ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Thứ Ba, 11 tháng 10, 2022

Cuộc lễ Chánh tế Ngũ tuần Cha Phêrô Nguyễn Đức Nhi & Cha Phêrô Nguyễn Phi Đậu

 CUỘC LẺ CHÁNH TẾ NGŨ TUẦN

CHA VÊRÔ NGUYỄN ĐỨC NHI VÀ CHA VÊRÔ NGUYỄN PHI ĐẬU

Linh mục Địa Phận Nam Kỳ

Làm tại Nhà Trường Latinh Saigon ngày 10 Décembre 1919.

--------------------------

Nhờ lòng quảng đại Đức Cha ban phép, nên cuộc lễ Ngũ Tuần hai cha làm tại Nhà trường rất trọng thể. Ngày ấy có hai Đức Cha, các cha tây nam trong Địa Phận tựu lại ước ngoài bảy chục. Bổn đạo xung quanh Saigon, bà con cùng là thân bằng cố hữu hai cha, nhứt là bổn đạo họ Cầu Kho vì cha sở cựu mình là cha Vêrô Nhi, nên cũng đều sum hiệp.

Tuy việc không tính trước bao lâu, mà khá khen các cuộc trần thiết sắp đặt đâu đó đều nguy nga rực rỡ.

Đúng 8 giờ, khi hai Đức Cha vào nhà thờ thì có bọn nhạc (fanfare) Thủ Ngữ đứng chực trước tiền đàng, đánh một bản trước. Trong nhà thờ đã có các cha mặc áo các phép, bổn đạo vô đầy, nhà thờ chật nứt, không chỗ chen chơn, nên ai tới sau thì phải ở ngoài.

Cha Vêrô Đậu đứng chánh tế hành lễ. Hai Đức Cha ngự thị bên phía Êvang (hữu ảnh). Cha Vêrô Nhi mặc áo lễ vàng quì chầu bên phía Epistola (tả ảnh), có hai cha, là cha Vêrô Thể và cha Phaolồ Quyến là con cái người cho đi Nhà Trường buổi trước, hầu hai bên. cùng giúp người khi đi, khi đứng, khi quì, vì hai con mắt người đã mù tối không thấy được nữa.

Khởi sự làm lễ thì học trò Nhà trường ở trên lầu hát bài Juravit Dominus rất êm ái rập ràng, tiếng nhỏ hát cao thảnh thót rất hay. Nhiều cha nghe bài nầy thì động lòng, nhớ lại ngày mình mới chịu chức.

Làm lễ vừa dứt Êvang, cha Vêrô Đậu bước xuống bàn thờ qua ngồi bên tả ảnh ngang cha Vêrô Nhi.

Cha J. B. Nguyễn bá Tòng là cha sở họ Bà Rịa bước ra xin phép lành Đức Cha, đoạn lên cấp trên phía Êvang mà giảng một bài về cuộc lễ Ngũ Tuần rất nên thấm tháp, nghĩa lý cao sâu đầy ý vị, làm cho ai nấy động tình, châu lụy tuôn rơi. Chẳng phải là buồn bã chuyện chi, song động tình cám đội ơn Chúa, động tình khoái lạc trong lòng, động tình cám ơn mến đức thầy cả công lao khó nhọc. (Như sẽ thấy trong bài giảng.)

Giảng rồi cha Vêrô Đậu bước lên bàn thờ tiếp lễ. Trong mùa lễ, lúc thì hát hồi lại đánh nhạc; đờn trên lầu, nhạc (fanfare) trước tiền đàng, luân phiên đối đáp rất hay. Lễ tất liền hát kinh Te Deum cám đội ơn Chúa.

Qua 9 giờ rưỡi, học trò Latinh có mời hai cha thọ Ngũ Tuần đến chỗ đã trần thiết trước mà chúc mầng.

