CUỘC LẺ CHÁNH TẾ NGŨ TUẦN
CHA
VÊRÔ NGUYỄN ĐỨC NHI VÀ CHA VÊRÔ NGUYỄN PHI ĐẬU
Linh
mục Địa Phận Nam Kỳ
Làm
tại Nhà Trường Latinh Saigon ngày 10 Décembre 1919.
--------------------------
Nhờ lòng quảng đại Đức
Cha ban phép, nên cuộc lễ Ngũ Tuần hai cha làm tại Nhà trường rất trọng thể.
Ngày ấy có hai Đức Cha, các cha tây nam trong Địa Phận tựu lại ước ngoài bảy chục.
Bổn đạo xung quanh Saigon, bà con cùng là thân bằng cố hữu hai cha, nhứt là bổn
đạo họ Cầu Kho vì cha sở cựu mình là cha Vêrô Nhi, nên cũng đều sum hiệp.
Tuy việc không tính trước
bao lâu, mà khá khen các cuộc trần thiết sắp đặt đâu đó đều nguy nga rực rỡ.
Đúng 8 giờ, khi hai Đức
Cha vào nhà thờ thì có bọn nhạc (fanfare) Thủ Ngữ đứng chực trước tiền đàng,
đánh một bản trước. Trong nhà thờ đã có các cha mặc áo các phép, bổn đạo vô đầy,
nhà thờ chật nứt, không chỗ chen chơn, nên ai tới sau thì phải ở ngoài.
Cha Vêrô Đậu đứng chánh tế
hành lễ. Hai Đức Cha ngự thị bên phía Êvang (hữu ảnh). Cha Vêrô Nhi mặc áo lễ
vàng quì chầu bên phía Epistola (tả ảnh), có hai cha, là cha Vêrô Thể và cha
Phaolồ Quyến là con cái người cho đi Nhà Trường buổi trước, hầu hai bên. cùng
giúp người khi đi, khi đứng, khi quì, vì hai con mắt người đã mù tối không thấy
được nữa.
Khởi sự làm lễ thì học
trò Nhà trường ở trên lầu hát bài Juravit
Dominus rất êm ái rập ràng, tiếng nhỏ hát cao thảnh thót rất hay. Nhiều cha
nghe bài nầy thì động lòng, nhớ lại ngày mình mới chịu chức.
Làm lễ vừa dứt Êvang, cha
Vêrô Đậu bước xuống bàn thờ qua ngồi bên tả ảnh ngang cha Vêrô Nhi.
Cha J. B. Nguyễn bá Tòng
là cha sở họ Bà Rịa bước ra xin phép lành Đức Cha, đoạn lên cấp trên phía Êvang
mà giảng một bài về cuộc lễ Ngũ Tuần rất nên thấm tháp, nghĩa lý cao sâu đầy ý
vị, làm cho ai nấy động tình, châu lụy tuôn rơi. Chẳng phải là buồn bã chuyện
chi, song động tình cám đội ơn Chúa, động tình khoái lạc trong lòng, động tình
cám ơn mến đức thầy cả công lao khó nhọc. (Như sẽ thấy trong bài giảng.)
Giảng rồi cha Vêrô Đậu bước
lên bàn thờ tiếp lễ. Trong mùa lễ, lúc thì hát hồi lại đánh nhạc; đờn trên lầu,
nhạc (fanfare) trước tiền đàng, luân phiên đối đáp rất hay. Lễ tất liền hát
kinh Te Deum cám đội ơn Chúa.
Qua 9 giờ rưỡi, học trò
Latinh có mời hai cha thọ Ngũ Tuần đến chỗ đã trần thiết trước mà chúc mầng.
Hai Đức Cha và các cha có
thị cuộc vui nầy. Bổn đạo cũng còn ở lại chia vui cùng sĩ tử. Học trò đờn ca xướng
hát nhiều bài, tiếng tây có, tiểng ta cũng có, thiệt là hay, ai nấy đều vỗ tay
lừng lẫy.
