơi trên người. Thêm vào nữa, mùi nồng nặc cũng do sự thiếu vệ sinh
ngay từ chiếc tàu mà ra. Ngày xưa, người Bồ sống không được vệ sinh
cho lắm. Giáo Sư C.R. Boxer (1904-2000) cho biết họ không dùng nhà vệ
sinh trên tàu, mà dùng bô vệ sinh người Bồ mang theo bên người. Thêm
vào nữa, thức ăn họ mang theo bắt đầu bị mốc hay lên men. Đến nỗi
nước đựng trong thùng cũng lên mùi ẩm thấp. Trước khi uống, họ phải
lấy khăn bịt mũi vào để khỏi ngửi mùi mốc bốc lên. Thịt heo muối
cũng phải vứt đi xuống biển vì không thể ăn được nữa. Ghê gớm hơn
nữa là trong nước mưa chứa đựng trứng của các con côn trùng. Sau cơn
mưa, trứng nở ra thành những con ấu trùng, cựa quậy tứ tung ngay trên
quần áo, trên thức ăn phơi trên thành tàu hay trên những vũng nước nhỏ
đọng lại trên boong tàu.[76]
Sáu tháng sau, khi đáp bến ở Mozambique, vị Linh
Mục Phanxicô phục vụ trên Vencimento nói cho ông Mocquet biết rằng từ
lúc rời Lisbon hiện tại tổng số người tử vong trên tàu lên đến 735.
Theo lời vị Giáo Sĩ này, hiện nay mỗi ngày có cả 10-15 người bị
thiệt mạng.[77] Nếu
con số này chính xác, Vencimento đã mất rất nhiều hành khách do bệnh
tật mà ra. Hiện giờ số người còn sống trên tàu chỉ còn lại 165
người.[78] Nhưng
chúng ta biết người sống sót trên Vencimento có ông Mocquet, 4 tu sĩ
trẻ Dòng Chúa Giêsu, bộ chỉ huy hạm đội, một số hành khách, thủy
thủ và binh lính trên tàu. Nếu chúng ta dùng con số tử vong của ông
Mocquet đã nêu lên trước đây, đó là 3 hay 4 người chết mỗi ngày trong
vùng ảm đạm, khi con tàu đến được Mozambique, tổng cộng con số tử
vong có thể lên đến 720[79] người.
So sánh giữa hai con số này (735 so với 720), lời nói của vị Giáo Sĩ
rất đáng tin cậy. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng, số tử vong không phải
ngừng lại sau khi họ dừng chân trên đảo Mozambique, mặc dù con số này
sẽ giảm thiểu dần dần theo thời gian 5 tháng họ sống trên hòn đảo
thiếu thốn này. Vì thế, con số người còn sống sót trên Vencimento
đáng lẽ ra phải ít hơn 165 người. Nhưng dựa theo ông Francois Pyrard,
một nhà thám hiểm khác từ Pháp, bắt đầu có mặt ở Goa vào năm 1608,
số người còn lại trên mỗi chiếc thuyền buôn cặp bến ở Goa, Ấn Độ
trong năm 1609 chỉ có khoảng 300 người[80] mà
thôi. Điều là cho thấy những hành khách từ các tàu bị đánh đắm hay
mắc cạn đều được bổ xung lên các các tàu buôn còn lại.[81]
Lúc này, có lẽ cũng vào cùng thời gian Bá
Tước Feira qua đời, hai Giáo Sĩ thâm niên Dòng Chúa Giêsu bị bệnh dịch
mà mất. Riêng về Cha Vieira, trong cuốn sách Momenta Missionum Societatis[82] đã
viết một câu ngắn gọn về ngài:
“Vieira, P. Nicolaus from death on the trip from
kingdom to India; [1608], the Japan Mission work.”
Tạm dịch:
“Vieira P. Nicolaus đã mất trong chuyến hành
trình đến Ấn Độ [1608], sứ mệnh khai đạo ở Nhật Bản.”
Còn số phận của Cha Rodrigues thì tôi không rõ
cho lắm. Hiện giờ, tuy cố gắng, tôi vẫn chưa tìm được chút tài liệu
về ngài. Tôi nghĩ ông ấy đã mất trong mùa dịch trên.
Tương tự như thế, tôi đã không tìm thấy một tài
liệu nào về hai người bạn đồng hành của Pina, đó là hai anh Bernado
Luis và Francisco Ferraz. Có lẽ họ cũng mất rồi chăng? May mắn thay.
Bốn người thanh niên khác trong Dòng Chúa Giêsu vẫn còn sống sót, đó
là các Giáo Sĩ Borges, Giáo Sĩ Lopes, Semedo và Pina. Cha Borges sau
này về Macao trở thành Viện Trưởng (Rector) của trường đại học Saint
Paul. Sau đó anh được chuyển qua Nhật Bản hành đạo, nhưng bị bắt và
xử bằng cách chổng ngược đầu xuống hố phân.[83] Trải
qua vài ngày trong tình trạng đó, anh đã tử đạo (năm 1633)[84].
Sau khi học xong thần học, Cha Lopes cũng phục vụ tại Macao và cuối
cùng giữ chức vụ Giám Học của Nhà Tập và cũng là Giáo Sư
Thần Học ở Macao. Anh mất năm 1627[85].
Còn Semedo, sau khi học xong, được chuyển qua Trung Quốc tham gia nhóm
truyền giáo nơi ấy với chức vụ cao nhất là Phó Giám Tỉnh (Vice
Provincial). Anh mất năm 1658.[86] Kể
từ năm 1614, tình hình truyền giáo ở Nhật Bản đang rối ren nên Pina
không được bổ nhiệm về đó. Vào năm 1617, anh được chuyển về Đàng
Trong, phục vụ dưới quyền Cha Buzomi và do tai nạn, anh mất cuối năm
1625.
Trong tình trạng kiệt quệ về sức khoẻ lẫn tinh
thần, lại mất đi hai vị Giáo Sĩ Hướng Dẫn, tôi biết chắc rằng cuộc
sống gò bó, bệnh tật và chết chóc trên tàu không dễ chịu cho lắm
đối với bốn vị Giáo Sĩ trẻ tuổi của chúng ta. Lịch sử Dòng Chúa
Giêsu cũng cho biết trong lúc này, bỗng nhiên họ được quen biết với
hai người sĩ quan thuộc dòng quí phái tên là Bernardo Pereira
(1588-1624) và Rui d’Ameida.[87] Pereira
ngỏ ý tham gia vào Dòng Chúa Giêsu, còn Ameida muốn trở thành một tu
sĩ dòng Augustinô. Sau khi học xong ở Goa và trở thành Giáo Sĩ, vào
năm 1624, Cha Pereira cùng Cha Francisco Machado (1588-1624) cố gắng xâm
nhập vào Ethiopia giảng đạo, nhưng cả hai bị bắt và tử đạo.
Phần còn lại của chuyến hải hành tốt nhất là
nên được kể lại từ chính ông Mocquet, người từng trải trên con tàu
Vencimento. Sau đây là những mẫu chuyện được kể lại trong sách của
ông:[88]
“… because fever with great kidney pain took me so
that the badly lasted almost the whole trip. After that, that was not all,
because I still had this incovenient and dangerous lovende disease that the
Portuguese otherwise call beriberi, and the Dutch scurvy, which turned my blood
black and putrid: my knees were so narrowed, that I could not extend my hips;
my black thighs and legs are blackened and gangrened, and I was forced to cut
myself every day to bring out this bad black rotten blood. I also cut my gums
which were livid and overcoming my teeth, going every day on the edge of the
ship from outside, holding on to the ropes with a small mirror in hand to see
where I had to cut off: then when I had pulled that dead flesh and made a lot
of black blood, washing my mouth and teeth of my urine, rubbing them hard: but
that being done, the next day there was everything sometimes as much and more.
And (the) misfortune was that I could not eat, desiring more to swallow than to
chew, for the great pains we receive from this unfortunate evil. I have found
no better remedy than to use strong syrup of gilliflower, and astringent
gargles with good red wine. Strength of our people died every day, and could we
not see anything other than throwing bodies into the sea, three and four at a
time, and most of them still dead without help, behind some chest, the eyes and
plants of the feet eaten by rats. Others were found dead in their beds, after being
bled, and moving their arms, the vein reopened and their blood coming to flow
they fell in reverie of hot fever, thus dying without any help. It was only
cries of great thirst and alteration. Because very often after having received
their provision, which could be pint of water, putting it near them to drink
when thirsty, their companions around them, and others even further away, came
to steal this little water of these poor sick people asleep or turned to the
other side. And even being under the deck in a dark place, they hit each other
and beat each other without seeing each other; when they realized someone was
about to sleal their water. Deprived of water, and for lack of a small drop,
they died miserably without anyone wanting to rescue them from a little, not
the father to the son, nor the brother to the brother, so much the desire to
live by drinking near or each in his own. I was very often thus disappointed
and frustrated with myself, but I comforted myself seeing so many others like
me in the same situation: It was also the cause of not to dare to sleep too
much, and put my water in place that one could not take it easily without me to
realizing it.”
Tạm dịch ra là:
“Bởi vì sốt với cơn đau thận dữ dội đã khiến tôi
yếu lả kéo dài gần toàn bộ chuyến đi. Sau đó, không chỉ thế thôi, bởi vì
tôi vẫn mắc phải căn bệnh Lovende phiền phức và nguy hiểm này mà người Bồ Đào
Nha thường gọi là Beriberi, và bệnh Ghẻ Lở (scurvy) Hòa Lan, khiến máu tôi
trở nên đen và thối rữa: đầu gối của tôi bị xếp vào, đến nỗi tôi không thể
kéo dài chân tay ra được; Đùi và chân của tôi bị nám đen và sần sùi, và tôi
buộc phải tự cắt mình mỗi ngày để đưa vết máu thối đen bẩn thỉu ra. Tôi cũng
cắt lợi phồng hết lên trên răng của mình, đi hàng ngày trên mép tàu từ bên
ngoài, giữ chặt dây thừng với một chiếc gương nhỏ trong tay để xem chỗ nào
tôi phải cắt bỏ: sau đó khi tôi đã kéo thịt chết đó và cắt ra rất nhiều máu
đen, rửa miệng và răng bằng nước tiểu của tôi, chà xát mạnh: nhưng điều đó đã
được thực hiện, ngày hôm sau còn làm nhiều hơn thế nữa. Và (điều) bất hạnh
là tôi không thể ăn, chỉ tập trung vào nuốt xuống cho thật nhanh, không
cần phải nhai, vì mỗi lần như thế rất là đau. Đó là những nỗi đau lớn
mà mình phải chịu đựng từ điều bất tiện đáng tiếc này. Tôi đã tìm thấy
không có biện pháp khắc phục tốt hơn là sử dụng xi-rô mạnh của hoa gilly, và
thuốc súc miệng với rượu vang đỏ tươi. Nhiều người trong số chúng tôi đã chết
mỗi ngày, và chúng tôi không thể làm gì khác ngoài việc ném xác họ xuống biển,
ba và bốn người một lúc, và hầu hết trong số họ đã chết mà không có sự giúp đỡ,
đằng sau ngực, mắt và lòng bàn chân của ho đã bị chuột gặm nhấm. Còn
những người khác đã chết ngay trên giường của họ, sau khi bị lấy máu độc ra.
Khi họ di chuyển cánh tay của họ, vết thương lại bong ra khiến máu chảy ra
nữa. Họ còn rơi vào tình trạng nóng sốt nữa. Do đó, họ chết trong thầm
lặng mà không có bất kỳ sự giúp đỡ nào của ai. Nếu có chỉ là tiếng rên rỉ của
sự khát khao và để ý. Bởi vì rất thường sau khi nhận được phần thức ăn của
họ, có thể là nửa lít nước, đặt nó gần họ để uống khi khát, những người bạn đồng
hành xung quanh họ, và những người khác thậm chí xa hơn, đã đến để ăn cắp ít nước
khi những người bệnh khốn khổ này đang ngủ hoặc quay sang phía khác. Và ngay
cả khi ở dưới lòng tàu trong một nơi tối tăm, họ đánh nhau và đánh nhau mà
không thấy nhau, khi một người nào đó ăn cắp nước của họ. Vì thường
xuyên bị thiếu nước, và ngay cả một giọt nhỏ, họ đã chết một cách thảm hại mà
không ai muốn giải cứu họ một chút nào hết, không phải cha cho con trai, cũng
không phải anh trai với em trai, rất nhiều mong muốn được sống bằng cách uống
lén hoặc uống một mình. Tôi thường xuyên thất vọng với quy tắc của mình,
nhưng tôi tự an ủi mình với rất nhiều người khác như tôi: Đó cũng là nguyên
nhân khiến tôi không dám ngủ quá nhiều, và đặt nước vào vị trí mà người ta
không thể dễ dàng lấy mà tôi không biết."