Hai Đức Cha và các cha có thị cuộc vui nầy. Bổn đạo cũng còn ở lại chia vui cùng sĩ tử. Học trò đờn ca xướng hát nhiều bài, tiếng tây có, tiểng ta cũng có, thiệt là hay, ai nấy đều vỗ tay lừng lẫy.

Học trò Latinh ca hát vừa rồi, thoát chúc thấy bốn năm đồng nam nhỏ nhỏ, đai cân y phục kiêm thời, tay cầm nhành hoa tay dưng bài tặng, bước vô hát một bài thảnh thót liếu lo giọng trẻ. Đó là sứ họ Cầu Kho sai đến thay mặt cả và họ mà chúc mầng cám tạ đội ơn cha sở cựu mình là cha Vêrô Nguyễn đức Nhi, xưa đã lao tâm tổn lực vì họ nầy trong 38 năm trời.

Đến 10 giờ rưỡi. Hai Đức Cha và các cha dự tiệc; lúc ấy có nhạc Thủ Ngữ đánh chập. Bọn nhạc nầy có danh trong Lục tĩnh: tập rèn thuần thục, đánh nhiều bài mạnh mẽ hẳn hòi.

Cuộc lễ xong rồi, ai nấy lui về, thảy đều bằng lòng an trí, vì đặng sự vui mầng khoái lạc trong Chúa.

Hai cha làm lễ Vàng ngày nay, đặag ơn Chúa ban sống đến buổi nầy, tuy đà cao niên trưởng kỷ, song sức lực xem dường tráng kiện. Trông cậy lễ Vàng qua, lễ Ngọc đến. Ấy là đều Bổn Báo chúc nguyền cho hai đứng.

N. K. Đ. P.


Cha Phêrô Nhi ở Cầu Kho trong dịp mừng Ngũ tuần Chánh tế

--------------------------

BÀI GIẢNG

LỄ NGŨ TUẦN CHA VÊRÔ NHI VÀ CHA VÊRÔ ĐẬU

Ngày 10 Décembre 1919

---------

“Euntes ibant et flebant, mittentes semina sua; venientes autem venient cum exultatione, portantes manipulos suos” (Ps. 125, 6).

“Mùa gieo giống, thì những kẻ ấy và đi và khóc; mà tới mùa gặt, đem lúa về, thì những kẻ ấy vui mừng phỉ dạ.”

Nghề làm ruộng, là nghề cực khổ gian nan; việc cày bừa gieo vải, là việc khó nhọc nặng nề. Đêm ngày những dầm mưa dãi nắng, lao lực nhọc nhằn. Cho nên lời Kinh Thánh nói: Những kẻ ấy và gieo và khóc..

Song tới mùa gặt, lúa chín đỏ đồng, đoạn đem về nhà, thì vui mừng khoái lạc ai hầu kể xiết. Hết sợ thất mùa, hết lo thiếu thốn, bao nhiêu công lao khó nhọc bèn trở nên vui mừng phỉ dạ.

Việc giảng đạo cũng là nghề làm ruộng thiêng liêng, là cày bừa gieo vải trong phần đất Đ C T đã ký thác cho mỗi một thầy cả. Cho nên, việc giảng đạo cũng là việc cực khổ gian nan, cũng nói đặng thầy cả và gieo và khóc.

Mà việc giảng đạo lại sinh vui mừng an ủi; vì sinh bông trái tốt lành ngon ngọt, là làm cho dân Chúa thìn từ đức hạnh, làm cho kẻ ngoại đặng trở lại đạo, làm cho thiên hạ thờ phượng kính mến Đ C T ở đời nầy, và ngày sau đặng thanh nhàn vui vẻ đời đời: Đó là mùa gặt thiêng liêng, làm cho thầy cả vui mừng phỉ dạ.