Học trò Latinh ca hát vừa
rồi, thoát chúc thấy bốn năm đồng nam nhỏ nhỏ, đai cân y phục kiêm thời, tay cầm
nhành hoa tay dưng bài tặng, bước vô hát một bài thảnh thót liếu lo giọng trẻ.
Đó là sứ họ Cầu Kho sai đến thay mặt cả và họ mà chúc mầng cám tạ đội ơn cha sở
cựu mình là cha Vêrô Nguyễn đức Nhi, xưa đã lao tâm tổn lực vì họ nầy trong 38
năm trời.
Đến 10 giờ rưỡi. Hai Đức
Cha và các cha dự tiệc; lúc ấy có nhạc Thủ Ngữ đánh chập. Bọn nhạc nầy có danh
trong Lục tĩnh: tập rèn thuần thục, đánh nhiều bài mạnh mẽ hẳn hòi.
Cuộc lễ xong rồi, ai nấy
lui về, thảy đều bằng lòng an trí, vì đặng sự vui mầng khoái lạc trong Chúa.
Hai cha làm lễ Vàng ngày
nay, đặag ơn Chúa ban sống đến buổi nầy, tuy đà cao niên trưởng kỷ, song sức lực
xem dường tráng kiện. Trông cậy lễ Vàng qua, lễ Ngọc đến. Ấy là đều Bổn Báo
chúc nguyền cho hai đứng.
N. K. Đ. P.
--------------------------
BÀI
GIẢNG
LỄ
NGŨ TUẦN CHA VÊRÔ NHI VÀ CHA VÊRÔ ĐẬU
Ngày
10 Décembre 1919
---------
“Euntes
ibant et flebant, mittentes semina sua; venientes autem venient cum
exultatione, portantes manipulos suos” (Ps. 125, 6).
“Mùa
gieo giống, thì những kẻ ấy và đi và khóc; mà tới mùa gặt, đem lúa về, thì những
kẻ ấy vui mừng phỉ dạ.”
Nghề làm ruộng, là nghề cực
khổ gian nan; việc cày bừa gieo vải, là việc khó nhọc nặng nề. Đêm ngày những dầm
mưa dãi nắng, lao lực nhọc nhằn. Cho nên lời Kinh Thánh nói: Những kẻ ấy và gieo và khóc..
Song tới mùa gặt, lúa
chín đỏ đồng, đoạn đem về nhà, thì vui mừng khoái lạc ai hầu kể xiết. Hết sợ thất
mùa, hết lo thiếu thốn, bao nhiêu công lao khó nhọc bèn trở nên vui mừng phỉ dạ.
Việc giảng đạo cũng là
nghề làm ruộng thiêng liêng, là cày bừa gieo vải trong phần đất Đ C T đã ký
thác cho mỗi một thầy cả. Cho nên, việc giảng đạo cũng là việc cực khổ gian
nan, cũng nói đặng thầy cả và gieo và khóc.
Mà việc giảng đạo lại
sinh vui mừng an ủi; vì sinh bông trái tốt lành ngon ngọt, là làm cho dân Chúa
thìn từ đức hạnh, làm cho kẻ ngoại đặng trở lại đạo, làm cho thiên hạ thờ phượng
kính mến Đ C T ở đời nầy, và ngày sau đặng thanh nhàn vui vẻ đời đời: Đó là mùa
gặt thiêng liêng, làm cho thầy cả vui mừng phỉ dạ.
Lạy
hai Đức Cha,
Con xin thay mặt hàng đạc
đức Nam Kỳ, mà cảm đội ơn Đức Cha rất nhơn từ quảng đại, Đức Cha đã dạy làm lễ
Ngũ Tuần hai linh mục bổn quốc, là hai anh cả chúng con. Chúng con hết lòng
nguyện xin cho Đức Cha vĩnh viễn miên trường, hầu ít năm nữa chúng con đặng phước
mừng lễ Ngũ Tuần Đức Cha, mà đền ơn trả thảo, cho phỉ lòng chúng con cám ơn mến
đức.