Các Căn bệnh Trên Tàu Vencimento
Phân tích từ những lời trình bày của ông
Mocquet, chúng ta có thể nhận thấy rằng trên chiếc tàu Vencimento,
bệnh dịch lan tràn thường xảy ra rất nhanh chóng trong một khung cảnh
chật hẹp, thiếu vệ sinh như trên chiếc Vencimento. Có lẽ lúc ấy, cả
thức ăn và nước uống đều bị ô nhiễm bởi vi trùng. Theo lời kể lại
từ ông Mocquet, các hành khách từ lúc bị nhiễm trùng và thiệt mạng
rất nhanh, trong khoảng một tuần lễ như Bá Tước Feira. Vì ông Mocquet
không cho thêm chi tiết những triệu chứng khác từ bệnh của ông, ngoài
triệu chứng nóng sốt, chúng ta chỉ có thể tiên đoán là ông bị bệnh
Thương Hàn (typhoid) hay Kiết Lỵ (Dysentery). Đây là hai bệnh dịch rất
phổ thông trên những con tàu chứa nhiều người mà vệ sinh không được
giữ gìn. Khi bệnh nhân lên cơn sốt, họ có thể rơi vào tình trạng mê
man. Vì đầu óc không tỉnh táo, nếu không bị ngăn cản, họ có thể tự
quăng mình vào biển cả bất cứ lúc nào.
Ông Mocquet còn nhắc đến bệnh thiếu sinh tố B1
(thiamine) gọi là Beriberi. Dựa theo lời kể của ông, hạ bộ của ông
như: chân, bắp đùi bị teo lại. Đầu gối của ông đều rất mệt mỏi, rã
rời và không theo sự điều khiển của ông nữa. Đi đứng trở nên rất khó
khăn cho ông. Đây là triệu chứng của bệnh Beriberi Khô ảnh hưởng đến
thần kinh của bệnh nhân. Còn nếu bệnh nhân nào bị Beriberi Ướt, chân
tay họ có thể bị sưng phù gây ra khó khăn trong việc đi lại. Có vẻ
như ông Mocquet không bị sưng chân. Điều này có thể nói lên rằng ông
không bị Beriberi Ướt.
Ông Mocquet cũng kể lại rằng hàng ngày ông cố
gắng vịn thành tàu, dùng dao với một cái gương nhỏ ra thành tàu,
kéo chân lợi và cắt bớt những chỗ nám đen gây ra bởi bệnh Scurvy.
Cắt xong, ông súc miệng bằng nước tiểu. Ông cũng nhắc đến phương pháp
chống lại bệnh sưng nám của lợi là dùng nước xi-rô, trộn với rượu
đỏ - Có lẽ ông không biết rằng rượu đỏ có tác dụng sát trùng. Ông
còn cho biết cắt bớt lợi để tiết máu khiến cho sự ăn uống của ông
rất khó khăn. Tuy vậy, cũng như tất cả những người đương thời, ông
không biết là mình bị thiếu sinh tố C. Vào thế kỷ 17, không ai biết
là Scurvy là từ đâu ra; ngay cả những bác sĩ nổi tiếng thời ấy. Họ
thường cho là chứng bệnh này là do bởi sự lười biếng của thủy thủ,
hay do sự ô nhiễm của không khí trên tàu.
Riêng hai bệnh Beriberi và scurvy mà ông Mocquet
đã trải qua cho biết kiến thức y khoa của ông vào thời ấy cũng rất
phong phú cho một thường dân. Những lời diễn tả của ông phản ảnh rất
đúng về triệu chứng cùng kết quả do những bệnh này gây ra. Đáng tiếc
là vào thời phong kiến ấy, kiến thức về y khoa và vệ sinh còn quá
thấp kém. Những phương pháp y khoa được áp dụng như trích máu hay cắt
da thịt hay lợi màu đen đều không hữu dụng, mà còn gây ra chết người
vì bệnh nhân bị mất máu quá nhiều. Một điều hiểu biết thú vị thêm
là hàng ngày việc cắt mạch máu, trích máu và cầm máu là do thợ
cắt tóc (barber) đảm nhận. Trên tàu vị này không phải là bác sĩ mà
cũng không phải là bác sĩ giải phẫu. Nhiệm vụ của ông ta là cắt
tóc và kiêm luôn cả việc trích máu cho bệnh nhân. Trên tàu, có nhiều
người vì mất máu quá nhiều, nằm một góc tàu và lả ra cho đến hơi
thở cuối cùng.
Trong thế kỷ 17, để chữa các bệnh tật, các
đại học y khoa còn tin tưởng vào học thuyết Galenism do Galen of
Pergamon (129AD - 210AD) sáng lập ra, dựa vào lý thuyết về 4 trạng
yếu, đó là máu, đờm, nước mật vàng và nước mật đen cộng với 4
thành phần thiên nhiên như không khí, nước, đất và lửa[89] để
ảnh hưởng đến 4 tính cách của con người gồm có: tính lãnh đạm,
tính buồn rầu, tính cay đắng hay tính lạc quan. Trong những tính chất
của con người này, tính chất lạc quan là điều các y sĩ muốn bệnh
nhân mình đạt được. Muốn đạt được kết quả mong muốn, theo các bác
sĩ vào thời ấy, con người phải quân bình 4 trạng yếu trong người.
Một khi, một hay nhiều trạng yếu mất quân bình sẽ gây ra bệnh hoạn.
Vì trong lúc bị bệnh, nước mật vàng hay đen và cả nước đờm là
những trạng yếu được thải ra ngoài, chúng sẽ được xem là nguyên nhân
của bệnh tật. Các y sĩ vào thời đó cũng tin rằng lúc bị bệnh, máu
của bệnh nhân chứa toàn chất độc. Để điều chỉnh, khôi phục và quân
bình 4 trạng yếu này, y sĩ chỉ còn cách lấy ra bớt máu độc trong
người bệnh nhân. Lý thuyết này được dựa vào sự quan sát từ kinh
nguyệt của người đàn bà trong tháng.[90] Trong
đầu thế kỷ 17, trích máu không chỉ là phương pháp duy nhất để chữa
bệnh. Các y sĩ còn dùng ống giác đặt vào lưng hay cho bệnh nhân uống
bột nghiền ra từ đá benzoar để chống lại bệnh sốt nặng[91].
Khi tất cả các phương pháp trên thất bại, cách duy nhất để trừ khử
máu độc không lên đến óc là xuất huyết thẳng ra từ đầu. Rất tiếc
đây cũng là phương pháp nhanh nhất cho bệnh nhân mau chóng qua đời.
Cuộc Hành Trình Vượt Qua Mũi Hảo Vọng và Eo
Biển Mozambique
Con thuyền Vencimento cuối cùng cũng đến Mũi
Hảo Vọng (Hãy xem Hình 8). Khi đi ngang qua vùng biển này, ông Mocquet
có cảm tưởng như chiếc tàu buồm khổng lồ này nhỏ bé quá. Sóng gió
nổi lên, vật vã chiếc thuyền con như đồ chơi vậy. Sóng biển ào ạt
đổ vào cả buồng tàu cao nhất. Ngồi trên thuyền, chống lại cơn mỏi
mệt; tay bám víu vào góc bàn, thanh giường hay cột buồm, cộng với
nỗi đau đớn trong miệng và khắp cơ thể, bây giờ họ mới cảm thấy gần
Thiên Chúa hơn bao giờ hết. Không cần sự khuyến khích của các tu sĩ
nhà Dòng Chúa Giêsu, họ bắt đầu lẩm nhẩm cầu nguyện cho tai qua, nạn
khỏi. Cho đến bây giờ, họ mới khám phá ra ý nghĩa của câu tục ngữ
của người Bồ: “Khi nào bạn muốn học cách cầu nguyện, bạn hãy cùng
thuyền ra khơi.” Đối với các tu sĩ như Pina, nhờ có lòng tin tưởng
Thiên Chúa, trong những lúc này, họ luôn khuyến khích giáo dân trên tàu
xưng tội vì chỉ trong tích tắc, tất cả có thể chìm dưới lòng biển
bất cứ lúc nào.
Ngồi trên tàu họ quên cả thời gian và không gian cho đến khi gió lặng, sóng yên. Qua một thời gian dài mà họ cảm tưởng như vô tận, nhìn vào thềm lục địa, các thủy thủ nhận định ra những con chim to bằng con ngỗng; màu trắng; nhưng chỉ riêng hai cánh chúng là màu đen trong khi mỏ và chân lại màu vàng.[92] Khi nhìn thấy chúng, họ đều thở dài, nhẹ nhõm vì nhận thức rằng họ qua khỏi nguy hiểm trên chặng đường này. Họ nhận thức rằng mình đã đến Mũi Agulhas, một nơi sóng lặng, gió đứng. Tuy nhiên, tất cả mọi người đều biết rằng nguy hiểm vẫn còn đang rình rập phía trước. Tiếp tục tiến bước vào ngưỡng cửa của eo biển Mozambique, đoàn chỉ huy trên Vencimento cảm thấy hồi hộp vì họ biết họ phải tranh đấu kịch liệt với dòng nước ngầm Agulhas chảy mạnh dưới lòng biển. Trong eo biển Mozambique, nó có khuynh hướng chảy về hướng nam, tây nam dọc theo bờ biển South Africa và khi chảy đến Mũi Agulhas, nó đẩy con thuyền ngược về hướng đông để trở thành dòng Agulhas Chảy Ngược (Agulhas Return Current). Vì thế, thuyền trưởng phải khéo léo sát nhập vào dòng nước chảy ngược này và cố gắng lèo lái con thuyền vào giữa ngưỡng cửa của eo biển. Rất tiếc việc hải hành lúc bấy giờ rất khó khăn. Họ không thể tính ra được tọa độ của chiếc thuyền buồm vì thiếu dụng cụ tiên đoán về kinh độ - Thật ra họ muốn giữ vị trị con tàu chính giữa bờ biển Đông Phi Châu và đảo Madagascar. Tiến bước về hướng bắc, đầu tiên họ vào vùng Natal (bây giờ là South Africa) u ám; trời mù mịt như “ban đêm”.[93] Tiếp theo đó, càng đến gần đảo Mozambique, họ lại càng phải cẩn thận hơn vì ngay giữa eo biển có vài cụm san hô như Baixos da Judia (Jewish Shoals)[94] hay João da Nova[95] nhấp nhô trên mặt nước, có thể gây ra cảnh mắc cạn bất cứ lúc nào. Vì thế, khi vào đến vùng biển từ khoảng cách Sofala (nay gần Beira) đến Mozambique, họ phải hết sức cẩn thận và cố tình tránh xa những cồn cát này (Hãy xem Hình 9).
Cuối cùng vào ngày 29 tháng 9 năm 1608[96], con thuyền Vencimento cũng đã cập bến Mozambique một cách an toàn. Đến được nơi đây đánh dấu cả 6 tháng trời, họ đã long đong trên biển cả. Trước khi đi, trên boong đầy ngập, nhưng bây giờ số người rất thưa thớt vì không kể một số người đã chết, những người bệnh rất đông và được đưa xuống hầm tàu dưới nghỉ ngơi. Nhìn quanh quẩn, cùng một thời gian, thật là may mắn, một vài chiến thuyền chiến như Bartholomeu, Antonio, và Jeronimo cũng đáp bến an toàn.
Đáp tàu xuống đảo Mozambique,[97] Pina có lẽ chứng kiến một
cảnh điêu tàn hãi hùng. Nhà cửa trên đảo, kể cả thuyền bè đánh cá
và chủng viện nhà Dòng Đa Minh phần nhiều bị cháy ra tro; những cây
dừa trồng dọc trên đảo cũng bị đốn sạch. Không ai hỏi ai, mọi người
đều biết thủy quân Hòa Lan đã dừng ở nơi này[98]. Lúc này, các vị tu sĩ trẻ Dòng
Chúa Giêsu mới nhận thức ra cảnh tàn phá của chiến tranh. Nhìn ra
biển ở hướng bắc là thành trì kiên cố São Sebastião tuy còn đứng
vững nhưng cũng loang lổ đạn pháo kích từ 1250 viên đại bác[99] bắn vào thành từ hai phía.