Lạy hai Đức Cha,

Con xin thay mặt hàng đạc đức Nam Kỳ, mà cảm đội ơn Đức Cha rất nhơn từ quảng đại, Đức Cha đã dạy làm lễ Ngũ Tuần hai linh mục bổn quốc, là hai anh cả chúng con. Chúng con hết lòng nguyện xin cho Đức Cha vĩnh viễn miên trường, hầu ít năm nữa chúng con đặng phước mừng lễ Ngũ Tuần Đức Cha, mà đền ơn trả thảo, cho phỉ lòng chúng con cám ơn mến đức.

Kính các Cha, ớ anh em,

Nhơn dịp ngày lễ rất trọng hôm nay, tôi xin dưng đôi lời thuyết nghĩa câu Thánh Vịnh mới trưng đầu bài, mà doãn lại những công lao khó nhọc hai cha đã chịu 50 năm trời, cho đặng giúp việc Chúa trong Hội Thánh Nam Kỳ, – và kể lượt qua những sự vui mừng an ủi, thầy cả thường gặp trong việc giảng đạo; cho đặng giục lòng ta cám tạ đội ơn Đ C T, vì mọi ơn Chúa đã ban xuống cho hai cha, và những ơn Chúa đã dùng hai cha mà ban phát cho thiên hạ trong vòng 50 năm.

I

Việc giảng đạo là việc cực khổ gian nan, là trường để học chịu chết, cho đặng làm sáng danh Chúa, cùng giúp việc rỗi linh hồn người thế.

1) Tiếng chết nầy có nghĩa thiêng liêng. Chết nầy chẳng phải chết phứt một lần, như người chịu chém, một lưỡi gươm qua cổ liền hết đau; cũng không phải như người bị một phát súng giữa chốn chiến trường, ngã xuống liền chết.

Song là chết lần hồi, mỗi ngày mỗi chết: “Quotidie morior” (1 Con. 15, 31). Từ ngày bước chơn vào nhà trường, thì đã tập chết lần hồi, cho đến ngày chịu chức thầy cả, là ngày nên của lễ thượng tiến làm một cùng Đ C G, là ngày chịu đóng đinh cùng Đ C G vào cây thánh giá: “Christo confixus sum cruci,” (GAL. 2, 19).

Chết, là bỏ hết mọi sự: bỏ thế gian, cùng những sự vinh hoa phú quí thế gian; bỏ cuộc đời, cùng mọi sự vui chơi sung sướng ở đời.

Chết, là bỏ cha mẹ họ hàng, bỏ quê hương thân thuộc; bỏ cho tới mình, bỏ ý riêng mình, liều thân, liều sức, liều mạng sống mình vì đoàn chiên Chúa.

Chết, là cam lòng chịu thốn thiếu khó khăn, chịu gian nan cực khổ, cùng nhọc nhằn lao lực, thầy cả thường gặp trong đấng bực mình.

Lại đang buổi xuân xanh, cùng khi mạnh khỏe, thì cực khổ bao nhiêu cũng chẳng nệ, nặng nề mệt nhọc thể nào cũng lướt. Mà khi đã lớn tuổi, đã già yếu, cùng khi đau ốm liệt lào, thì sự cực một ngày một thêm cực, chén đắng càng lâu càng thêm đắng.

2) Đó là những sự cực khổ phần xác, còn những sự cực khổ phần linh hồn càng nặng nề hơn nữa, - Ghe phen thầy cả bị người ta nói hành bỏ vạ; bị bắt bớ cáo gian. Mình những làm ơn, mà bị trả oán; bị trách móc phàn nàn, cùng gièm chê phỉ báng.

Biết mấy lần lại bị nhiều nỗi buồn rầu, đắng cay chua xót, như Đ C G chịu xưa trong vườn Giếtsêmani và trên cây thánh giá; rầu nỗi người ngoại chấp nê cứng cỏi, chẳng chịu trở lại, chẳng chịu nhìn biết Đ C T. - Ôi ôi ! biết là bao nhiêu người ngoại xứ nầy phải mất linh hồn! Mà mất linh hồn một cách rất thảm thương chua xót; nghĩa là khi sống thì nghèo cực khốn khó trăm đàng, rồi khi chết lại trầm luân khốn nạn đời đời!