Kính
các Cha, ớ anh em,
Nhơn dịp ngày lễ rất trọng
hôm nay, tôi xin dưng đôi lời thuyết nghĩa câu Thánh Vịnh mới trưng đầu bài, mà
doãn lại những công lao khó nhọc hai cha đã chịu 50 năm trời, cho đặng giúp việc
Chúa trong Hội Thánh Nam Kỳ, – và kể lượt qua những sự vui mừng an ủi, thầy cả
thường gặp trong việc giảng đạo; cho đặng giục lòng ta cám tạ đội ơn Đ C T, vì
mọi ơn Chúa đã ban xuống cho hai cha, và những ơn Chúa đã dùng hai cha mà ban
phát cho thiên hạ trong vòng 50 năm.
I
Việc giảng đạo là việc cực
khổ gian nan, là trường để học chịu chết, cho đặng làm sáng danh Chúa, cùng
giúp việc rỗi linh hồn người thế.
1) Tiếng chết nầy có nghĩa thiêng liêng. Chết nầy
chẳng phải chết phứt một lần, như người chịu chém, một lưỡi gươm qua cổ liền hết
đau; cũng không phải như người bị một phát súng giữa chốn chiến trường, ngã xuống
liền chết.
Song là chết lần hồi, mỗi
ngày mỗi chết: “Quotidie morior” (1
Con. 15, 31). Từ ngày bước chơn vào nhà trường, thì đã tập chết lần hồi, cho đến
ngày chịu chức thầy cả, là ngày nên của lễ thượng tiến làm một cùng Đ C G, là
ngày chịu đóng đinh cùng Đ C G vào cây thánh giá: “Christo confixus sum cruci,” (GAL. 2, 19).
Chết,
là bỏ hết mọi sự: bỏ thế gian, cùng những sự vinh hoa phú quí thế gian; bỏ cuộc
đời, cùng mọi sự vui chơi sung sướng ở đời.
Chết,
là bỏ cha mẹ họ hàng, bỏ quê hương thân thuộc; bỏ cho tới mình, bỏ ý riêng
mình, liều thân, liều sức, liều mạng sống mình vì đoàn chiên Chúa.
Chết,
là cam lòng chịu thốn thiếu khó khăn, chịu gian nan cực khổ, cùng nhọc nhằn lao
lực, thầy cả thường gặp trong đấng bực mình.
Lại đang buổi xuân xanh,
cùng khi mạnh khỏe, thì cực khổ bao nhiêu cũng chẳng nệ, nặng nề mệt nhọc thể
nào cũng lướt. Mà khi đã lớn tuổi, đã già yếu, cùng khi đau ốm liệt lào, thì sự
cực một ngày một thêm cực, chén đắng càng lâu càng thêm đắng.
2) Đó là những sự cực khổ
phần xác, còn những sự cực khổ phần linh
hồn càng nặng nề hơn nữa, - Ghe phen thầy cả bị người ta nói hành bỏ vạ; bị
bắt bớ cáo gian. Mình những làm ơn, mà bị trả oán; bị trách móc phàn nàn, cùng
gièm chê phỉ báng.
Biết mấy lần lại bị nhiều
nỗi buồn rầu, đắng cay chua xót, như Đ C G chịu xưa trong vườn Giếtsêmani và
trên cây thánh giá; rầu nỗi người ngoại chấp nê cứng cỏi, chẳng chịu trở lại,
chẳng chịu nhìn biết Đ C T. - Ôi ôi ! biết là bao nhiêu người ngoại xứ nầy phải
mất linh hồn! Mà mất linh hồn một cách rất thảm thương chua xót; nghĩa là khi sống
thì nghèo cực khốn khó trăm đàng, rồi khi chết lại trầm luân khốn nạn đời đời!