Điều mà Pina và tất cả những người trên tàu Vencimento nghe kể lại
là trước đây hơn hai tháng, hạm đội Hòa Lan đã tấn công thành
Sebastião - Năm ngoái 1607, họ cũng muốn chiếm thành nhưng không thành
công. Tuy thất bại trong cả hai lần tấn công, nhưng người Hòa Lan đã
gây ra thiệt hại nặng nề cho cơ sở hạ tầng trên đảo, khiến thức ăn
và nước uống trở nên khan hiếm vô cùng. Lúc bình thường, các tàu
buôn Bồ, trên con đường đến Goa, thường ghé qua Mozambique để được cung
ứng thêm nước và thực phẩm. Nhưng trong năm nay, tai ách đã đổ xuống
như thế mà không những chỉ có tàu Vencimento cần thêm đồ dùng, mà
còn cả ba chiếc chiến thuyền Bartholomeu, Antonio và Jeronimo cần thêm
cung cấp trước khi lên đường qua Ấn Độ. May thay cả bốn chiếc tàu này
đều cặp bến Mozambique hầu như cùng một lúc. Nhưng trong sách, ông
Mocquet đã viết: “Khi chúng tôi đến Mozambique, chúng tôi rất ngạc nhiên
không tìm được gì để ăn cả.”[100]
Có lẽ không riêng gì Pina mà còn ba vị tu sĩ
khác của Dòng Chúa Giêsu, đây là một cú sốc rất mạnh vào tâm khảm
của họ. Trước đây cuộc sống của họ ở quê nhà, tuy kham khổ về mặt
tinh thần trong Nhà Tập - Có lẽ lúc ấy họ rất nhớ nhà - nhưng
nhìn cảnh chết chóc và tàn phá của chiến tranh lần đầu tiên trong
cuộc đời có thể gây ra một cảm xúc khó tả. Hiện nay, ai nấy, nếu
không bị bệnh Scurvy thì cũng bị bệnh Beriberi; cả con người mệt lả;
chân đi gắng gượng. Nhưng là những tu sĩ đại diện cho Dòng Chúa Giêsu,
Pina và đồng nghiệp phải cố gắng chăm sóc cho các giáo dân được tạm
trú vào những căn lều lụp xụp xây dựng sơ sài ngoài thành, trong thành
São Sebastião hay trên chiến thuyền Jeronimo. Sự thật hiện giờ không ai
hiểu biết gì thêm về cuộc sống của 4 vị tu sĩ Dòng Chúa Giêsu ra sao
khi định cư vào thành Sebastião vì, ngoài việc trú ngụ trong thành,
họ không còn nơi nào để che mưa tránh nắng nữa. Ngoài cửa thành, nhà
cửa phần lớn đều bị thiệt hại. Nếu không có chiến tranh xảy ra,
chắc chắn rằng họ sẽ tạm dừng chân ở chủng viện của dòng Đa Minh
trên đảo. Nhưng so với hoàn cảnh của ông Mocquet, cuộc sống của các
vị tu sĩ vẫn tốt hơn vì lúc này ông Mocquet đang lang thang trên đường
phố để kiếm từng con cá khô, một hớp nước đục từ dân địa phương để
sống lây lất qua ngày. Trong thành Sebastião, hành khách của bốn
chiếc thuyền buôn đang cố gắng chờ thời gian qua nhanh cho tới mùa gió
Nồm thổi từ hướng tây-nam về hướng Ấn Độ mỗi năm vào đầu tháng tư
hay tháng 5.
Thấm thoát mà họ đã chờ được 5 tháng trời ở
Mozambique, vào ngày 20 tháng 3 năm 1609, hạm đội bây giờ chỉ còn
chiếc thuyền buôn Vencimento và 3 chiếc tàu chiến lên đường tiến về
hướng bắc. Trong thời điểm này, ngoài ra họ cũng chỉ biết số phận
của hai chiếc Bom Jesus và Consolação[101] bị
đốt cháy trong cuộc tấn công của người Hòa Lan mùa hè năm ngoái. Đó
là không tính chiếc thuyền cung cấp David phải mang xác Bá Tước Feira
trở về Lisbon trong khoảng tháng 6 vừa qua. Còn số phận các con tàu
khác ra sao, họ hoàn toàn không biết rõ. Trong nhóm tu sĩ Dòng Chúa
Giêsu vẫn sống sót gồm có những tu sĩ trẻ kể cả Pina, nhưng bây giờ
con số của họ tăng lên sáu người; họ có thêm hai người bạn đồng hành
mới, hai anh Pereira và Ameida.
Đoàn thuyền buồm nhỏ nhoi, buồn thảm thẳng
tiến về hướng bắc dọc theo bờ biển Đông Phi Châu. Họ vượt qua vùng biển
ảm đạm của đường xích đạo. Họ tiếp tục nhắm về hướng hòn đảo
Socotra nằm trong cửa biển của Biển Đỏ (Red Sea) vào ngày 7 tháng 5
và dựa vào sức mạnh và nương theo cơn gió Nồm thổi qua Ấn Độ Dương,
họ cập bến hải cảng Goa trong ngày 26 tháng 5 năm 1609.[102]
Cuối Cùng Pina và Các Tu Sĩ Cũng Xuống Tàu ở
Goa[103]
May mắn thay, họ đã nhập cảng Goa một cách bình yên (Hãy xem Hình 10).
Hình 10 - Thành Phố Goa vào năm 1596 (Jan Huyghen
van Linschoten)
Goa là một thủ đô chính thức của Đế Quốc Bồ
ở Á Châu nằm sát biển Ả Rập về hướng tây. Vào thời ấy, nó thật
là mỹ lệ, thường được gọi là “Hạt trân châu của Á Đông” và hay được
so sánh với Lisbon. Goa được chia làm hai miền: Goa Cũ và Goa Mới – Goa
Mới còn được gọi là Salcete. Vào năm 1510, Afonso Alburquerque mang quân
chiếm đóng Goa, đuổi dân quân người Hồi Giáo ra khỏi Ấn Độ. Từ đó,
người Bồ chiếm độc quyền thị trường mua bán gia vị. Ở nơi đây, tất
cả tàu buôn gia vị đều tụ tập nơi đây trước khi trở về Lisbon. Hàng
năm vào cuối tháng ba hay đầu tháng tư, vua Bồ đều mang tiền đến Goa
mua gia vị và bán ra lại thị trường Âu Châu.
Ngoài khơi, không có một dấu hiệu nào là có
sự tập kích của hải quân Hòa Lan. Tuy nhập cảng vào ngày 26 tháng 5,
họ phải chờ đến sáng hôm sau mới thật sự rời khỏi tàu. Có lẽ đây
là tập quán ở Goa vì nhà cầm quyền sẽ cần một thời gian để loan
báo cho dân chúng về chuyến hải hành bình an của hạm đội trong năm
nay. Có lẽ đến bấy giờ, dân tình cũng cảm thấy có điềm không lành về
hạm đội năm nay; đáng lẽ ra họ phải đáp bến vào tháng 9 hay tháng 10
năm ngoái. Nhưng trong năm nay mãi cuối tháng 5 mới thấy sự hiện diện
của họ. Cũng như những năm trước, dân chúng trong thành phố ùa về
bến tàu. Bình thường họ mong chờ để nhận diện được gương mặt của
vị thống đốc mới trong nhiệm kỳ ba năm sắp đến. Ngay bây giờ, không
biết họ đã nghe tin ông đã từ trần trong chuyến đi vừa qua chưa. Trên
những dòng sông Goa, thuyền bè tứ phương đổ về hướng các con thuyền
buôn đang từ từ đuổi sóng tiến đến bến đáp mà nơi dinh thự của ngài
Thống Đốc đang ngự trị. Họ nổi trống kèn rền rĩ khắp nơi. Đến gần
những con tàu buôn này, họ còn chuyền lên thức ăn, thức uống và trái
cây cho những người trên tàu. Có lẽ giờ này, nhìn vẻ mặt của những
người trên tàu rất tiều tụy và thương tâm lắm. Sau hơn một năm, có lẽ
gương mặt của họ ốm và xạm đen đi nhiều. Khi tàu đáp bến, nhà thám
hiểm Pyrard, người đã nhập cảnh ở Goa trong tháng 6 năm ngoái, cho
biết rằng mỗi chiếc tàu chỉ loe ngoe có khoảng 300 người bước xuống.
Có lẽ trông bộ dạng của họ, là một nhà thám hiểm đầy kinh nghiệm,
ông không khỏi bùi ngùi.
Sau khi lên bờ, bốn vị tu sĩ Dòng Chúa Giêsu
được chuyển qua một chiếc xe ngựa không mui. Lúc này, họ đã thay đổi
y phục màu đen với chiếc nón vải cùng màu trên đầu. Ngồi trên chiếc
xe đàng trước có ba đứa trẻ, tay cầm kèn thổi léo lách thánh ca như,
thay mặt họ, vừa loan báo vừa chào mừng mọi người ở Goa. Càng đến
gần trường đại học St. Paul nổi tiếng vào thời ấy, hàng ngàn thường
dân, học sinh và sinh viên chen lấn với dân tình xếp hàng hai bên lề
đường vỗ tay đáp lễ.
Trong thế kỷ 16, trường đại học St Paul ở Goa
rất nổi tiếng; nó tương đương với tất cả trường đạo ở Coimbra và cả
Âu Châu. Vào năm 1568, St. Paul có hơn 3.000 sinh viên và học sinh[104];
trong số này có sinh viên địa phương và nhiều quốc gia Phi Châu và Á
Châu đến học hỏi như Ấn Độ, Sri Lanka, Iran, Nhật Bản, Trung Hoa, Pegu,[105] Malacca,
v.v… Nhưng tại đây, vào năm 1596, con số giáo sư chỉ có vỏn vẹn 20
giáo sĩ cộng với 47 tu sĩ thực tập và 16 người tu huynh.[106] Chương
trình học gồm có các lớp văn phạm, sử ký, thơ văn, biện luận, triết
lý và thần học. Ngôi trường này được bắt đầu từ năm 1542, khi Thánh Francisco
Xavier qua giảng đạo tại Goa. Sau khi cập bến tại Goa, ngài đã dừng
chân tại đây và nhận lại nó từ các tu sĩ dòng Phanxicô khi họ chuyển
giao nó lại cho Dòng Chúa Giêsu. Đến năm 1560, trường đại học này
được xây mới lại từ đầu. Nhưng vài năm sau, vì chung quanh tường có
dấu hiệu rạn nứt, nhà Dòng cho xây một dãy cầu vòm chặn đứng sự
nứt mẻ của cửa trường (Hãy xem Hình 11)[107].
Vào năm 1570, bệnh dịch lan tràn mọi nơi khiến
cho hơn 58 người trong nhà Dòng đang cư ngụ tại St. Paul ngã bệnh.[108] Vì
thế, vào năm 1578, Dòng Chúa Giêsu mua một miếng đất mới trên một ngọn
đồi có tên là Holy Mount nằm phía tây bắc của Goa, đối diện với
chủng viện của dòng Augustinô. Từ đó, Dòng Chúa Giêsu xây thêm một
trường học mới và đặt tên là St. Paul Mới (São Paulo Novo). Vào năm
1610, trường St. Paul Mới được chính thức bắt đầu khai trương, trong khi
trường St. Paul Cũ dần dần bị bỏ phế. Khi Pina vừa mới đến Goa vào
cuối tháng 5 năm 1609, rất có khả năng anh đã đến trụ ngụ ở Chủng
Viện và bắt đầu ghi danh vào lớp triết học ở St. Paul Cũ. Nhưng sang
năm sau, anh được chuyển qua trường St. Paul Mới. Nếu theo đúng chương
trình, anh sẽ hoàn tất lớp triết học trong vòng 3 năm ở Goa. Sau đó,
anh sẽ theo đuổi 4 năm thần học ở trường St. Paul tại Macao.
Nhưng khi mới đến Goa
không bao lâu, cũng có thể anh cũng được gửi đến trường đại học
Rochol ở thành phố Rachol trong tỉnh Salcete (Hãy xem Hình 10) cho một
thời gian ngắn để học tiếng Konkani vì nơi đây có mở lớp dạy ngôn
ngữ này cho các tu sĩ với mục đích dạy giáo lý cho dân bản xứ mà
không cần thông dịch viên. Nếu thế, cũng giống như Cha Alexandre de
Rhodes (1593-1660),[109] Pina
đã có nhiều khả năng học lớp đàm thoại tiếng Konkani ở Rachol. Ngôi
trường này hầu như được khánh thành trong khoảng thời gian với St.
Paul Mới vào ngày 31 tháng 10 năm 1609[110].