Rầu nỗi con nhà có đạo, lớp thì bỏ đạo, lớp thì nguội lạnh trễ nải, lớp lại buông mình theo đàng tội lỗi: bài bạc rượu trà, đắm mê sắc dục, làm gương xấu, cách ăn thói ở có khi chẳng bằng kẻ ngoại.

Rầu nỗi Máu thánh Đ C G đã đổ ra cho người ta đặng nhờ phần rồi, mà người ta chẳng chịu nhờ: “Quæ utilitas in sanguine meo?” (Ps. 29, 10), Biết bao nhiêu người uổng phí công linh Chúa chuộc! Biết bao nhiêu người chẳng sá chi phước trọng vô cùng trên trời, cứ lầm lủi tìm sự phù vân dưới đất!

Trong những cơn buồn thể ấy, thầy cả nghe một tiếng trong lòng, là tiếng đau đớn thảm sầu, là tiếng các thánh Tiên tri Chúa sai xưa, đêm ngày những than thở rằng: Ta làm hết sức cứu chữa cho Babylon đặng lành, mà nó không chịu lành,  Curavimus Babylonem, et non est sanata”. (Jer. 31, 9).

3) Còn việc dạy dỗ tập rèn giáo nhơn cho nên người thìn từ đạo đức thì cũng là việc khó nhọc lâu dài. Vì chưng làm cho kẻ ngoại trở lại, thì mới được nữa phần việc giảng đạo mà thôi. Cho nên ông thánh Phaolồ gọi việc giáo huấn người có đạo, là Sinh lần thứ hai: “Fili-oli mei, quos iterum parturio, donec formctur Christus in vobis,” Ông thánh Phaolồ dùng tiếng Sinh “parturio”: sinh con, thì ai cũng hiểu đau đớn cực khổ là dường nào, – Vậy, làm cho kẻ ngoại trở lại, là sinh lần thứ nhứt. Làm cho người có đạo nên nhơn đức trọn lành, là sinh lần thứ hai. Hai lần cũng đau đớn cực khổ hòa hai.

Xưa Đ C T cho tiên tri Ezẻchiel thấy một đồng lớn, và hài cốt kẻ chết trạt đồng. Thánh tiên tri bèn khiến gió thổi trên hài cốt khô ấy, tức thì xương sọ liền hiệp lại mà chỗi dậy, trở nên người sống. - Ít thầy cả được phước như tiên tri Ezẻchiel, mà làm cho muôn vàn người ngoại, là hài cốt khô, rùng rùng chỗi dậy mà trở lại đạo; hay là làm cho người có đạo, mà đầy tính hư nết xấu và chết trước mặt Đ C T, thoát chút đặng sống lại thật, và trở nên nhơn đức trọn lành.

Biết là mấy cơn buồn, biết là bao nhiêu đểu cực khổ gian nan. trong việc lập họ, trong việc coi sóc linh hồn giáo hữu! Ông thánh Phaolồ là đấng giảng đạo, đại thánh và đại tài, người đã trải qua mọi cơn gian nan ấy, đoạn phải ra một tiếng đau đớn thảm thương rằng: Thầy cực trí cực lòng hết sức, đến đỗi dầu sống thì cũng hết muốn sống: “Supra modum gravati sumus, ita ut tæderet nos etiam vivere!” (Cor. 1, 8).

Kể lượt qua bấy nhiêu lời, khì đủ hiểu công lao khó nhọc hai cha. đã chịu trọn 50 năm, cho đặng giúp việc Hội Thánh Nam Kỳ, thì biết công trình lao khổ là dường nào!

4) Hai cha đi học bên Pinang. Lìa cha mẹ quê hương, đàng xa xuôi hiểm trở. Bị chìm ghe giữa biển, một cha khi đi, một cha khi về; nhờ tàu buôn vớt đem đi tới nơi, đem về tới chốn. Khi trở về Địa Phận, thì hai cha theo các cha, mà giúp việc giảng đạo.