Rầu nỗi con nhà có đạo, lớp
thì bỏ đạo, lớp thì nguội lạnh trễ nải, lớp lại buông mình theo đàng tội lỗi:
bài bạc rượu trà, đắm mê sắc dục, làm gương xấu, cách ăn thói ở có khi chẳng bằng
kẻ ngoại.
Rầu nỗi Máu thánh Đ C G đã đổ ra cho người ta đặng nhờ
phần rồi, mà người ta chẳng chịu nhờ: “Quæ utilitas
in sanguine meo?” (Ps. 29, 10), Biết bao nhiêu người uổng phí công linh
Chúa chuộc! Biết bao nhiêu người chẳng sá chi phước trọng vô cùng trên trời, cứ
lầm lủi tìm sự phù vân dưới đất!
Trong những cơn buồn thể ấy,
thầy cả nghe một tiếng trong lòng, là tiếng đau đớn thảm sầu, là tiếng các
thánh Tiên tri Chúa sai xưa, đêm ngày những than thở rằng: Ta làm hết sức cứu
chữa cho Babylon đặng lành, mà nó không chịu lành, “Curavimus
Babylonem, et non est sanata”. (Jer. 31, 9).
3) Còn việc dạy dỗ tập rèn giáo nhơn cho nên người
thìn từ đạo đức thì cũng là việc khó nhọc lâu dài. Vì chưng làm cho kẻ ngoại trở
lại, thì mới được nữa phần việc giảng đạo mà thôi. Cho nên ông thánh Phaolồ gọi
việc giáo huấn người có đạo, là Sinh lần
thứ hai: “Fili-oli mei, quos iterum
parturio, donec formctur Christus in vobis,” Ông thánh Phaolồ dùng tiếng
Sinh “parturio”: sinh con, thì ai
cũng hiểu đau đớn cực khổ là dường nào, – Vậy, làm cho kẻ ngoại trở lại, là
sinh lần thứ nhứt. Làm cho người có đạo nên nhơn đức trọn lành, là sinh lần thứ
hai. Hai lần cũng đau đớn cực khổ hòa hai.
Xưa Đ C T cho tiên tri Ezẻchiel
thấy một đồng lớn, và hài cốt kẻ chết trạt đồng. Thánh tiên tri bèn khiến gió
thổi trên hài cốt khô ấy, tức thì xương sọ liền hiệp lại mà chỗi dậy, trở nên
người sống. - Ít thầy cả được phước như tiên tri Ezẻchiel, mà làm cho muôn vàn
người ngoại, là hài cốt khô, rùng rùng chỗi dậy mà trở lại đạo; hay là làm cho
người có đạo, mà đầy tính hư nết xấu và chết trước mặt Đ C T, thoát chút đặng sống
lại thật, và trở nên nhơn đức trọn lành.
Biết là mấy cơn buồn, biết
là bao nhiêu đểu cực khổ gian nan. trong việc lập họ, trong việc coi sóc linh hồn
giáo hữu! Ông thánh Phaolồ là đấng giảng đạo, đại thánh và đại tài, người đã trải
qua mọi cơn gian nan ấy, đoạn phải ra một tiếng đau đớn thảm thương rằng: Thầy cực trí cực lòng hết sức, đến đỗi dầu sống
thì cũng hết muốn sống: “Supra modum gravati sumus, ita ut tæderet nos etiam
vivere!” (Cor. 1, 8).
Kể lượt qua bấy nhiêu lời,
khì đủ hiểu công lao khó nhọc hai cha. đã chịu trọn 50 năm, cho đặng giúp việc
Hội Thánh Nam Kỳ, thì biết công trình lao khổ là dường nào!
4) Hai cha đi học bên
Pinang. Lìa cha mẹ quê hương, đàng xa xuôi hiểm trở. Bị chìm ghe giữa biển, một
cha khi đi, một cha khi về; nhờ tàu buôn vớt đem đi tới nơi, đem về tới chốn.
Khi trở về Địa Phận, thì hai cha theo các cha, mà giúp việc giảng đạo.