Nhưng đặc biệt ở Rachol, có hai vị tu sĩ đương thời rất nổi tiếng về
ngôn ngữ Ấn Độ, đó là Cha Thomas Stephens (1547-1619)[111] và
Cha Étienne de la Croix (1579-1643)[112].
Đối với các tu sĩ Dòng Chúa Giêsu, việc học tiếng Konkani là một
điều rất cần thiết trong một thời gian ngắn. Sau những giờ học triết
lý là những giờ ngoại khóa, khoảng tháng 12 năm 1609, có thể Pina
phải theo một nhóm tu sĩ Dòng Chúa Giêsu cùng với dân bản xứ đi tìm
kiếm trẻ con bản xứ mồ côi[113] với
mục đích là cải đạo chúng từ Ấn Độ Giáo sang Công Giáo. Không những
thế, vài tháng sau khi đến Goa, vào ngày 25 tháng Giêng năm 1610, Pina
được tham dự buổi lễ Cải Đạo (Feast of Conversion)[114] rất
long trọng hàng năm tại trường St. Paul mà nhà thám hiểm Pyrard cho
biết trong mùa lễ năm ngoái, có hơn 1.500 người Ấn Độ ngoại đạo đã
được rửa tội tập thể[115].
Sau đó, có thể anh sẽ được chỉ định làm thầy dạy dỗ (tutor) cho một
số trẻ con người Ấn Độ. Vì thế, anh phải học nhanh tiếng Konkani
trong một thời gian ngắn nhất, vì theo lời dạy dỗ của Thánh Ignatius
Loyola (1491-1556) vẫn còn văng vẳng bên tai, các tu sĩ phải học tiếng
nói địa phương để có khả năng giảng đạo cho họ. Dựa theo Cha Alexandre
de Rhodes, tiếng Konkani rất dễ học. Khi đáp thuyền đến Goa năm 1619,
trong vòng 3 tháng, ngài đã học ngôn ngữ này, có thể đàm thoại và
dạy giáo lý cho trẻ con Ấn Độ ở Goa.[116]
Nếu đúng như những dữ kiện xảy ra ở trên, anh
Pina đã có cơ hội tiếp xúc nhiều với người Ấn Độ, sống tại Goa khi
anh tham gia vào nhóm tìm kiếm trẻ mồ côi, dạy dỗ tiếng Bồ hay La Tinh
cho chúng hay học tiếng địa phương từ chúng. Hơn nữa, anh cũng đã nghe
và thấy những công trình chuyển ngữ từ các nhà ngôn ngữ nổi tiếng
thời ấy qua những cuộc đàm thoại hay đọc qua sách vở ngữ vựng hay
văn phạm mà họ đã soạn ra trong thư viện của trường đại học St. Paul.
Tuy anh cũng không ngờ rằng: sau này, khi bước chân vào Đàng Trong, anh
sẽ cần đến những sự học hỏi quí báu này.
Khi tạm trú ở Goa, Pina cũng có thể ghi danh
học lớp ngoại ngữ Nhật Bản. Khi anh ở Macao, vào năm 1614, anh cũng
có nhiều cơ hội đàm thoại trong tiếng Nhật vì lúc ấy, những cơ sở
truyền giáo ở Nagasaki, Nhật Bản đều bị đóng cửa và di chuyển về
Macao. Trong những năm sau đó, dân tị nạn Nhật định cư tại Macao rất
đông đảo. Lúc ấy, ngoài Macao, ở Á Châu, có hàng chục ngàn thương
nhân Nhật không thể về nước vì bị cấm đoán. Vì thế, họ phải sống
tha phương đến các thành phố Á Châu khác như: Manila ở Phi Luật Tân, ở
Ayutthaya, Siêm La hay Hội An ở Đàng Trong.
Lên Đường Về Macao
Nếu Pina, ngoài việc học triết lý còn phải
tham gia các hoạt động ngoại khóa thì thật bận rộn cho anh. Đó là
không kể thì giờ tham dự thánh lễ, bí tích, xưng tội, cầu nguyện hay
các buổi lễ kính các vị thánh trong đạo. Ngoài ra, trong những giờ
thực tập, các học viên kể cả Pina phải đến thăm tù nhân hay người
bệnh đang được chữa trị trong nhà thương. Trong lớp học triết học ở
St. Paul, Goa, anh đã làm quen với bốn người bạn mới, đó là các Anh
Antonio de Sousa (1589-1633), Estévão Coelho (1583-?) and Manoel Coelho
(1586-?) và Antonio Freire (1587-?). Những tu sĩ này vừa đáp bến tàu ở
Goa không lâu trong vòng tháng 10 hay tháng 11, 1609[117] vừa
qua. Trong cuộc hành trình này, Cha Francisco Buzomi là vị giáo sĩ Bề
Trên của họ. Tôi có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng: Pina đã
có dịp gặp mặt Cha Buzomi lần đầu tiên trong khoảng thời gian này. Khi
nhóm tu sĩ này nhập học vào St. Paul cuối tháng 10,[118] họ
sẽ học chung lớp với Pina. Dựa theo chương trình, khi học xong 3 năm
trong lớp triết, họ và Pina cùng đáp tàu qua Macao vào mùa hè năm
1612.[119] Sau
một tháng, con tàu của họ sẽ ghé qua Malacca để trao đổi hàng hóa
trước khi lên đường về Macao. Từ Malacca, các anh sẽ tốn thêm khoảng
một tháng nữa mới cập bến ở Macao. Trong cuộc hành trình này, các
anh sẽ đi ngang qua Côn Đảo và hải phận của Đàng Trong (Cochinchina)[120] trước
khi cập bến Macao, nơi mà các anh phải ghi danh học lớp thần học kéo
dài đến 4 năm nữa - Giáo sư của họ cũng có thể là Cha Buzomi vì lúc
này, Cha Buzomi đang dạy lớp thần học ở đó. Cuối cùng, trong năm thứ
tư của thần học (1616), họ cùng nhau đón thuyền trở về Malacca[121],
nơi mà họ chính thức được Giám Mục Gonçalo da Silva phong chức Linh mục
cho các anh. Sau năm đó, họ được gọi với một chức vị là “Cha” hay
“Linh Mục” bổ sung với cái tên của họ. Riêng phần Cha Pina, trong thời
gian dài học thần học ở Macao, cha cũng sẽ quen biết Cha Christoforo
Borri (1583-1632).[122] Sau
này trong năm 1618, họ sẽ gặp lại nhau ở thành phố Hội An, rồi cùng
với Cha Buzomi dọn về Nước Mặn, Qui Nhơn. Trên bán đảo Macao, Cha Pina
có thể cũng sẽ gặp mặt Cha João Rodrigues Tçuzzu (1561-1633), vị giáo
sĩ người Bồ nổi tiếng ở Nhật Bản đã viết quyển sách nổi tiếng về
Văn Phạm tiếng Nhật ở đầu thế kỷ 17.
Vào tháng Giêng năm 1617, Cha Pina được bổ nhiệm
vào Đàng Trong để giúp đỡ Cha Buzomi. Đồng hành với ngài gồm có hai
vị giáo sĩ người Nhật, Cha Iyo Tokuun Sixto (1570-1633) and Cha
Constantino Dourado (1566-1620)[123].
Đến tháng ba năm ấy, người bạn học cũ của ngài lúc cư ngự tại Goa
Cha Antonio de Sousa (1588-1633)[124] cũng
sẽ cập bến ở Đàng Trong. Từ khi mới đến Đàng Trong khoảng một năm
nay, Cha Pina cư ngụ tại Hội An để trốn tránh sự đàn áp tôn giáo của
chính quyền Đàng Trong. Trong lúc cư ngụ ở đây, ngài giảng đạo cho
khoảng 300 người Nhật tị nạn[125].
Kết Luận
Tuy mới hơn 20 tuổi, sau chuyến tàu định mạng
đến Goa, tôi nghĩ Pina đã trưởng thành rất nhiều. Anh đã hấp thụ được
nhiều bài học đáng giá từ những sự thử thách mà Thiên Chúa đã quan
phòng cho anh. Trên thể xác, đôi lúc anh phải gánh chịu cảnh mưa rào,
nóng ran; quần áo nhơ bẩn dính đầy côn trùng. Trên tàu, anh phải hít
thở mùi hôi tanh ô uế, nồng nặc chung quanh anh. Anh phải chịu đựng
cuộc sống tù túng trong một căn phòng rất nhỏ bé chất đầy thức ăn
khô mà anh phải chia sẻ với ba vị tu sĩ khác. Không lâu, sau khi vào
vùng nóng bức của xích đạo, anh phải chịu đựng cái nóng bứt rứt
khó tả. Tuy anh không bị bệnh nan y, anh cũng đã thấy số mệnh con
người thật mỏng manh. Anh đã nhìn thấy cuộc sống khốn khổ của con người
và cái chết cô độc của nhiều hành khách trên tàu. Khi nghĩ đến, tôi
biết anh đã cầu xin phúc lành từ Thiên Chúa cho những người còn lại,
cho những người vừa mất và cho cả chính anh.
Khi bước chân đến Goa, anh đã cảm thấy Thiên Chúa
không bạc đãi anh và cho phép anh được chiêm ngưỡng một thế giới mỹ
lệ. Tại đây, anh đã cám ơn Chúa cho anh mở rộng tầm mắt và gặp gỡ
các dân tộc không đồng màu da như người Nhật, Ấn Độ, người Hoa, người
Ả Rập, v.v… Đồng thời, cuộc sống huy hoàng ở Goa tạo cơ hội gặp mặt
nhiều nhân vật ngôn ngữ nổi tiếng đương thời như Cha Thomas Stephens,
Giáo Sĩ người Anh, và Cha Etienne de la Croix, Giáo Sĩ người Pháp. Nhờ
kỹ thuật tinh tiến vào thời đó, chính mắt anh đã thấy nhà Dòng đã
phát hành bài vở bằng cách dùng máy in bắt đầu từ năm 1556. Mặc dù
sống ở đây chỉ có khoảng 2-3 năm, tôi biết chắc rằng anh đã lắng nghe
những câu chuyện từ các giáo sĩ khác, hay có dịp đàm thoại với nhau
về những công trình La Tinh hoá tiếng Konkani trong công cuộc truyền
đạo. Mặc dù lúc ấy, theo tôi nghĩ anh đã không nghĩ nhiều về việc áp
dụng vào thực tiễn cho chính anh, cho đến khi anh đáp tàu xuống cửa sông
Hàn, Đà Nẵng. Khi đang theo đuổi lớp thần học ở Macao, tôi nghĩ anh
cũng có cơ hội đàm thoại với Cha João Rodrigues Tçuzu (1561-1633) về
tiếng Nhật và cách La Tinh hóa nó.
Vào năm 1618, khi đến Nước Mặn, anh đã có nhiều
thì giờ nghiền ngẫm sự liên quan giữa tiếng Việt với tiếng La Tinh,
Hy Lạp và Bồ Đào Nha. Nhưng khi liên tưởng tới giọng nói của hai dân
tộc Việt và Ấn Độ, tôi cho rằng suy nghĩ của anh lập tức nghiêng hẳn
về Konkani vì âm điệu tiếng Việt trong nhiều trường hợp rất giống
lối phát âm của tiếng Ấn Độ.[126] Vì
thế, hiện nay tôi muốn đưa ra giả thuyết rằng: khi tạm dừng chân ở
Nước Mặn, Cha Pina đã dựa nhiều vào lối phát âm của Konkani trong
việc La tinh hóa tiếng Việt[127].
Nhưng rất tiếc, vì anh mất quá sớm (1625), những tiến triển và thành
công của anh ít người biết đến. Nhưng tôi nghĩ tuy anh mất đi, nhưng anh
không hề hối tiếc vì anh biết rằng những công trình mà anh gầy dựng
đã được nối tiếp bởi là ba vị giáo sĩ thừa kế anh, đó là các
giáo sĩ Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre de Rhodes; họ đã
nối gót theo anh đi nốt con đường con đường còn lại trong công cuộc đào
tạo chữ Quốc Ngữ.
Download file gốc PDF của tác giả tại đây
Tài Liệu Tham Khảo
1. Jason Michael Wilber, "Transcription and
Translation of a Yearly Letter from 1619 Found in the Japonica Sinica 71 from
the Archivum Romanum Societatis Iesu" (2014). All Theses and
Dissertations. 4350. https://scholarsarchive.byu.edu/etd/4350.
2. Roland Jacques, Portuguese Pioneers of
Vietnamese Linguistics, Orchid Press, Bangkok 2002.
3. Antonio de Oliveira Freire, Descripçam
Corografica do Reyno de Portugal, Lisbon, Na Officina Bernardo Anton de Oliver,
1755.