Cha cựu Cầu Kho (là cha Vêrô Nhi, bây giờ ở nhà hưu trí, tại Chí Hòa) đi miệt Cái Bè, lập họ Cái Thia, Cái Bèo, Cần Lố, Trà Lọt và Trà Tân. Người ái mộ việc giảng đạo, cùng đã rửa tội được nhiều chầu nhưng đạo mới trong các họ ấy.


Cha phêrô Nguyễn Đức Nhi

Còn cha Vĩnh Hựu (là cha Vêrô Đậu, đang coi họ Vĩnh Hựu và ít họ nhỏ, về sở Gò Công) thì đi miệt trên. Lái Thiêu, Búng và Bà Trà. Sau về Saigon, giúp cha Bề trên Vị (Wibaux), lập nhà trường nhỏ bên Xóm Chiếu, đoạn cất nhà trường lớn đồ sộ tốt lành tại đây, chổ nhà lớn bây giờ, mà đã sửa từng trên.

Thỉnh khoảng và giúp việc Hội Thánh, và chịu chức, Khi chịu chức thầy cả đoạn, thì Đức Cha sai đi nhiều nơi trong Địa Phận, chổ thì coi họ cũ, nơi thì lập họ mới.

Tới đâu cũng tận tâm tận lực lo cho sáng danh Chúa, cùng giúp linh hồn giáo hữu. Lập nhà thờ nhà thánh, lo việc nhà trường nhà phước, giáo huấn trẻ thơ, dạy dỗ chầu nhưng đạo mới, tập rèn bổn đạo nên nhơn đức trọn lành. Trăm việc ngày ngày đắp đổi. Ngày qua tháng lại, thì cực khổ cũng đắp đổi khứ lai, từ ấy đến rày tính đã 50 năm!

Cám thương cha cựu Cầu Kho! tuổi cao mà đàng đi đang còn sấn sướt, công việc còn đang phấn phát như buổi xuân xanh, đang vui vầy cùng đoàn chiên Chúa tại Cầu Kho đã đặng 38 năm, bỗng đâu gãy gánh giữa đàng trở nên đui tối; thiệt là thánh giá rất nặng nề cho đấng ái mộ đèn sách, và siêng năng công việc. Cha ôm lòng vác thánh giá Chúa trao, làm của lễ tế thay vì công linh giảng đạo.

Khen thay cha Vĩnh Hựu! tới tuổi nầy mà còn gắng gượng làm việc Chúa một cách rất đáng thương! Lòng cha hiền lành, thương giúp giáo nhơn, đâu đâu tiếng người đều khen ngợi.

Ấy vậy, ớ hai cha rất đáng kính và rất mến yêu, công hai cha vun trồng gieo vải rất thậm dày. Đất Nam Kỳ dầm thấm ơn thiêng. Nay chúng tôi sum hiệp chốn nầy, là đất sinh hàng đạc đức, mà nhắc công trình lao khổ hai cha.

Bây giờ ta hãy ngữa mắt mà xem các miền trong Địa Phận. “Levate oculos vestros, el videte regiones, quia albæ sunt jam ad messem”. (JOAN. 4, 35), Công gieo vải vun trồng đã trỗ sinh bông trái nơi nơi. Kìa mùa gặt đã tới, ta hãy vui mừng: “Venientes autem venient cum exultatione, portantes manipulos suos”.

Vậy bây giờ ta hãy gẫm: Tại đâu mà việc giảng đạo sinh vui mừng an ủi cho thầy cả.