Cha cựu Cầu Kho (là cha Vêrô Nhi, bây giờ ở nhà hưu trí, tại
Chí Hòa) đi miệt Cái Bè, lập họ Cái Thia, Cái Bèo, Cần Lố, Trà Lọt và Trà
Tân. Người ái mộ việc giảng đạo, cùng đã rửa tội được nhiều chầu nhưng đạo mới
trong các họ ấy.
Còn cha Vĩnh Hựu (là cha Vêrô Đậu, đang coi họ Vĩnh Hựu và ít
họ nhỏ, về sở Gò Công) thì đi miệt trên. Lái Thiêu, Búng và Bà Trà. Sau về
Saigon, giúp cha Bề trên Vị (Wibaux), lập nhà trường nhỏ bên Xóm Chiếu, đoạn cất
nhà trường lớn đồ sộ tốt lành tại đây, chổ nhà lớn bây giờ, mà đã sửa từng trên.
Thỉnh khoảng và giúp việc
Hội Thánh, và chịu chức, Khi chịu chức thầy cả đoạn, thì Đức Cha sai đi nhiều
nơi trong Địa Phận, chổ thì coi họ cũ, nơi thì lập họ mới.
Tới đâu cũng tận tâm tận
lực lo cho sáng danh Chúa, cùng giúp linh hồn giáo hữu. Lập nhà thờ nhà thánh,
lo việc nhà trường nhà phước, giáo huấn trẻ thơ, dạy dỗ chầu nhưng đạo mới, tập
rèn bổn đạo nên nhơn đức trọn lành. Trăm việc ngày ngày đắp đổi. Ngày qua tháng
lại, thì cực khổ cũng đắp đổi khứ lai, từ ấy đến rày tính đã 50 năm!
Cám thương cha cựu Cầu
Kho! tuổi cao mà đàng đi đang còn sấn sướt, công việc còn đang phấn phát như buổi
xuân xanh, đang vui vầy cùng đoàn chiên Chúa tại Cầu Kho đã đặng 38 năm, bỗng đâu
gãy gánh giữa đàng trở nên đui tối; thiệt là thánh giá rất nặng nề cho đấng ái
mộ đèn sách, và siêng năng công việc. Cha ôm lòng vác thánh giá Chúa trao, làm
của lễ tế thay vì công linh giảng đạo.
Khen thay cha Vĩnh Hựu! tới
tuổi nầy mà còn gắng gượng làm việc Chúa một cách rất đáng thương! Lòng cha hiền
lành, thương giúp giáo nhơn, đâu đâu tiếng người đều khen ngợi.
Ấy vậy, ớ hai cha rất
đáng kính và rất mến yêu, công hai cha vun trồng gieo vải rất thậm dày. Đất Nam
Kỳ dầm thấm ơn thiêng. Nay chúng tôi sum hiệp chốn nầy, là đất sinh hàng đạc đức,
mà nhắc công trình lao khổ hai cha.
Bây giờ ta hãy ngữa mắt
mà xem các miền trong Địa Phận. “Levate
oculos vestros, el videte regiones, quia albæ sunt jam ad messem”. (JOAN.
4, 35), Công gieo vải vun trồng đã trỗ sinh bông trái nơi nơi. Kìa mùa gặt đã tới,
ta hãy vui mừng: “Venientes autem venient
cum exultatione, portantes manipulos suos”.
Vậy bây giờ ta hãy gẫm: Tại
đâu mà việc giảng đạo sinh vui mừng an ủi cho thầy cả.