4. Rui de Pina https://en.wikipedia.org/wiki/Rui_de_Pina
5. Diogo Barbosa Machado, Bibliotheca Lusitana,
Tomo II, Lisbon 1759.
6. Count Paul Ron Hoensbroech, Fourteen Years a
Jesuit, translated by Alice Zimmer, Tập II, Cassell and Co., Limited 1911.
7. John W. O’malley, S.J., How We Were: Life in a
Novitiate, 1946-1948.
8. Lobo, Rui, “The College of Jesus and College
of Arts during Francisco Suárez’s time”, Conimbricenses.org Encyclopedia, Mário
Santiago de Carvalho, Simone Guidi (eds.), doi = “10.5281/zenodo.3521057”, URL
= http://www.conimbricenses.org/encyclopedia/
9. John W. Padberg, S.J., General Editor, The Constitutions
of the Society of Jesus and Their Complementary Norms: A Complete English
Translation of the Official Latin Texts, Saint Lous, 1996.
10. Paul F. Grendler, The Culture of the Jesuit
Teacher 1548–1773, Brill journal of Jesuit studies 3 (2016).
11. Liam Matthew Brockey, The Visitor, The
Belknap Press of Harvard University Press, 2014.
12. Rev. Thomas Hughes, Loyola and the
Educational System of the Jesuits, 1912.
13. Ernest Truman, Leander, Or, Secrets of the
Priesthood, Claxton, Remsen, and Haffelfinger, 1869.
14. Wiktor Gramatowski, Guide to Understanding
the Documents, ARSI, 1992.
15. Claudia Von Collani, The True Mother of China
Mission -Kilian Stumpf’s “Succincta Chronologica Relatio”, in Rooted in Hope,
In der Hoffnung verwurzelt, Vol. 1, Momenta Serica Monograph Series LXVIII/1,
Routledge 2017.
16. Josef Franz Schutte, S.J., Momenta Missionum
Societatis IESU, Momenta Historica Japaniae I, 1549-1654, Vol. 134.
17. Đoạn phim ngắn trích từ phim
“Silence” https://www.youtube.com/watch?v=wf0-wv2awkY.
18. Brockey, Liam, Largos caminhos e vastos mares
Jesuit Missionaries and the journey to China in the sixteenth and seventeenth
centuries, Bulletin of Portuguese - Japanese Studies, núm. 1, december, 2000,
pp. 45 – 72, Universidade Nova de Lisboa, Portugal
19. A. Lynn Martin, Jesuits and Their Families
-The Experience in Sixteenth Century France, Sixteenth Century Journal, Tập
13, Số 1, doi:10.2307/2539914.
20. Charles E. O’neill, Diccionario Histórico de
la Compania de Jesus, Universidad Pontificia Comillas, MADRID.
21. Antonio Franco, Synopsis Annalium in
Societatis Jesu in Lusitania, Anno 1540-1725, Tomo IV.
22. Jesuits Going East http://www.icm.gov.mo/rc/viewer/20021/1053 trích
từ 26 tháng 6, 2020
23. Filipe Castro, Nuno Fonseca, Audrey Wells,
Outfitting the Peper Wreck, Historical Archaeology, 2010, 44(2):14–34s, 2008.
24. Janet P. Boileau, Cultinary History of the
Portuguese Eurasians: The Origins of Luso-Asian Cuisine in the Sixteenth and
Seventeenth Centuries, PHD Thesis, 2010.
25. Jean Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes
Orientales et Occidentales, Faits Par Jean Mocquet, Paris, 1830.
26. Madre de Deus https://en.wikipedia.org/wiki/Madre_de_Deus
27. Lució de Sousa, The Portuguese Slave Trade
in Early Modern Japan: Merchants, Jesuits and Japanese, Chinese, and Korean Slaves,
Brill, 2018.
28. Maria Herminia Maldonado, Relação das náos e
armadas da India com os successos dellas que se puderam saber, para noticia e
instrucção dos curiozos, e amantes da historia de India, East India, 1985.
29. R. Po Chia, A Jesuit in the Forbidden City:
Matteo Ricci (1552-1610), Oxford, University Press, 2010.
30. Arturo Giraldez, The Age of Trade: The Vanila
of Galleons and the Dawn of the Global Economy, Rowman and Littlefield, 2015.
31. Michela Fontana, Matteo Ricci, The Jesuit in
the Ming Court, Rowman and Littlefield, 2011.
32. Xavier Mariona Martins, Portuguese Shipping
and Ship Building in Goa (1510-1780), PHD Thesis, 1994.
33. Albert Gray, The Voyage of François Pyrard de
Laval, Vol. II, Part I.
34. Charles E. O’Neill & Joaquín Domínguez,
Dictionario Histórico de la Compañía de Jesus, Institutum
Historicum/Univesidad Pontificia, 2001.
35. Amir Arsalan Afkhami, Humorism, Encyclopædia
Iranica, Tập XII, 2004, trang 566-570, http://www.iranicaonline.org/articles/humoralism-1
36. M.G. Da Costa, translated by Donald M.
Lockhart, The Itinerário of Jerónimo Lobo, The Hakluyt Society, London, 1984.
37. The Itinerário of Jerónimo Lobo”, dịch ra
bởi Donald M. Lockhart, the hakluyt Society, London, 1984.
38. José Nicolau da Fonseca, An Historical and
Archeological Sketch of the City of Goa, Bombay: Thackers and Co., Limited,
1878.
39. Alexandre de Rhodes, Voyage et Missions du
Père Alexandre de Rhodes, Paris, 1854.
40. Peter C. Phan, Mission and Catechesis, Orbis
Books, New York, 1998
41. J. Gerson da Cunha, Materials for the History
of Oriental Studies Amongst the Portuguese, Proceeding Volume 4, Part 1878,
1880.
42. Brijbraj Singh, The First Englishman in India:
Thomas Stephens (1547-1619), Journal of South Asian Literature,30(1/2), pages
146-161. Retrieved on June 22, 2020 from www.jstor.org/stable/40873582.
43. Ignacio da Costa Quintella, Annaes da Marinha
Portugueza, Tomo II, Lisboa, Natipografia da Mesma Academia, 1840.
44. Maria Cristina Trindade Guerreiro Osswald,
Jesuit Art in Goa Between 1542 and 1655: From Modo Nostro to Mod Goano, PHD
Thesis, 2003.
45. Li Tana, Nguyễn Cochinchina, Cornell
University, 1998.
46. Macao and the Jesuits http://ch.catholic.or.kr/pundang/4/cb/macao_and_the_jesuits.pdf
47. Christopher Borri, An Account of
Cochin-China, một phần của “A Collection of Voyages and Travels“, Volume II,
Third Edition, 1744.
48. El Jesuita Alessandro de Rhodesen Cochinchina
y Tonkin (1591- 1660) http://www.icm.gov.mo/rc/viewer/30038/2049 trích ra
ngày 2 tháng 7 năm 2020.
49. Ribeiro, Madalena, The Japanese Diaspora in
the Seventeenth Century. According to Jesuit Sources Bulletin of Portuguese -
Japanese Studies, núm. 3, december, 2001, pp. 53 – 83, Universidade Nova de Lisboa,
Portugal.
50. Learning
Konkani: https://www.youtube.com/watch?v=D-_hEKv8CFc hay https://www.youtube.com/watch?v=D-_hEKv8CFc&t=94s
51. Andrew Gaudio, A Translation of the Linguae
Annamiticae seu Tunchinensis brevis declaratio: The First Grammar of Quốc Ngữ,
Journal of Vietnamese Studies, Vol. 14, Issue 3.
52. Otto
Zwartjes, Portuguese Missionary Grammars in Asia, Africa and Brazil, 1550–1800,
John Benjamins Publishing Company, 2011.
[1] Hãy
xem Hình 1. Vào đầu thế kỷ 17, lãnh thổ Đàng Trong bao gồm từ Quảng
Bình đến Phú Yên. Nước Đại Việt thời cuối nhà Lê bao gồm hai miền
Đàng Trong và Đàng Ngoài ngăn cách bởi sông Gianh. Chúa Nguyễn cai trị
Đàng Trong. Trong lúc đó, Chúa Trịnh cai quản Đàng Ngoài -Lãnh thổ
Đàng Ngoài đi từ Bố Chính chạy ra Bắc Phần. Tuy Vua nhà Lê vẫn đóng
đô ở Kẻ Chợ (Hà Nội), nhưng tất cả quyền hành đều nằm trong tay
Chúa Trịnh. Vào năm 1627, nội chiến giữ hai miền bắt đầu bùng nổ và
kéo dài hơn 45 năm sau. Ở Đàng Trong, các Chúa Nguyễn khuyến khích
giao thương với Macao, Nhật Bản và Trung Quốc với mục đích khuếch
trương nền kinh tế và gầy dựng một quân đội vững mạnh. Đồng thời,
các Chúa Nguyễn, dựa vào kỹ thuật đúc súng đại bác bằng đồng của
người Bồ và kỹ thuật rèn kiếm của người Nhật, xây dựng một lãnh
thổ trù phú để chống lại sự xâm lấn của Đàng Ngoài. Thêm vào nữa,
các Chúa Nguyễn dùng quân đội hùng mạnh này dần dần tiêu diệt nước
Chăm Pà ở phía nam và bành trướng lãnh thổ phía nam thuộc về nước
Cao Miên vào thời ấy.
[2] Cha
Gaspar d’Amaral nhập Dòng Chúa Giêsu năm 1608. Vào năm 1623, ngài đón
tàu sang Goa, Ấn Độ và từ đó, đến Macao. Vào năm 1629, ngài được bổ
nhiệm đến Đàng Ngoài. Trong vòng 7 năm, ngài rửa tội cho hơn 40.000
giáo dân. Vào năm 1646, sau một buổi họp quan trọng ở Macao bàn luận
về cách thức rửa tội cho các Kitô hữu ở Việt Nam, ngài và một số
tu sĩ nhà Dòng trở về Đàng Ngoài. Nhưng buồn thay, con thuyền mà
ngài đang đi bị bão đánh chìm gần đảo Hải Nam. Trước khi mất, ngài
trao cho Cha Alexandre de Rhodes quyển ngữ vựng Việt-Bồ mà ngài đang
soạn thảo hằng ngày. Nhưng rất tiếc, nó đã thất truyền.
[3] Cha
Antonio Barbosa nhập Dòng Chúa Giêsu vào năm 1623 và đến Đàng Ngoài
vào năm 1636. Mắc bệnh trầm trọng ngài phải trở về Macao vào năm 1642
và mất tại Goa sau đó. Trước khi mất, ngài trao cho Cha Rhodes quyển
ngữ vựng Bồ-Việt mà ngài đang soạn thảo. Nhưng rất tiếc, nó đã
thất truyền.
[4] Cha
Alexandre de Rhodes nhập Dòng Chúa Giêsu vào năm 1612. Vào năm 1618, ngài
chính thức trở thành Giáo Sĩ Dòng Chúa Giêsu. Vào năm 1619, ngài đáp
tàu từ Lisbon đến Goa, Ấn Độ và cư ngụ nơi đây khoảng ba năm rưỡi. Nơi
đây, ngài quen biết với Cha Etienne de la Croix, một giáo sĩ Dòng Chúa
Giêsu và cũng là ngôn ngữ gia người Pháp lúc đó đang giữ chức Viện
Trưởng đại học Rochol tại Salcete. Được Cha de la Croix khuyến khích,
Cha Rhodes ghi danh học tiếng Canarese (Konkani). Sau khi học xong, trong
vòng ba tháng, Cha Rhodes có thể nghe lời xưng tội và giảng đạo cho
dân địa phương người Ấn Độ. Sinh sống tạm thời ở Goa, ngài đã thăm
người nghèo khổ, những tù nhân bị giam và tham gia vào việc tìm kiếm
trẻ con mồ côi Ấn Độ với mục đích cải đạo chúng thành tín đồ của
Thiên Chúa Giáo (Hãy xem Peter C. Phan, Mission and Catechesis Alexandre de
Rhodes Inculturation in Seventeenth-Century Vietnam, Orbis Books, 1998, trang
43). Vào năm 1622, ngài đón thuyền về Macao, nhưng một năm sau mới cập
bến. Vào cuối năm 1624, cùng với 6 tu sĩ khác (Gabriel de Matos, Antonio
Fontes, Gaspar Luis, Gerolamo Maiorica, Manoel Gonzales và Michael Maki),
ngài đáp thuyền về Đà Nẵng và tham gia đoàn thể Dòng Chúa Giêsu mà
Cha Francesco Buzomi hướng dẫn. Trong năm đầu, Cha Rhodes được bổ nhiệm
vào học lớp tiếng Việt ở Thanh Chiêm do Cha Francisco de Pina phụ
trách. Đến năm 1626, vì Chúa Nguyễn bắt đầu cấm đạo, ngài được gọi
trở lại Macao. Vào năm 1627, ngài được bổ nhiệm ra Đàng Ngoài. Trong
vòng ba năm, ngài rửa tội cho hơn 5.600 tín đồ tại đây. Vào năm 1630,
ngài bị trục xuất khỏi Đàng Ngoài, ngài trở về Macao và được bổ
nhiệm làm Giáo Sư Thần Học. Đồng thời, trong thời gian 10 năm tại
Macao, ngài nghiên cứu và tổng hợp các tập vở ngữ vựng do các Cha
Gaspar d’ Amaral và Cha Antonio Barbosa viết tay từ trước thành một cuốn
tự điển toàn diện lấy tên là “Tự Điển Việt-Bồ-La (Dictionarium
Annamiticum, Lusitanum et Latinum)” và sáng tác 31 trang ngữ pháp với
tựa đề “Giải Thích Ngắn Gọn về Ngôn ngữ An Nam hoặc Bắc Phần (Linguae
Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio)”. Ngoài ra, Cha Rhodes còn
sáng tác quyển Giáo Lý “Phép Giảng Tám Ngày (Cathechismus Pro Ijs, Qui
Volunt Suscipere Baptismum)” và nhiều tác phẩm khác.