ІІ

1. ĐỜI NAY. - Mạch vui mừng an ủi thầy cả, thì trước hết thầy cả gặp trong chức phận mình,

a) Thầy cả đã biết Đ C T chọn mình, cho đặng giúp việc cao trọng vô biên, cùng một việc như Đ C G đã làm, là việc chuộc tội cứu thế, việc rỗi linh hồn thiên hạ. Thầy cả ở trong một xử, ở trong một nước, thì một mình gánh hết phần rỗi cả xứ, cả nước. Biết bao nhiêu người phải nhờ thầy cả, mới biết đạo thánh Đ C T, mới trông đặng rỗi! Biết mấy linh hồn phải chạy đến cũng thầy cả, mới đặng chịu ơn Chúa! Dầu trong cả và thế gian còn một thầy cả mà thôi, thì cũng còn đủ đều cần kíp, cho đặng cứu thế gian, vì còn thầy cả thì còn Hội Thánh, còn thầy cả thì còn mạch sống thiêng liêng, làm cho thiên hạ đặng sống đời đời. – Đó là đều an ủi thầy cả, và làm cho người nên vững vàng mạnh mẽ, lướt thắng mọi cơn buồn bực ngã lòng.

Bỡi vậy thầy cả đặng quờn cao phẩm trọng trong Hội Thánh Đ C T, đặng ơn thông minh sáng láng, hầu dạy dỗ cùng dẫn đàng cho muôn dân khỏi chốn lầm lạc tối tâm, mà đem vào chánh lộ và nơi sáng láng đời đời.

Ông thánh Aucuxitinh gọi thầy cả là Vua linh hồn, Đ C T đã phú cho thầy cả quờn phép vô biên, và giao sự sống thiêng liêng mặc tay người ban phát. Người làm tướng, dẫn đàng rỗi linh hồn, người bày binh bố trận cho giáo nhơn đặng thắng ma quỉ xác thịt thế gian, cùng đặng khởi huờn vinh hiển đời đời. - Lời Kinh Thánh gọi thầy cả là Tiền hô Chúa Cứu thế, là kẻ gìn giữ đức tin, cùng là rường cột Hội Thánh.

b) Thầy cả gặp sự vui mừng an ủi trong chức phận mình. Bổn phận thầy cả là làm lành cho thiên hạ, như lời Đ C G phán rằng: Tao đã chọn bay và đặt bay lên, cho bay đi làm lành cho người thế. - Việc giảng đạo làm cho kẻ ngoại trở lại, làm cho người có đạo đặng nên nhơn đức trọn lành. Việc giảng đạo là hột giống, mọc lên cây đạo đức tốt lành, cùng trổ sinh trái trăng ngon ngọt, là sinh các gương nhơn đức, cùng các giống việc lành.

Thầy cả làm cho kẻ ngoại bỏ việc dị đoan giả trá, mà trở lại thờ phượng kính mến Đ C T, thì ai kể cho xiết lòng người vui mừng khoái lạc là dường nào! Khi thấy kẻ đang làm tôi tá ma quỉ, thoát chúc trở nên con cái Đ C T, nhìn đạo thánh Chúa là chơn thật tốt lành, rồi lần hồi cởi tính thư nết xấu, mà mặc tánh hạnh người đạo đức ngoan ngùy, thì thiệt là đều vui mừng an ủi không lưỡi nào kể đặng.

Khi thấy trong giáo hữu, nhiều kẻ nguội lạnh trở nên sốt sắng; nhiều người tội lỗi cải dữ về lành; nhiều linh hồn, khi Chúa kí thác cho mình, thì giống như cọp hùm sư tử, mà bây giờ trở nên chiên lành, thì sự vui mừng ấy Đ C G đã phán tỏ trong sách Êvang, chẳng những là vui mừng cho người dưới thể, mà lại vui mừng cho thần thánh trên thiên đàng nữa: “Gaudium erit in coelo super uno peccatore penitentiam agente” (LUC, 15, 7). Ất là thầy cả cũng nói đặng về các kẻ ấy, lời ông thánh Phaolồ nói về những kẻ người đã đem về ràn chiên Chúa rång: “Vos enim estis gloria nostra el gaudium”, (1 The. 2, 20): Anh em là sự vui mừng, là triều thiên cùng là vinh hiển của thầy.