ІІ
1. ĐỜI NAY. - Mạch vui mừng
an ủi thầy cả, thì trước hết thầy cả gặp trong chức phận mình,
a) Thầy cả đã biết Đ C T
chọn mình, cho đặng giúp việc cao trọng vô biên, cùng một việc như Đ C G đã
làm, là việc chuộc tội cứu thế, việc rỗi linh hồn thiên hạ. Thầy cả ở trong một
xử, ở trong một nước, thì một mình gánh hết phần rỗi cả xứ, cả nước. Biết bao
nhiêu người phải nhờ thầy cả, mới biết đạo thánh Đ C T, mới trông đặng rỗi! Biết
mấy linh hồn phải chạy đến cũng thầy cả, mới đặng chịu ơn Chúa! Dầu trong cả và
thế gian còn một thầy cả mà thôi, thì cũng còn đủ đều cần kíp, cho đặng cứu thế
gian, vì còn thầy cả thì còn Hội Thánh, còn thầy cả thì còn mạch sống thiêng
liêng, làm cho thiên hạ đặng sống đời đời. – Đó là đều an ủi thầy cả, và làm
cho người nên vững vàng mạnh mẽ, lướt thắng mọi cơn buồn bực ngã lòng.
Bỡi vậy thầy cả đặng quờn
cao phẩm trọng trong Hội Thánh Đ C T, đặng ơn thông minh sáng láng, hầu dạy dỗ
cùng dẫn đàng cho muôn dân khỏi chốn lầm lạc tối tâm, mà đem vào chánh lộ và
nơi sáng láng đời đời.
Ông thánh Aucuxitinh gọi
thầy cả là Vua linh hồn, Đ C T đã phú
cho thầy cả quờn phép vô biên, và giao sự sống thiêng liêng mặc tay người ban
phát. Người làm tướng, dẫn đàng rỗi linh hồn, người bày binh bố trận cho giáo
nhơn đặng thắng ma quỉ xác thịt thế gian, cùng đặng khởi huờn vinh hiển đời đời.
- Lời Kinh Thánh gọi thầy cả là Tiền hô
Chúa Cứu thế, là kẻ gìn giữ đức tin, cùng là rường cột Hội Thánh.
b) Thầy cả gặp sự vui mừng
an ủi trong chức phận mình. Bổn phận
thầy cả là làm lành cho thiên hạ, như lời Đ C G phán rằng: Tao đã chọn bay và đặt bay lên, cho bay đi làm lành cho người thế.
- Việc giảng đạo làm cho kẻ ngoại trở lại, làm cho người có đạo đặng nên nhơn đức
trọn lành. Việc giảng đạo là hột giống, mọc lên cây đạo đức tốt lành, cùng trổ
sinh trái trăng ngon ngọt, là sinh các gương nhơn đức, cùng các giống việc
lành.
Thầy cả làm cho kẻ ngoại
bỏ việc dị đoan giả trá, mà trở lại thờ phượng kính mến Đ C T, thì ai kể cho xiết
lòng người vui mừng khoái lạc là dường nào! Khi thấy kẻ đang làm tôi tá ma quỉ,
thoát chúc trở nên con cái Đ C T, nhìn đạo thánh Chúa là chơn thật tốt lành, rồi
lần hồi cởi tính thư nết xấu, mà mặc tánh hạnh người đạo đức ngoan ngùy, thì
thiệt là đều vui mừng an ủi không lưỡi nào kể đặng.
Khi thấy trong giáo hữu,
nhiều kẻ nguội lạnh trở nên sốt sắng; nhiều người tội lỗi cải dữ về lành; nhiều
linh hồn, khi Chúa kí thác cho mình, thì giống như cọp hùm sư tử, mà bây giờ trở
nên chiên lành, thì sự vui mừng ấy Đ C G đã phán tỏ trong sách Êvang, chẳng những
là vui mừng cho người dưới thể, mà lại vui mừng cho thần thánh trên thiên đàng
nữa: “Gaudium erit in coelo super uno
peccatore penitentiam agente” (LUC, 15, 7). Ất là thầy cả cũng nói đặng về
các kẻ ấy, lời ông thánh Phaolồ nói về những kẻ người đã đem về ràn chiên Chúa
rång: “Vos enim estis gloria nostra el
gaudium”, (1 The. 2, 20): Anh em là sự
vui mừng, là triều thiên cùng là vinh hiển của thầy.
Ấy là lúa chín thâu trử
vào kho Hội Thánh: “Venientes autem
venient cum exultatione, portantes manipulos suos.”