Vào năm 1640, Cha Rhodes được bổ nhiệm trở lại
Đàng Trong với chức vụ là Cha Bề Trên. Sau nhiều năm truyền đạo hợp
thức và cuối cùng bị trục xuất khỏi Đàng Trong, ngài rời Đàng Trong
vĩnh viễn vào năm 1645. Ngài mất ở Iran vào năm 1660.
[5] Ở
Việt Nam, để tránh gọi tên Chúa Giêsu, Dòng Chúa Giêsu còn được gọi
tắt là Dòng Tên.
[6] Jason
Michael Wilber, "Transcription and Translation of a Yearly Letter from
1619 Found in the Japonica Sinica 71 from the Archivum Romanum Societatis
Iesu" (2014). All Theses and Dissertations. 4350.
https://scholarsarchive.byu.edu/etd/4350, trang 72-73.
[7] Cha
Francesco Buzomi nhập Dòng Chúa Giêsu vào năm 1592. Vào ngày 23 tháng 3
năm 1609, ngài lãnh đạo một phái đoàn gồm 24 tu sĩ đáp tàu từ Lisbon
đến Goa, Ấn Độ. Chiếc tàu buôn Nossa Sentra da Piedade cập bến vào
tháng 11 năm 1609. Vào năm 1610, ngài đón thuyền về Macao. Tại đây,
ngài là giáo sư dạy thần học trong 5 năm trước khi đáp thuyền, cùng
với Cha Diogo Carvalho (1578-1624), vào Đàng Trong năm 1615. Vào năm 1618,
dưới sự giúp đỡ của Trấn Thủ Quan Trần Đức Hòa, ngài hướng dẫn Cha
Francisco de Pina và Cha Chritoforo Borri về cư ngụ tại thành phố Nước
Mặn, Qui Nhơn. Ngài trú ngụ nơi đây để giảng đạo cho đến năm 1638 khi
ngài trở về Macao và năm sau mất ở đó. Sau hơn 20 năm ở Đàng Trong,
Cha Buzomi đã rửa tội cho khoảng 12.000 giáo dân.
[8] Guarda
có nghĩa là người bảo vệ.
[9] Antonio
de Oliveira Freire, Descripçam Corografica do Reyno de Portugal, Lisbon, Na
Officina Bernardo Anton de Oliver, 1755, trang 69. Hiện nay, dân số ở Guarda
có hơn 25,300 người (2011).
[10] Chức
vụ Secretary đại diện cho vua có rất nhiều quyền hạn. Chính Ruy de
Pina đã viết ra hiệp ước Tordesillas ở Guarda ấn định ranh giới phân
chia thế giới thành hai khu vực ảnh hưởng Kitô Giáo giữa hai đế quốc
Bồ và Tây Ban Nha và đồng thời, xác nhận đồng bá chủ trên thế giới
(Hãy xem https://pt.m.wikipedia.org/wiki/Guarda retrieved on 4/28/2020).
[11] https://en.wikipedia.org/wiki/Rui_de_Pina retrieved
on 5/02/2020.
[12] Diogo
Barbosa Machado, Bibliotheca Lusitana, Tomo II, Lisbon 1759, trang 221.
[13] Navitiate
[14] Diogo
Barbosa Machado, Bibliotheca Lusitana, Tomo II, Lisbon 1759, trang 221.
[15] Lobo,
Rui, “The College of Jesus and College of Arts during Francisco Suárez’s time”,
Conimbricenses.org Encyclopedia, Mário Santiago de Carvalho, Simone Guidi
(eds.), doi = “10.5281/zenodo.3521057”, URL = http://www.conimbricenses.org/encyclopedia/ retrieved
on 5/10/2020.
[16] John
W. Padberg, S.J., General Editor, The Constitutions of the Society of Jesus and
Their Complementary Norms: A Complete English Translation of the Official Latin
Texts, Saint Lous, 1996, Chương IV, Đoạn 60, trang 36.
[17] Ibid,
Chương IV, Đoạn 61, trang 36.
[18] John
W. O’malley, S.J., How We Were: Life in a Novitiate, 1946-1948, trang 15.
[19] John
W. Padberg, S.J., General Editor, The Constitutions of the Society of Jesus and
Their Complementary Norms: A Complete English Translation of the Official Latin
Texts, Saint Louis, 1996, Chương IV, Đoạn 381, trang 163.
[20]Paul
F. Grendler, The Culture of the Jesuit Teacher 1548–1773, Brill journal of
jesuit studies 3 (2016) 17-41, trang 23, tác giả đã viết: “After the
novitiate, if the young Jesuit was not well-prepared in Latin and Greek, he
spent a year or two studying the humanities and/or rhetoric, based on the
classics, before going on to philosophical studies.”
[21] John
W. Padburg, S.J. General Editor, The Constitution of the Society of Jesus and
their Complementary Norms: A Complete English Translation of the Official
Texts, Saint Louis, 1996, Chương V, Đoạn 535, trang 207.
[22] Liam
Matthew Brockey, The Visitor, The Belknap Press of Harvard University
Press, 2014, trang 45-46.
[23] Ernest
Truman, Leander, Or, Secrets of the Priesthood, Claxton, Remsen, and
Haffelfinger, 1869, trang 37. Vào thời ấy, Spiritual Coadjutors nôm na được
gọi là “những người giúp đỡ (helpers)” của các vị giáo sĩ có 4 lời
thề nguyện Professed. Vì thế, Spiritual Coadjutors cũng là những giáo
sĩ, nhưng chỉ tuyên thệ với ba lời thề (Hãy xem Wiktor Gramatowski,
Guide to Understanding the Documents, ARSI, 1992, trang 8).
[24] Rev.
Thomas Hughes, Loyola and the Educational System of the Jesuits, 1912, trang
157.
[25] Ernest
Truman, Leander, Or, Secrets of the Priesthood, Claxton, Remsen, and
Haffelfinger, 1869, trang 37.
[26] Josef
Franz Schutte, S.J., Momenta Missionum Societatis IESU, Momenta Historica
Japaniae I, 1549-1654, Vol. 134, trang 638.
[27] Ibid,
trang 691.
[28] Cùng
đi với Cha Francesco Buzomi, Cha Diogo Carvalho dẫn đầu một phái đoàn
nhà Dòng Chúa Giêsu đến Đàng Trong vào tháng Giêng năm 1615. Cha
Carvalho chỉ ở Hội An giảng đạo cho người Nhật trong vòng một năm,
rồi trở về Nhật. Nhưng cuối cùng ngài bị quân Nhật đuổi bắt và tử
đạo vào năm 1624.
[29] Cha
Francesco Buzomi là Giáo Sư dạy Thần Học. Ngài đáp tàu buôn Piedade
cập bến Goa vào tháng 11, năm 1609. Khi ở Goa, có thể ngài và Cha Pina
gặp mặt nhau lần đầu tiên trong thời gian này. Chỉ tạm cư ngụ ở Goa
trong vài tháng, ngài đáp thuyền về Macao. Ngài được xem như vị Giáo
Sĩ đầu tiên chính thức giảng đạo và lập cơ sở Dòng Chúa Giêsu ở
Đàng Trong. Sau hơn 20 năm truyền đạo, vào năm 1638, ngài trở về Macao
và sang năm, mất ở đó.
[30] Brockey,
Liam, Largos caminhos e vastos mares Jesuit Missionaries and the journey to
China in the sixteenth and seventeenth centuries, Bulletin of Portuguese -
Japanese Studies, núm. 1, december, 2000, pp. 45 – 72, Universidade Nova
de Lisboa, Portugal, trang 45. Kể từ năm 1581-1712, thống kê Dòng Chúa
Giêsu cho biết có 127 tu sĩ bị thiệt mạng trong số 249 người được bổ
nhiệm sang Trung Quốc.
[31] Brockey,
Liam Largos caminhos e vastos mares Jesuit Missionaries and the journey to
China in the sixteenth and seventeenth centuries Bulletin of Portuguese -
Japanese Studies, núm. 1, december, 2000, pp. 45 - 72 Universidade Nova de
Lisboa, Portugal, trang 48.
[32] A.
Lynn Martin, Jesuits and Their Families -The Experience in Sixteenth Century
France, Sixteenth Century Journal, Tập 13, Số 1, doi:10.2307/2539914, trang
3-24. Trước khi rời Lisbon vào năm 1541, Cha Xavier đã không ghé thăm gia
đình.
[33] Antonio
Franco, Synopsis Annalium in Societatis Jesu in Lusitania, Anno 1540-1725, Tomo
IV, danh sách tám người hải hành qua Goa được liệt kê trong Phần
Catalogus với tiểu đề “Anno 1608”. Danh Sách của tám tu sĩ này được
liệt kê trong Hình 5.
[34] Manoel
Borges gia nhập vào Nhà Tập ở Évora năm 1601. Tuy anh chưa học
xong lớp Thần Học, anh đã được thụ phong Linh Mục trước năm 1608. Anh
đi cùng chuyến tàu với Francisco de Pina vào năm 1608, nhưng hơn một năm
sau mới cập bến Goa (1609). Sau khi về Macao, anh tiếp tục học xong lớp
Thần Học ở Macao vào năm 1612. (Hãy xem Charles E. O’neill, Diccionario
Histórico de la Compania de Jesus, Universidad Pontificia Comillas, MADRID
trang 1055)
[35] Manoel
Lopes gia nhập vào Nhà Tập của nhà Dòng Chúa Giêsu ở Coimbra
vào năm 1604. Ở Goa, Ấn Độ, anh chưa học xong Thần Học và phải chờ
đến khi về Macao mới hoàn tất lớp học này (Hãy xem Josef Franz
Schutte, S.J., Momenta Missionum Societatis IESU, Momenta Historica Japaniae I,
1549-1654, Vol. 134, trang 1218).
[36] Álvaro
Semedo gia nhập vào Nhà Tập của nhà Dòng Chúa Giêsu năm 1602
và trở thành Giáo sĩ ở Goa vào năm 1611 sau khi học xong Thần Học ở
đó (Hãy xem Josef Franz Schutte, S.J., Momenta Missionum Societatis IESU,
Momenta Historica Japaniae I, 1549-1654, Vol. 134, trang 1293).
[37] Hãy
xem Anthony Disney, Jesuits Going East, The Experiences of Fathers Dominique le
Jeunehomme, Agostino Tudeschini and Tranquillo Grassetti En Route to the China
Mission in the Early Seventeenth Century, http://www.icm.gov.mo/rc/viewer/20021/1053 trích
từ ngày 26 tháng 6, 2020).
[38] Ibid.
Những đồ dùng cá nhân của Cha Jeunehomme trong hành trình đến Goa vào
năm 1629.
[39] Filipe
Castro, Nuno Fonseca, Audrey Wells, Outfitting the Peper Wreck, Historical
Archaeology, 2010, 44(2):14–34s, 2008, trang 20.
[40] Số
lương thực mỗi ngày của các tu sĩ nhân lên cho 8 người.
[41] Filipe
Castro, Nuno Fonseca, Audrey Wells, Outfitting the Peper Wreck, Historical
Archaeology, 2010, 44(2):14–34s, 2008, trang 21.