Ấy là lúa chín thâu trử vào kho Hội Thánh: “Venientes autem venient cum exultatione, portantes manipulos suos.

Song giả như ta cày bừa gieo vải hết sức hết hơi, mà gặt không được bao nhiêu, lúa vào kho không mấy hột; thì ta chớ thua buồn mà bỏ công việc, cũng đừng bớt lòng sốt sắng làm chi. Ngày sau Đ C T chẳng hỏi ta đã làm cho mấy trăm, mấy ngàn người trở lại; một hỏi ta có dùng hết tài năng sức lực mà giúp việc Người chăng? Chúa sẽ thưởng ta theo việc ta làm, theo công lao khó nhọc ta chịu, mà làm cho sáng danh Chúa; chẳng phải theo số người ta trở lại ít nhiều đâu. Nếu ta chẳng đặng gặt ở đời nầy, thì sẽ gặt đời sau trên nước thiên đàng.

2. ĐỜI SAU. - Ấy là mạch sinh vui mừng an ủi hơn hết cho thầy cả, trong mọi cơn gian nan khốn khó người gặp ở đời. “Nonne haec oportuit pati Christum et ita intrare in gloriam suam” (Luc. 24, 26). Đ C G là Quan Thầy, ta là môn đệ, Đ C G đã chịu thương khó, và nhờ thương khó thì mới đặng vinh hiển – Ta muốn vinh hiển cùng Người, thì ta cũng phải chịu thương khó với Người.

Đều ấy dễ giải, và các lời phân giải đều an ủi thầy cả, cùng ban ơn giúp sức cho người đặng vui lòng mà chịu mọi nỗi gian nan đời nầy. Lại thầy cả đã biết, mình càng chịu gian nan cực khổ chừng nào, càng thông phần thương khó Đ C G chừng nào, thì càng đặng vinh hiển chừng ấy.

Vậy khi ta gặp thánh giá nặng nề trong việc bổn phận thầy cả, thì ta hãy nhớ lời ông thánh Phaolồ, mà giục bảo lòng ta cam chịu một chút khốn khó chóng qua. chóng hết đời nầy, cho đặng phước trọng vọng vô cùng vô tận đời sau: “Momentaneum et leve tribulationis nostrae, aeternum gloriae pondus operatur nobis” (2 Cor. 4, 17). Cực khổ đời nầy, dầu nhiều, dầu nặng thể nào mặc lòng, cũng không ví đặng cùng phần phước đời sau vô cùng!

Mà nhứt là ta hãy nhớ lời Đ C G an ủi ta rằng: “Vos autem vui permansistis mecum in tribulationibus meis, ego dispono vobis regnum, ut sedeatis super thronos” (Luc, 22, 28-30): Bay đä сam lòng gian nan khốn khó cùng Tao, thì Tao lại dọn tòa vàng ngai ngọc cho bay ngự trị cùng Tao trên nước thiên đàng.

Cực khổ gian nan là hột giống, sinh thanh nhàn vinh hiển vô cùng. Cho nên ta chớ buồn làm chi, một hãy xem phần thưởng trên trời, mà thối thúc lòng ta mạnh mẽ sấn sướt cho đến chết. – Người nông phu gieo giống xuống đất mùa hè, thì qua mùa đông, hay là đầu mùa xuân mới gặt. Mùa ta sống, là mùa gieo vải cày bừa, là mùa khóc lóc gian nan, mai mốt - mai mốt mà thôi, vì cực khổ đời nầy chẳng bao lâu - mai mốt sẽ tới mùa gặt, là mùa vui mừng toại chí vô cùng vô tận.

Thầy cả nhớ phần phước đời sau, thì cầm khốn khó đời nầy rất nên châu báu! Mấy họ ta đã cực khổ lo buồn, mấy làng ta đã giảng rao lời Chúa, mấy nơi ta đã chịu bắt bớ gian nan, mấy nhà thờ ta đã đổ mồ hôi cùng sa nước mắt, mấy nơi ấy sẽ làm cho ta đặng phần thưởng tốt lành vinh hiển là thế nào! “Laetati sumus pro diebus quibus vidimus mala” (Ps, 89, 15): Ta sẽ vui mừng vì mấy ngày ta đã gặp giam lam khốn khó.

Quam pulchri pedes prædicantis salutem”( Isai. 52, 7): Chơn các đấng giảng rao phân rỗi, tốt lành biết là đường nào!. “Quam speciosi pedes evangelizantium pacem, evangelisantium bona” (Rom. 10, 15): Những bước thầy cả đi giảng truyền sự bằng an, cùng cao rao sự lành, thiệt rất xinh tốt báu trọng ai hầu kể xiết!

Các đấng thông minh giáo hóa nhơn dân, sẻ chói lòa rực rỡ như mặt trời đứng ngọ: “Qui autem docti fuerint, fulgebunt quasi splendor firmamenti”, và các đấng dạy người ta theo nẻo ngay lành công chánh, thì sẽ sáng láng như sao ở trên trời, đời đời kiếp kiếp! “Ét qui ad justitiam erudiunt multos, quasi stellæ in perpetuas æternitates” (Dan. 12, 3).

Vậy, ớ hai cha rất đáng kính và rất mến yêu, công lao khó nhọc hai cha vun trồng gieo vải trong Hội Thánh Nam Kỳ đã đặng 50 năm. Tôi xin tính phỏng coi huê lợi thiêng liêng trong 50 năm ấy là bao nhiêu.

Trước hết, chúng tôi làm lễ Ngũ Tuần hai cha, cho nên hai Ngũ Tuần nhập lại là 100 năm, thì tôi xin phép tính chung huê lợi hai cha trong 100 năm.

- Vậy, tổng cộng 100 năm, cha đã rửa tội cho chầu nhưng đạo mới, cha đã mở cữa Hội thánh cho con cái nhà có đạo đặng vào, là mấy ngàn lần!

- Trong 100 năm, cha đã ban lương thực thiên thần cho người khách tục, cha đã phát bánh mầu nhiệm cho các Êlia đói nhọc dọc đàng hiểm trở, là mấy muôn, mấy vẹo lần!

- Hết thảy 100 năm, số những người cải tử huờn sinh trong tòa giải tội, số những Samaritanô bị kẻ cướp đánh, bán sanh bán tử, dọc đàng truông hiểm thế nầy, mà cha đã đổ rượu cùng dầu rịt nơi thương tích, cha đã cho lành, thì số những người ấy ước được mấy muôn, hay là mấy vẹo!

- Trong 100 năm, biết là mấy người bịnh hoạn liệt lào, nhờ cha viếng thăm an ủi, nhờ cha giúp đỡ xác hồn, và giúp chết lành trong giờ lâm tử!

- Trong 100 năm, biết là mấy người tật nguyền bịnh hoạn, nhờ cha mà đỡ lúc nguy nan; biết là mấy người đói rách, nhờ cha mà no cơm ấm áo!

- Trong một đời, biết là muôn triệu nào lời cha an ủi dạy dỗ kẻ lớn người nhỏ, kẻ ngoại người đạo, cho ai nấy biết đàng thờ phượng kính mến Đ C T, biết đàng sanh thuận tử an, hầu hưởng phước tiêu diêu cõi thọ.

- Trót 100 năm, biết là mấy lần cha đã sấp mình nơi cung thánh: “inter vestibulum et altare,” mà khóc than thầm thỉ xin Chúa duông thứ cho đoàn chiên cha; biết là mấy lần cha giăng tay trên núi như Môisen xưa, mà khấn nguyện cho dân Chúa toàn công thẳng trận!

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1919

1 nhận xét:

  1. Chào anh, nếu được, xin anh có thể cho mình xin một số tấm ảnh có liên quan đến họ Cầu Kho được không? Tôi xin cảm ơn.

    Trả lờiXóa