Song giả như ta cày bừa
gieo vải hết sức hết hơi, mà gặt không được bao nhiêu, lúa vào kho không mấy hột;
thì ta chớ thua buồn mà bỏ công việc, cũng đừng bớt lòng sốt sắng làm chi. Ngày
sau Đ C T chẳng hỏi ta đã làm cho mấy trăm, mấy ngàn người trở lại; một hỏi ta
có dùng hết tài năng sức lực mà giúp việc Người chăng? Chúa sẽ thưởng ta theo
việc ta làm, theo công lao khó nhọc ta chịu, mà làm cho sáng danh Chúa; chẳng
phải theo số người ta trở lại ít nhiều đâu. Nếu ta chẳng đặng gặt ở đời nầy,
thì sẽ gặt đời sau trên nước thiên đàng.
2. ĐỜI SAU. - Ấy là mạch sinh vui mừng an ủi hơn hết
cho thầy cả, trong mọi cơn gian nan khốn khó người gặp ở đời. “Nonne haec oportuit pati Christum
et ita intrare in gloriam suam” (Luc. 24, 26). Đ C G là Quan Thầy,
ta là môn đệ, Đ C G đã chịu thương khó, và nhờ thương khó thì mới đặng vinh hiển
– Ta muốn vinh hiển cùng Người, thì ta cũng phải chịu thương khó với Người.
Đều ấy dễ giải, và các lời phân giải đều an ủi thầy cả,
cùng ban ơn giúp sức cho người đặng vui lòng mà chịu mọi nỗi gian nan đời nầy.
Lại thầy cả đã biết, mình càng chịu gian nan cực khổ chừng nào, càng thông phần
thương khó Đ C G chừng nào, thì càng đặng vinh hiển chừng ấy.
Vậy khi ta gặp thánh giá nặng nề trong việc bổn phận
thầy cả, thì ta hãy nhớ lời ông thánh Phaolồ, mà giục bảo lòng ta cam chịu một
chút khốn khó chóng qua. chóng hết đời nầy, cho đặng phước trọng vọng vô cùng
vô tận đời sau: “Momentaneum et leve
tribulationis nostrae, aeternum gloriae pondus operatur nobis” (2 Cor. 4,
17). Cực khổ đời nầy, dầu nhiều, dầu nặng thể nào mặc lòng, cũng không ví đặng
cùng phần phước đời sau vô cùng!
Mà nhứt là ta hãy nhớ lời Đ C G an ủi ta rằng: “Vos autem vui permansistis mecum in
tribulationibus meis, ego dispono vobis regnum, ut sedeatis super thronos”
(Luc, 22, 28-30): Bay đä сam lòng gian nan
khốn khó cùng Tao, thì Tao lại dọn tòa vàng ngai ngọc cho bay ngự trị cùng Tao
trên nước thiên đàng.
Cực khổ gian nan là hột
giống, sinh thanh nhàn vinh hiển vô cùng. Cho nên ta chớ buồn làm chi, một hãy
xem phần thưởng trên trời, mà thối thúc lòng ta mạnh mẽ sấn sướt cho đến chết.
– Người nông phu gieo giống xuống đất mùa hè, thì qua mùa đông, hay là đầu mùa
xuân mới gặt. Mùa ta sống, là mùa gieo vải cày bừa, là mùa khóc lóc gian nan,
mai mốt - mai mốt mà thôi, vì cực khổ
đời nầy chẳng bao lâu - mai mốt sẽ tới mùa gặt, là mùa vui mừng toại chí vô
cùng vô tận.
Thầy cả nhớ phần phước đời
sau, thì cầm khốn khó đời nầy rất nên châu báu! Mấy họ ta đã cực khổ lo buồn, mấy
làng ta đã giảng rao lời Chúa, mấy nơi ta đã chịu bắt bớ gian nan, mấy nhà thờ
ta đã đổ mồ hôi cùng sa nước mắt, mấy nơi ấy sẽ làm cho ta đặng phần thưởng tốt
lành vinh hiển là thế nào! “Laetati sumus
pro diebus quibus vidimus mala” (Ps, 89, 15): Ta sẽ vui mừng vì mấy ngày ta đã gặp giam lam khốn khó.