[42] Janet
P. Boileau, Cultinary History of the Portuguese Eurasians: The Origins of
Luso-Asian Cuisine in the Sixteenth and Seventeenth Centuries, PHD Thesis,
2010, trang 107.
[43] Filipe
Castro, Nuno Fonseca, Audrey Wells, Outfitting the Peper Wreck, Historical
Archaeology, 2010, 44(2):14–34s, 2008, trang 24.
[44]Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 177.
[45] Ibid,
trang 184.
[46] https://en.wikipedia.org/wiki/Madre_de_Deus trích
vào ngày 29 tháng 5 năm 2020.
[47] Lució
de Sousa, The Portuguese Slave Trade in Early Modern Japan: Merchants, Jesuits
and Japanese, Chinese, and Korean Slaves, Brill, 2018, trang 277.
[48] 14
con thuyền gồm có: (5) tàu buôn: Nossa Senhora da Vencimento da Monte da
Carmo (thuyền chỉ huy bởi Bá Tước Feira), Nossa Senhora da Ajuda, Nossa
Senhora da Oliveira, Nossa Senhora da Salvação, Nossa Senhora da Palma; (7)
chiến thuyền: São Conceição, São Bartholomeu, Bom Jesus, São João
Evangelista, São Antonio, S. Jeronimo and Espirito Sancto (2) thuyền cung
cấp: São Macos và David.
[49] Đảo
São Helena là nơi Đế Quốc Anh giam cầm của Hoàng Đế Pháp Napoleon vào
năm 1815.
[50] Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 178.
[51] Ibid,
trang 181 cho biết sau khi Vencimento qua đường xích đạo, Bá Tước Feira
ngả bệnh sốt và qua đời 6 ngày sau. Một tài liệu khác (hãy xem Maria
Herminia Maldonado, Relação das náos e armadas da India com os successos dellas
que se puderam saber, para noticia e instrucção dos curiozos, e amantes da
historia de India, East India, 1985, trang 117) cho biết Bá Tước Feira mất
trong ngày 15 tháng 5 năm 1608. Vì thế, Vencimento qua đường xích đạo
vào ngày 9 tháng 5.
[52] Ibid,
trang 187.
[53] Ibid,
trang 230.
[54] Ibid,
trang 233.
[55] Mùa
gió Nồm bắt đầu ớ Ấn Độ bắt đầu thổi vào tháng 5 hàng năm. Pina
phải ở Goa học xong lớp triết lý. Thường thường lớp này kéo dài
đến 3 năm. Nếu Pina rời Goa vào năm 1611 thì hơi sớm.
[56] Hãy
xem R. Po Chia, A Jesuit in the Forbidden City: Matteo Ricci (1552-1610),
Oxford, University Press, 2010, trang 29.
[57] Arturo
Giraldez, The Age of Trade: The Vanila of Galleons and the Dawn of the Global
Economy, Rowman and Littlefield, 2015, trang 134.
[58] Michela
Fontana, Matteo Ricci, The Jesuit in the Ming Court, Rowman and Littlefield,
2011, trang 20.
[59] Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 178.
[60] Dựa
theo lối kể lại của Cha Bernado Regio trên con đường đến Goa và cuối
cùng đáp tàu đến Tonkin vào năm 1631 (Hãy xem Xavier Mariona Martins,
Portuguese Shipping and Ship Building in Goa (1510-1780), PHD Thesis, 1994,
Chapter 8, trang 86 )
[61] Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 178.
[62] Ibid,
trang 186.
[63] Nên
nhớ rằng mỗi năm, những con tàu buôn này qua lại Đại Tây Dương và Phi
Châu để đến Ấn Độ. Mỗi năm như thế đều xảy ra bệnh dịch, nhưng khi
trở về Lisbon, vì chính quyền không biết rằng những con thuyền này
chứa đựng đầy vi trùng của những bệnh dịch trong khoang thuyền, họ
không bao giờ tẩy sạch và khử trùng chúng cả. Vì thế, trong chuyến
tàu năm sau chứa đầy hành khách, khi con thuyền đến vùng nóng, ẩm
ướt như New Guinea, bệnh dịch sẽ bắt đầu lan tràn trở lại.
[64] Hiện
nay là bờ biển của hai nước Cameroon va Republic of the Congo.
[65] Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 180. Ông Mocquet không viết rõ là trong
ngày, họ liệm xác bao nhiêu lần.
[66] David
là một trong hai chiếc tàu cung cấp trong hạm đội gồm có 5 chiếc tàu
buôn, 7 chiếc chiến thuyền và hai thuyền cung cấp.
[67] Con
số người thiệt mạng trong vòng hai tuần khoảng: 4 người/lần x 14 ngày
x 2 lần/ngày = 112
[68] Christovão
de Noronha là Chỉ Huy Trưởng của các tàu chiến như São Bartholomeu, Bom
Jesus, São João Evangelista, São Antonio, S. Jeronimo và Espirito Sancto.
Lúc ra đi từ Lisbon, ông chỉ huy chiến thuyền Antonio.
[69] Trong
sách tường trình chuyến hải hành này, ông Mocquet không hề nhắc đến
địa danh nào dọc theo bờ biển của Brazil, nhất là cồn cát Abrolhos,
cách bờ biển của thành phố Caravelas, Brazil khoảng 35 miles. Nếu theo
hành trình này, Vencimento phải né tránh nó bằng mọi cách vì dựa
theo lịch sử hải hành, đã có nhiều tàu bị mắc cạn nơi đây. Khi kể
lại chuyến hải hành của ông, Mocquet chỉ cho biết những địa danh dọc
theo bờ biển của Phi Châu mà thôi. Ngoài ra, ông cho biết rằng
Vencimento cập bến Mozambique trễ hơn một tháng. Trong sách, ông còn
diễn tả cảnh sóng to, gió lớn khi Vencimento đi vòng ngang qua Mũi Hảo
Vọng từ bắc xuống nam (Hãy xem Hình 7). Vì thế, tôi nghĩ Vencimento
đã theo con Đường Vòng Trong (Rota do Mar).
[70] Khi
đã đo được vĩ độ cũng có nghĩa là họ chỉ biết vị trí của con tàu
hiện ở nam hay bắc so với đường xích đạo mà thôi.
[71] Nếu
biết thêm kinh độ, họ sẽ biết con tàu đang ở phía đông hay tây so sánh
với Greenwich, England.
[72] Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 181. Ông Mocquet cho biết Hạm Trưởng Feira
sốt nặng và mất sau 6 ngày tàu đến đường Xích Đạo. Một tài liệu
khác đã cho biết Bá Tước Feira mất ngày 15 tháng 5 năm 1608 (Hay xem
Maria Herminia Maldonado, Relação das náos e armadas da India com os successos
dellas que se puderam saber, para noticia e instrucção dos curiozos, e amantes
da historia de India, East India, 1985, trang 117). Dựa theo hai tài liệu
trên, chúng ta tính ra rằng là tàu buôn Vencimento bắt đầu vượt qua
đường xích đạo vào ngày 6 tháng 5 năm 1608.
[73] Có
lẽ giống như thời tiết của tiểu bang Florida vào mùa hè.
[74] Nhiệt
độ thật sự trong tháng 5, 2020 ở Freetown, một thành phố lớn của
Sierra Leon, nhiệt độ cao hàng ngày lên đến 88 độ F, nhưng độ ẩm lên
đến 73% (Được trích từ website
https://www.weather-atlas.com/en/sierra-leone/freetown-weather-may#temperature
trong ngày 2 tháng 6, năm 2020).
[75] Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 187.
[76] Ibid,
trang 178.
[77] Ibid,
trang 188.
[78] Số
hành khách đáp tàu ở Lisbon (900) trừ đi số tử vong đếm trong ngày
đến Mozambique (735) =165
[79] 6
tháng x 30 ngày/tháng x 4 tử vong mỗi ngày =720 tử vong.
[80] Albert
Gray, The Voyage of François Pyrard de Laval, Vol. II, Part I, trang 272.
[81] Trong
trường hợp chiếc tàu Bom Jesus, thủy quân Hòa Lan sau khi cướp được nó
vào năm 1608, chỉ bắt bộ chỉ huy, nhưng thả hết các hành khách trên
đảo St. George nằm bên cạnh đảo Mozambique.
[82] Josef
Franz Schutte, S.J., Momenta Missionum Societatis IESU, Momenta Historica
Japaniae I, 1549-1654, Vol. 134, trang 1323.
[83] Hãy
xem đoạn phim ngắn https://www.youtube.com/watch?v=wf0-wv2awkY trong phim
“Silence” trích từ Mạng ngày 11 thang 8, 2020, diễn tả cảnh tử đạo
của những Kitô hữu giống như trường hợp của Cha Borges ở Nhật Bản.
Trong phim có chiếu cảnh một vài Kitô hữu bị treo chổng ngược; đầu
bị dí chặt dưới hố sâu chứa đầy phân và nước tiểu. Mùi hôi thối và
hơi độc cũng đủ cho họ bị ngạt thở và mất sau một thời gian ngắn.
[84] Charles
E. O’Neill & Joaquín Domínguez, Dictionario Histórico de la Compañía de
Jesus, Institutum Historicum/Univesidad Pontificia, 2001, trang 1055.
[85] Ibid,
trang 1218.
[86] Josef
Franz Schutte, S.J., Momenta Missionum Societatis IESU, Momenta Historica
Japaniae I, 1549-1654, Vol. 134, trang 1293.
[87] Charles
E. O’Neille & Joaquín M. Domínguez, Dictionario Histórico de la Compañia
de Jesús, Institutum Historicum, Roma/Universidad Pontificia Comillus, 2001,
trang 6363.
[88] Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 179-181.
[89] Tương
tự như ngũ hành của người Á Đông: kim, mộc, thủy, hỏa và thổ.
[90] Amir
Arsalan Afkhami, Humorism, Encyclopædia Iranica, Tập XII, 2004, trang
566-570, http://www.iranicaonline.org/articles/humoralism-1 trích
ngày 7 tháng 6 năm 2020.
[91] M.G.
Da Costa, translated by Donald M. Lockhart, The Itinerário of Jerónimo Lobo,
The Hakluyt Society, London, 1984, trang 4.
[92] Ibid
trang 21. Thủy thủ Bồ gọi giống chim này là “manga de veludo” (velvet
sleeves).
[93] Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 185.
[94] Ibid
[95] M.G.
Da Costa, translated by Donald M. Lockhart, The Itinerário of Jerónimo Lobo,
The Hakluyt Society, London, 1984, trang 25.
[96] Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 187.
[97] Đảo
Mozambique là một hòn đảo rất nhỏ nằm sát bờ biển tỉnh Nampura, nằm
phía đông bắc nước Mozambique. Với chiều dài chỉ khoảng 3 km (gần 2
miles) và chiều rộng chỉ khoảng 500 m (0,3 mile), trong thế kỷ 16 và
17, nó đã giữ một vị trí rất quan trọng về hàng hải đối với đế
quốc Bồ. Nơi đây, các thuyền buôn người Bồ thường ghé ngang để mua
thêm thức ăn và nước uống trong cuộc hành trình đi Goa, Ấn Độ. Nhìn
ngang về phía đông của đảo Mozambique là đảo Madagascar.
[98] Trong
năm 1607, Chỉ huy Trưởng người Hòa Lan Paulus van Caerden, trước khi lui
quân, đã ra lệnh đốt hết tất cả hạ tầng cơ sở trên đảo. Hãy xem
George McCall Theal, History an Ethnogrphy of Africa South of the Zambesi, Vol.
I, 1505 to 1795, London 1907, trang 415 & 416.
[99] Ibid,
trang 419.
[100] Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 188.
[101] Tên
nguyên thủy của chiếc tàu buôn này là Nossa Senhora de Consolação thuộc
hạm đội rời Lisbon vào năm 1607. Vì đến Mozambique trễ nên nó phải
dừng chân nơi đây và chờ đến mùa gíó Nồm thổi lên mới có thể xuất
hành đi Ấn Độ. Rất tiếc, vào ngày 26 tháng 8, 1608, thủy quân Hòa Lan
khám phá ra chiếc thuyền đang bỏ neo gần đảo Mozambique nên đến bắn
phá. Quân tự vệ Bồ buộc lòng phải đốt cháy và đánh chìm nó.
[102] Jean
Mocquet, Voyages en Afrique, Asie, Indes Orientales et Occidentales, Faits Par
Jean Mocquet, Paris, 1830, trang 233. Nhưng trong số bốn chiếc tàu đi từ
Mozambique, Bartholomeu không hiểu sao đáp bến ở Cochin, cách Goa khoảng
500 miles về hướng nam. Có lẽ nó bị gió cuốn hay trôi dạt theo dòng
nước ngầm (Xem Ignacio da Costa Quintella, Annaes da Marinha Portugueza, Tomo
II, Lisboa, Na Typografla da Mosma, Academia, 1840, trang 146.)