“Quam pulchri pedes prædicantis salutem”( Isai. 52, 7): Chơn các đấng
giảng rao phân rỗi, tốt lành biết là đường nào!. “Quam speciosi pedes evangelizantium pacem, evangelisantium bona”
(Rom. 10, 15): Những bước thầy cả đi giảng
truyền sự bằng an, cùng cao rao sự lành, thiệt rất xinh tốt báu trọng ai hầu kể
xiết!
Các đấng thông minh giáo
hóa nhơn dân, sẻ chói lòa rực rỡ như mặt trời đứng ngọ: “Qui autem docti fuerint, fulgebunt quasi splendor firmamenti”, và các đấng dạy người ta theo nẻo ngay lành
công chánh, thì sẽ sáng láng như sao ở trên trời, đời đời kiếp kiếp! “Ét qui ad justitiam erudiunt multos, quasi stellæ
in perpetuas æternitates” (Dan. 12, 3).
Vậy, ớ hai cha rất đáng
kính và rất mến yêu, công lao khó nhọc hai cha vun trồng gieo vải trong Hội
Thánh Nam Kỳ đã đặng 50 năm. Tôi xin tính phỏng coi huê lợi thiêng liêng trong
50 năm ấy là bao nhiêu.
Trước hết, chúng tôi làm
lễ Ngũ Tuần hai cha, cho nên hai Ngũ Tuần nhập lại là 100 năm, thì tôi xin phép
tính chung huê lợi hai cha trong 100 năm.
- Vậy, tổng cộng 100 năm,
cha đã rửa tội cho chầu nhưng đạo mới, cha đã mở cữa Hội thánh cho con cái nhà
có đạo đặng vào, là mấy ngàn lần!
- Trong 100 năm, cha đã ban
lương thực thiên thần cho người khách tục, cha đã phát bánh mầu nhiệm cho các Êlia
đói nhọc dọc đàng hiểm trở, là mấy muôn, mấy vẹo lần!
- Hết thảy 100 năm, số những
người cải tử huờn sinh trong tòa giải tội, số những Samaritanô bị kẻ cướp đánh,
bán sanh bán tử, dọc đàng truông hiểm thế nầy, mà cha đã đổ rượu cùng dầu rịt
nơi thương tích, cha đã cho lành, thì số những người ấy ước được mấy muôn, hay
là mấy vẹo!
- Trong 100 năm, biết là
mấy người bịnh hoạn liệt lào, nhờ cha viếng thăm an ủi, nhờ cha giúp đỡ xác hồn,
và giúp chết lành trong giờ lâm tử!
- Trong 100 năm, biết là
mấy người tật nguyền bịnh hoạn, nhờ cha mà đỡ lúc nguy nan; biết là mấy người
đói rách, nhờ cha mà no cơm ấm áo!
- Trong một đời, biết là
muôn triệu nào lời cha an ủi dạy dỗ kẻ lớn người nhỏ, kẻ ngoại người đạo, cho
ai nấy biết đàng thờ phượng kính mến Đ C T, biết đàng sanh thuận tử an, hầu hưởng
phước tiêu diêu cõi thọ.
- Trót 100 năm, biết là mấy
lần cha đã sấp mình nơi cung thánh: “inter
vestibulum et altare,” mà khóc than thầm thỉ xin Chúa duông thứ cho đoàn
chiên cha; biết là mấy lần cha giăng tay trên núi như Môisen xưa, mà khấn nguyện
cho dân Chúa toàn công thẳng trận!
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1919
Chào anh, nếu được, xin anh có thể cho mình xin một số tấm ảnh có liên quan đến họ Cầu Kho được không? Tôi xin cảm ơn.
Trả lờiXóa