[103] Những
cảnh tượng đón tiếp nồng nhiệt của thổ dân Ấn Độ và sinh viên
trường St. Paul đối với hạm đội mới cặp bến được trích ra từ sách
“The Itinerário of Jerónimo Lobo”, dịch ra bởi Donald M. Lockhart, the
hakluyt Society, London, 1984, trang 44. Tôi tin rằng khi đáp xuống bến
tàu tại Goa vào tháng 5 năm 1609, các tu sĩ Dòng Chúa Giêsu cũng được
dân chúng đón tiếp nồng hậu như thế.
[104] José
Nicolau da Fonseca, An Historical and Archeological Sketch of the City of Goa,
Bombay: Thackers and Co., Limited, 1878, trang 263.
[105] Pegu
không còn là một quốc gia nữa. Hiện giờ, bị sát nhập vào nước Miến
Điện.
[106] Bài
Tường Trình Hàng Năm ngày 16 tháng 12 năm 1596, từ Cha Francisco Cabral,
Giám Tỉnh của Goa, trích từ Josepth Wicki, Romanta Historica Societatis
Iesu, Vol. 133, Documenta Indica 18 (1595-1597), Rome, 1988, trang 651.
[107] Nếu
quan sát kỹ hình vẽ của trường St Paul cũ trong Hình 7 sẽ nhìn thấy
vòm cầu này.
[108] José
Nicolau da Fonseca, An Historical and Archeological Sketch of the City of Goa,
Bombay: Thackers and Co., Limited, 1878, trang 263-264. Bệnh dịch này lan
tràn cho đến năm 1596 vẫn chưa chấm dứt. Trong bài tường trình hàng
năm ấy của Cha Francisco Cabral, Giám Tỉnh của Goa cho thấy có thêm 3 tu
sĩ mắc bệnh mà mất.
[109] Vào
năm 1620, khi đến Salcete, chính Cha Alexandre de Rhodes cũng dừng chân ở
thành phố Rachol và học một lớp Canarese (Konkani). Lúc ấy, ngài mới
gặp và làm bạn với Cha Étienne de la Croix (Hãy xem Peter C. Phan,
Mission and Catechesis, Orbis Books, New York, 1998, trang 42). Cả hai đều
là hai Giáo Sĩ người Pháp duy nhất ở Goa. Khi Cha Croix mất năm 1643,
Cha Rhodes đã viết một bài phúng điếu cho ông ấy.
[110] J.
Gerson da Cunha, Materials for the History of Oriental Studies Amongst the
Portuguese, Proceeding Volume 4, Part 1878, 1880, trang 187.
[111] Cha
Thomas Stephens là một người Anh theo Dòng Chúa Giêsu. Ngài đến Goa năm
1579 và mất ở đó năm 1619. Trong nhiều năm, ngài giữ chức Viện Trưởng
của trường đại học Rachol, thành phố Rachol thuộc tỉnh Salcete. Ngài
được xem là Cha Đẻ của La Tinh hóa tiếng Konkani ở Goa. Trong lúc tìm
hiểu nhiều ngôn ngữ Ấn Độ ở Goa, ngài là người đầu tiên nhận xét
rằng ngôn ngữ Ấn Độ có nhiều tương đồng với tiếng Hy Lạp và La Tinh
(Hãy xem Brijbraj Singh, The First Englishman in India: Thomas Stephens
(1547-1619), Journal of South Asian Literature,30(1/2), pages 146-161.
Retrieved on June 22, 2020 from www.jstor.org/stable/40873582).
[112] Cha
Étienne de la Croix là một tu sĩ người Pháp. Ngài gia nhập Dòng Chúa
Giêsu năm 1599 và đến Goa năm 1602. Ngài từng dạy triết học và thần
học ở đại học Rochol, Salsete. Ngài cũng từng giữ chức vụ Viện
Trưởng sau khi Cha Stephens về hưu. Ngài quen biết Cha Alexandre de Rhodes
khi Cha Rhodes đáp tàu xuống Goa năm 1620. Chính ngài là người giúp đỡ
nhà thám hiểm Pyrard rất nhiều khi ông bị nhốt tù ở Goa. Ngài mất
năm 1643 ở Goa.
[113] Vào
thời ấy, theo luật Bồ Đào Nha được chấp hành vào năm 1559, một đứa
trẻ Ấn Độ mà mất cha thôi cũng được xem như là mồ côi và phải bị
đổi đạo ra đạo Kitô. Sau đó, nó sẽ được dạy dỗ bởi một tu sĩ từ
trường đại học St. Paul hay Reig Margos. Vào năm 1619, khi Cha Aexandre de
Rhodes dừng chân tại Goa, ngài cũng kể chuyện đi tìm kiếm trẻ con mồ
côi trong sách của ông (Hãy xem Peter C. Phan, Mission and Catechesis, Orbis
Books, New York, 1998, trang 43).
[114] Ngày
lễ Cải Đạo ở Goa lúc nào cũng xảy ra vào ngày 25 tháng Giêng mỗi
năm.
[115] Albert
Gray, The Voyage of François Pyrard de Laval, Vol. II, Part I, trang 60.
[116] Alexandre
de Rhodes, Voyage et Missions du Père Alexandre de Rhodes, Paris, 1854, trang
29.
[117] Ignacio
da Costa Quintella, Annaes da Marinha Portugueza, Tomo II, Lisboa, Natipografia
da Mesma Aademia, 1840, trang 147.
[118] Maria
Cristina Trindade Guerreiro Osswald, Jesuit Art in Goa Between 1542 and 1655:
From Modo Nostro to Mod Goano, PHD Thesis, 2003, trang 286. Hàng năm, ngày
tựu trường ở trường đại học St. Paul lúc nào cũng bắt đầu vào ngày
lễ thánh Ursula và lễ “Mười Một Ngàn Người Trinh Tiết” (Eleven
Thousand Virgins), đó là ngày 21 tháng 10.
[119] Nhưng
hiện tại có nhiều tài liệu cho rằng Pina và nhóm bạn rời Goa vào
năm 1611. Nếu như thế, họ vẫn chưa học hết chương trình của lớp triết
học. Vì thế, hiện giờ tôi vẫn chưa rõ cho lắm khi nào Cha Pina rời
Goa về Macao, trong mùa hè năm 1611 hay năm 1612.
[120] Trong
thế kỷ 17, từ “Cochinchina” được các nước tây phương dùng để gọi
“Đàng Trong”. Vào năm 1515, ông Tome Pires (1465-1540) bắt đầu dùng từ
ngữ này trong sách ông sáng tác bao gồm hai từ “Cauchy” và “Chyna”.
Các nhà nghiên cứu nghĩ rằng “Cauchy” là lối phiên âm trại đi của hai
âm tiết “Giao” và “Chỉ” trong cái tên “Giao Chỉ” từ các thủy thủ
người Mã Lai vào thời ấy. Theo thời gian, “Cauchy” trở thành “Cochin”.
Nhưng rất tiếc, trong thế kỷ 16, người Bồ đã dùng từ Cochin để đặt tên
cho thành phố Cochin ở Ấn Độ. Vì thế, họ phải đệm thêm từ “Chyna”
hay “China” vào với “Cochin” để phân biệt Cochin và Đàng Trong (Hãy xem
Li Tana, Nguyễn Cochinchina, Cornell University, 1998, trang 13-14).
[121] Josef
Franz Schutte, S.J., Momenta Missionum Societatis IESU, Momenta Historica
Japaniae I, 1549-1654, Vol. 134, trang 638.
[122] Cha
Christoforo Borri cập bến Macao vào cuối năm 1615. Trong hai năm 1616-1618,
trước khi vào Đàng Trong, Cha Borri là Giáo Sư dạy toán học tại
trường đại học St. Paul ở Macao (Hãy xem Yves Camus, Macao and the
Jesuits: A Reading through the Prism of History, Macao Ricci Institute, trích
ra từ http://ch.catholic.or.kr/pundang/4/cb/macao_and_the_jesuits.pdf vào
ngày 13 tháng 7 năm 2020). Lúc ấy, Pina cũng đang học thần học vào năm
thứ tư tại đây. Trong sách Cha Borri truyền lại, ngài cũng nhắc đến
Pina một cách đằm thắm, khi hai người gặp lại nhau ở Hội An vào năm
1618 “we had been companions, and great friends, in the college of Macao.”
(Hãy xem Christopher Borri, An Account of Cochin-China, một phần của “A
Collection of Voyages and Travels“, Volume II, Third Edition, 1744. Trong trang
723).
[123] Sixto
and Dourado là hai giáo sĩ người Nhật, học cùng lớp thần học và
xuất gia cùng với Cha Pina năm 1616 tại Malacca. Hãy xem Jauan
Ruiz-De-Medina, El Jesuita Alessandro De Rhodesen Cochinchina Y Tonkin
(1591-1660), http://www.icm.gov.mo/rc/viewer/30038/2049 trích ra
ngày 2 tháng 7 năm 2020.
[124] Ibid,
Cha Antonio de Sousa là người Covilha, gần Guarda. Ngài và Cha Pina học
chung hai lớp triết lý và thần học ở Goa và Macao. Vào năm 1633, Cha
Sousa được gửi đến Nhật và tử đạo ở đó.
[125] Ribeiro,
Madalena, The Japanese Diaspora in the Seventeenth Century. According to Jesuit
Sources Bulletin of Portuguese - Japanese Studies, núm. 3, december, 2001,
pp. 53 – 83, Universidade Nova de Lisboa, Lisboa, Portugal, trang 71.
[126] Hãy
xem video sau đây https://www.youtube.com/watch?v=D-_hEKv8CFc hay https://www.youtube.com/watch?v=D-_hEKv8CFc&t=94s để
so sánh cách phát âm của tiếng Konkani và tiếng Việt của chúng ta.
[127] Dựa
vào những thành quả của Cha Alexandre de Rhodes đã viết trong quyển
ngữ pháp tiếng Việt Brevis Declaratio-Cha Rhodes là một trong hai học
trò chính thức của Cha Pina trước khi ngài mất, tôi cho rằng chính
ngài cũng áp dụng phương pháp phát âm của Konkani vào tiếng Việt,
thí dụ như trong hai từ “cách” và “mạnh” và cách phát âm của chúng
trong tiếng Việt (Hãy xem Andrew Gaudio, A Translation of the Linguae
Annamiticae seu Tunchinensis brevis declaratio: The First Grammar of Quốc Ngữ,
Journal of Vietnamese Studies, Vol. 14, Issue 3, pps.79-114, trong trang 86).
Cha Rhodes giải nghĩa về hai từ này và nhấn mạnh rằng hai từ
“cách”và “mạnh” có thể phát âm giống như /kæcʰ-cʰǝ/ và /mænh-hǝ/ nhưng
bỏ đi âm /cʰǝ và /hǝ/ đàng sau đi, thành ra /kæ cʰ/ và
/mænh/ . Trong pháp ngữ Konkani, việc ghép âm /ǝ/ vào vần cuối của
một phụ âm đứng cuối là cách phát âm thuần túy của
Konkani mà Cha Rhodes học được ở Salcete, Goa. Tương tự như
vậy, cũng trong Brevis Declaratio, trang 105, Cha Rhodes công bố rằng không
có động từ phủ định (negative verbs) trong tiếng Việt. Thật ra các
tiếng như Bồ, Pháp hay Ý và kể cả tiếng Việt đều không dùng
“negative verbs”. Không hiểu sao lúc viết văn phạm tiếng Việt, ngài lại
nghĩ và nhắc đến động từ phủ định trong tiếng Konkani để so sánh
với ngữ pháp của tiếng Việt. Vì thế, chúng ta có thể khẳng định
rằng khi ông viết quyển văn phạm Brevis Declaratio, ông đã liên quan hai
thứ tiếng nói này với nhau. Hiện nay, tôi đặt giả thuyết rằng chính
Cha Pina đã tìm thấy sự liên quan này trước và sau đó truyền lại cho
Cha Rhodes. Trong sách với tựa đề “Portuguese Missionary Grammars in Asia,
Africa and Brazil, 1550–1800”, trang 294, Otto Zwartjes cũng nhận thấy rằng
Cha Rhodes đã học một văn phạm ngoại quốc như Nhật Bản hay Ấn Độ, so
sánh với văn phạm Việt và nhắc nhở rằng tiếng Việt không dùng động
từ phủ định.
Nguồn: hdgmvietnam.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét