KỂ LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ
ĐỊA
PHẬN NAM KỲ
-------------------
ĐỊA
SỞ HỌ GÒ CÔNG
-------------------
Gốc
lập Họ
Tĩnh Gò Công thuở đời cựu
trào kêu là Huyện Tân Hòa hay là Huyện Gò Công, thiên hạ ở tại đây không có một
ai có đạo, cho nên không có dấu tích gì nhắc việc đạo thánh tại đây, vì không
có chòm xóm gì của bổn đạo đã ký ngụ trong huyện nầy. Cho tới khi nhà nước
Langsa qua trị Nam Kỳ, lúc ban đầu thì cũng không có cha nào tới lo lập họ tại
Gò Công, bỡi các cha khi ấy làm việc vàn, mắc lo sửa sang tạo lập lại các họ đã
phải cựu trào bắt bớ cùng đốt phá tan hoang.
Nhưng vậy lúc ấy có nhiều
thông ngôn có đạo và mấy kẻ giúp việc cho các quan tây ở tại Gò Công, cho nên mấy
cha ở các họ xung quanh hay tới lui mà làm phước cùng là làm lễ cho những kẻ ấy,
như cha Dư, cha Nhu, cha Triệu ở Nha Ràm, hay qua lại Gò Công, cha Nhu có an ủi
đặng một người tên là Nguyễn văn Triều trở lại đạo, và cha đã cho đi nhà trường
Latinh Saigon mà sau đã ra; người nầy đem một phần bà con trở lại đạo nữa, bây
giờ còn tại Sơn Qui. Còn dưới Thủ Ngữ thì có cha Hiền (P. Favier) và nhứt là
cha Đức (P. Moreau) hay qua lại Gò Công. Khi ấy Đức cha dạy cho Đức phải coi
luôn họ nầy lâu năm, và hễ khi cha tới thì ở cùng làm lễ tại nhà thầy Vọng cùng
là thầy Minh hay là nhà của Phan văn Chư. Trừ ra việc các cha tới viếng đây;
thì đã có bốn phen khác, có những cha tới giảng đạo lo lập họ, là từ năm 1868 tới
1891, trước khi có cha tây tới ở luôn coi họ..
Phen thứ nhứt là cha Trí,
đã qua đời tại Mỹ Tho trong năm 1876, cha qua lại cùng ở Gò Công khi lâu khi
mau mà lo việc mở mang đạo thánh, có khi là lối năm 1869 cho tới năm 1871, và
cha đã rửa tội đặng chừng 30 người, mà lần lần sau những kẻ nầy đã bỏ đạo, và
tưởng khi ấy cha Trí dùng nhà một thầy thông cùng là nhà của một thầy giáo có đạo,
khi ấy ở tại nhà dây thép bây giờ mà làm phước cùng làm lễ.
Phen thứ hai là cha
Thành, Đức cha Mỹ (Mgr. Colombert) sai tới Gò Công trong năm 1886, cha ở đó đặng
vài tuần, thấy không có việc chi mà làm, nên cha đã trở về.
Phen thứ ba là cha Thi
(P. Hamm) ở Chợ Quán; ông Đốc phủ Ký quen biết ông huyện Nguơn là một tay giàu
có ở Gò Công, nên đã xin cha xuống đó. Vậy cha Thi đã đi với ông Đốc xuống Gò
Công nhiều lần. Khi ấy quan tham biện chủ tĩnh là M. Albaret, ước muốn cho có một
cha tây ở tại Gò Công; ông huyện Nguơn là người rất giàu có lại thân thế lắm cũng trông ước
như vậy; lại khi ấy cùng tính lo lập một nhà thương cho người bổn quốc, giao
cho các bà dòng ông thánh Phaolồ coi; phải mà khi ấy cha Thi làm xong đặng các
việc thì chắc đặng thành, nhưng tính đó mà thôi, chứ chưa khởi lập việc gì.
Phen thứ tư, là khi cha
Thi ở Chợ Quán qua đời rồi, thì cha Linh (P. Moulins) ở Mỹ Tho, phải lo việc mở
mang tại Gò Công, cha xuống đó đâu được một lần, rồi thì giao cho cha Lịch khi ấy
ở Tân An. Vậy cha Lịch đã qua ở tại Gò Công lối đầu năm 1889; cha đã an ủi đặng
thầy Sang là thầy năm ở ngoài Bắc Kỳ vô đó đặng trở lại; lại cha lo cho một phần
gia thất tên Triều đặng vào đạo. Khi ấy nhờ có năm sáu thầy thông ngôn có đạo
phụ giúp, nên cha đã cất một nhà lá tốt, sau nhà ông huyện Nguơn, đặng làm nhà
thờ, nơi đất ông huyện dưng, và một nhà nữa làm trường học, giao cho hai dì nhà
phước Chợ Quán lo dạy, vừa mở trường có con trẻ tới học đông.
Trong lúc ấy có ít số chầu
nhưng đang học đạo, và cha Lịch đã rửa tội đặng chừng 15 cùng là 20 người.
Đến lối giữa năm 1890,
cha Lịch đau rét nên xin đổi, cha đi rồi thì không có cha nào tới thế tại Gò
Công, có hai dì dạy học còn ở đó dạy con trẻ mà thôi, và cha Y (P. Errard) ở Chợ
Quán cùng là cha Mão (Đức cha chánh bây giờ Mgr. Mossard) ở Chợ Lớn lên xuống
Gò Công mà làm phước làm lễ cho bổn đạo.
Khi cha Bổn (P. Abonnel)
đang dạy tại trường Latinh Saigon, trong tháng Octobre năm 1890, đã đi với cha
Hương (P. Joubert) và cha Mão xuống viếng họ Gò Công, và tới lễ Sinh Nhựt, bổn
đạo xin Đức cha Mỹ cho cha tới làm lễ, thì Đức cha đã dạy cha Bổn xuống làm lễ
Sinh Nhựt tại họ năm ấy.
Đó là kể qua những việc
các cha đã lo lắng lập họ tại Gò Công trước khi cha Bổn (P. Abonnel) tới nhậm sở
và ở luôn đó.
Trước tại đây có quan lớn
danh tiếng lắm tên là Lãnh binh Tân, quan nầy tin hết các đạo mà không theo đạo
nào, lại người cũng làm lầu nhỏ để tượng ánh Đ C G trong chỗ người chưng các đồ
thờ phượng. Việc quan nầy có lòng kính như vậy mà thôi, chớ không phải là mở
mang sự gì về đạo, cho nên sự cần là phải mà có một cha tây ở tại Gò Công khi ấy,
có thân thế với quan nầy, thì việc đạo đặng thạnh lắm chẳng sai, vì thiên hạ đã
lâu xem quan Lãnh binh Tân như ông vua xứ Gò Công vậy.
Bỡi vậy cho nên cuối năm
1890, không rõ bỡi ý muốn riêng hay là bỡi lời vài bổn đạo cùng mấy thầy giúp
việc nhà nước tại Gò Công xin, nên Đức cha Mỹ đã tính đặt cha Tôn (Đức cha phó
bây giờ Mgr. Quinton) xuống nhậm sở Gò Công, mà bỡi cha Mão khi ấy là cha sở Chợ
Lớn, phân lại cho Đức cha rõ, vì cha Tôn bên tây mới qua vừa được một năm, biết
tiếng và thói phép annam chưa đủ, cho nên Đức cha đã định lại là đặt cha Bổn
(P. Abonnel) làm cha sở Gò Công. Vậy ngày 14 Janvier năm sau cha Bổn đặng lịnh
Đức cha dạy và qua ngày 21 tháng ấy thì người xuống lãnh sở Gò Công, có cha Mão
đi nữa. Ngày ấy nhằm Chúa nhựt là Kính Tên Rất Thánh Đ C G,.
Vậy khi cha Bổn tới nhậm
sở Gò Công, trước hết cha đã dò xét coi mở mang đạo thánh tại đó dễ khó thế
nào. Sự khó trước hết là dân sự tại Gò Công trước đã muốn giữ luôn hiệp với cựu
trào, vì tại đây có những mồ mả to lớn kêu là những lăng vua; lại bà hoàng thứ
của Thiệu Trị là hoàng đế nước Annam, quê ở tại Gò Công: nhà cữa bà nầy ở khi
trước là nơi chợ bây giờ, cũng có vườn đất ở tại giồng Sơn Qui. Vua Thiệu Trị
yêu mến bà nầy lắm, cho nên đã chọn con thứ (con bà nầy) là ông hoàng Nhâm kế vị
cho mình, phế con bà hoàng hậu chánh là hoàng Bảo. Vậy khi ông hoàng Nhâm tức vị
hoàng đế thì lấy hiệu là Tự Đức, và tôn mẹ lên làm thái hậu, bỡi đó cho nên gia
quyến bà nầy đã đặng quyền phép và nổi danh.
Những thân tộc và bà nầy
qua đời thì chôn tại Sơn Qui, và thiên hạ kêu là những lăng của tông thất vua.
Khi vua Tự Đức còn sanh tiền và cho tới sau, mỗi năm thì có sứ tại triều Huế đến
Gò Công viếng mồ mả nầy cùng cúng quẩy theo lệ, và phát bạc tiền cho mấy kẻ coi
giữ tại đó. Bây giờ cũng còn một phần hương hỏa chừng 30 cùng là 40 mẫu ruộng,
để cho trong con cháu tông thất nầy ăn mà gìn giữ sửa sang mấy mồ ấy.
Các sự nầy thật thì không
có chi ngăn trở cho việc mở mang đạo thánh, song nhơn dân hằng ghi tích và thấy
trước mắt những lăng vua (tombeaux royaux) mà thôi, thì cũng đủ mà nhớ cựu trào
và lảng xao về sự trở lại đạo.
Một cớ nữa, khó mà mở
mang việc đạo thánh tại đây, là có nhiều chủ giàu có, mà ai cũng mảng lo thâu
trử, cho nên có lo chi tới sự đạo; không phải là có ai tỏ dấu chi nghịch, song
là dửng dưng (in-différents) mà thôi. Cách lâu năm sau cũng không thể an ủi đặng
những nhà giàu có tại đây theo đạo, bỡi mỗi nhà thì có lập hương hỏa, để phượng
tự ông bà, con cháu những nhà ấy sợ có vô đạo thì không còn đặng phép hưởng phần
hương hỏa ấy, vì hễ đứng tên mà ăn, thì phải lo việc cùng quải giỗ chạp ông bà
tổ tiên theo luật. Bỡi vậy cho nên những kẻ giàu mắc lo về của cải gia tài hơn
là việc giữ đạo, việc phần rỗi. Tưởng nhờ gương ông huyện Nguơn là kẻ giàu có
thân thế, người biết rõ các sự thật trong đạo cùng có lòng muốn trở lại lắm, chẳng
dè vợ ông nầy là ngoại thấm cốt, lúc ông huyện đau gần chết xin cha tới rửa tội
cho, mà vợ người cản không cho cha đến.
Vậy việc trông cậy gieo
giống đạo, là lập một nhà thương, cho nên cha Bổn khởi đoan việc nầy trước hết
khi vừa tới Gò Công; cha thân chinh đi phổ khuyến trong các làng tại tĩnh, cho
có bạc mà làm nhà thương nầy, và giao cho các bà phước dòng ông thánh Phaolồ
coi đã hơn 20 năm nay, và những bịnh hoạn vào nhà thương, phần nhiều
Vậy cha Bổn đã lo cất một
nhà lớn đặng rước các bà dòng ông thánh Phaolồ tới lo việc nhà thương; nhà làm
vừa rồi, kế cha bị đau rét cho nên phải lên Saigon uống thuốc; cho tới cuối
thánh Juillet cha mới trở về Gò Công, và dắc xuống 4 bà, có bà Ignace làm bề
trên, cùng khởi đoan lo về nhà thương, khi ấy cha Bổn tuy bịnh rét chưa hết,
song nhờ có bà Ignace và các bà lo lắng thuốc men, cho nên lần lần đã đặng dứt
bệnh.
Lối cuối năm ấy (1891)
thì ông huyện Nguơn qua đời, người có tính ngay lành cùng sẵn lòng vô đạo, nên
đã lo lắng cho đặng gặp cha trước khi chết, chẳng dè bà vợ người ngăn cấm không
cho ai đi rước cha tới, cho nên ông huyện không đặng phước chịu phép rửa tội
như ý ước ao, trông cậy lòng muốn của người mà xin Chúa nhậm như phép rửa tội vậy.
Mấy năm đầu thì cha Bổn
lo lắng mở mang nhiều họ nhỏ; trước hết về làng Kiểng Phước, tại đây có hai người
có tên là có đạo; là biện Sanh, đạo mới ở Mĩ Hội về ngụ đó, lại có vợ ngoại; một
người nữa kêu là thầy Thanh, là thầy thuốc, tánh nóng nảy hay gây tụng, sau
nghe nói tên nầy đã chịu phép rửa tội ba lần rồi, cha tưởng là lo cho hai người
nầy trở lại mà lập họ song không xong; vì tên Thanh phá phách xóm làng, gạt cha
nhiều chuyện, chớ không có lòng ngay chút nào hết. Vậy cha đã bỏ chỗ ấy, dời họ
và nhà thờ qua Vàm Láng, tưởng là lập đặng ở đây một hai sự, chẳng dè bữa nọ có
tên chầu nhưng sanh sự đốt nhà thờ cháy rụi, nhà thầy ở dạy và mấy nhà chầu
nhưng cũng đều cháy hết. Bây giờ tại đó còn chín mười tên bỏ đạo. Tại Vĩnh Hựu
cha cũng có lo lập họ, và đặng chừng 30 chầu nhưng chịu phép rửa tội: Chẳng may
thiên hạ ở đây bị dịch khí hai phen, nhiều người có đạo chầu nhưng phải chết,
còn lại không mấy người. Tại đây có nhà ông câu Sang, sau nhờ ông nầy phụ giúp
nhiều nên cha đã lập đặng họ Rạch Cầu, vì người có ruộng đất lớn tại đó, còn
nhà cữa thì cứ ở luôn tại Vĩnh Hựu.
Tại Bình Xuân gần xóm Chà
Là, cha Bổn cũng có cho thầy tới dạy đạo, có ít số chầu nhưng chịu đi nghe dạy,
nhứt là có thợ Nhu đứng đầu, và kể chắc sẽ giữ đạo tử tế; chẳng do tên nầy phải
chết thình lình không kịp chịu phép rửa tội. Sau khi thợ Nhu chết rồi, thì mấy
chầu nhưng khác đều thối chí trở lui hết, không còn ai đi nghe dạy nữa.
Ba chỗ khác nữa, cha cũng
cho thầy tới dạy, là Bình Thạnh Đông, Hòa Nghi và làng Tân Thành; mấy nơi nầy
ban đầu thì cũng có nhiều số chầu nhưng học đạo, mà sau rồi phần nhiều thối
lui, có một ít người đã chịu phép rửa tội, và giữ đạo tử tế; như gia thất thợ Cang
ở Bình Thạnh Đông, sau về ở họ Tân Phước và làm biện trong họ.
Đó là kể sơ qua các họ nhỏ
cha Bổn đã lo lập, từ năm 1891 tới năm 1897. Thật thì việc không đặng thạnh sự
bao nhiêu, mà phải mệt nhọc cùng hao tốn nhiều, vì những nơi ấy xa xuôi cách trở.
Cho nên cha xưng ra, phải chi đã đề tiền bạc công cán mà lo một nơi có thể được
việc và vững bền, thì là tốt hơn nhiều nơi mà không đắt việc.
Những
Họ còn bây giờ (1911).
Bây giờ thì còn bốn họ
chánh nhỏ sau nầy:
1. Họ
Gò Công. (Làng Thành phố).
Kể về các bà phước cùng
những con trẻ mồ côi và mấy người ở giúp. Còn nhà thương, thì giao cho nhà nước,
ngoài nhà mồ côi, thì có ba bốn nhà ở gần nhà thờ, vài nhà mấy thầy giúp việc
nhà nước, rồi tới mấy kẻ ở giúp người tây, và những người nguội lạnh trễ nải,
v. v. Trông cậy Chúa sẽ đoái lại, mở lòng cho nhiều người ngoại ở tại đây đặng
mở con mắt đức tin, mà vào ràn chiên Chúa cho đặng nhờ phần rỗi mình.
2. Bình
Luông Đông.
Nguyên lối năm 1893, có một
người làm nghề thầy bói, đến xin cha vô đạo, cha bèn đi tới nhà người ấy ở tại
Long Thanh mà do cho ắt chất, rồi cha sai thầy tới dạy qua năm sau rửa tội được
hai mươi ba người. Tới năm 1897 cha mua một miếng đất gần đó, tại làng Bình
Luông Đông, cùng sai thầy tới tiếp dạy nữa, số bổn đạo ban đầu thì nhiều, sau bớt
lần chừng 100 sấp lại, vì tại đó không có ai thân thế làm đầu, nên có ít kẻ nao
lòng mà nghỉ đạo, song thường những kẻ nầy là bỡi lòng dạ không tốt, hay gây tụng,
tranh đua, oán hận mà ra. Họ nầy là ở giữa đàng đi qua Rạch Cầu.
3. Họ
Tân Phước.
Gốc lập họ nầy là như vầy:
Lối nửa năm 1891, có một đàn bà tới viếng cha Bổn, cổ có đeo dây chuyền vàng và
cây thánh giá. Cha thấy vậy bèn hỏi có đạo không. Người ấy thưa rằng có, và nói
mình có chồng ở tại làng Tân Phước. Cha nghe lấy làm lạ cùng hỏi phăng tới các
việc, mới rõ đàn bà ấy không phải là có đạo, song là chầu nhưng, khi trước có học
ít kinh tại họ Kinh Điều, rồi đó trôi nổi đi nhiều nơi, sau hết mới tới ngụ tại
Tân Phước, cùng có chồng lại đó. Cha bèn hỏi dọ thử, chồng người ấy chịu vô đạo
không, và tại Tân Phước có ai nữa muốn học đạo chăng. Đàn bà ấy chẳng nghi ngại
sự gì hết, một trả lời tức thì: Có. Vậy cách ít ngày cha Bổn bèn đi qua Tân Phước
mà tìm nhà nầy, gặp hai vợ chồng ở chung một nhà với người bà con. Cha mở nói về
sự đạo, có nhiều người lớn nhỏ tựu tới đông mà nghe; hết thảy đều chịu học đạo
cùng xin cha tới ở. Cho nên cha biểu cất một nhà cho thầy tới ở dạy. Cách sau
đó, thì có thầy Chánh (sau là cha Chánh) tới lo dạy dỗ chầu nhưng, trong ngày 4
Mai 1892, đã rửa tội cho bà tư Tình tại giồng kế đó, bà nầy có con cháu nhiều lắm,
và hết thảy đều trở lại đạo, nên như đã nền vững chắc cho họ nầy. Ban đầu thật
thì nhờ thầy Chánh hết lòng lo lắng dạy dỗ, kế đó thầy Khánh (sau là cha
khánh), cho nên trong 3 năm đầu đã rửa tội tại Tân Phước số tới 50 người. Qua
năm 1896 có 2 dì phước Chợ Quán tới ở dạy học, và từ đây thì số bổn đạo tăng thêm,
nhờ số con trẻ sinh ra, cũng nhờ lòng sốt sắng của dì Truyện lo mở mang dạy đạo,
dì dạy tại họ nầy lâu lắm.
Tới năm 1910 ông cả Quyền
là một trong những con của bà tư Tình, còn ở ngoại cho tới khi ấy mới trở lại,
và tỏ dấu vững vàng lắm. Ông cả nầy có con tên là hương Hài, trước rồi sau cũng
trở lại, người giàu có lại thân thế làm tại làng Tân Phước, cho nên trông cậy
chắc họ nầy sẽ đặng sum bổn đạo, trong năm 1911 thì số đã đặng 200 người. Cha Bổn
đã lo lắng cho họ nầy hơn hết.
4. Họ
Rạch Cầu.
Gốc lập họ nầy cũng lạ một
chút : Nguyên có một người bổn đạo ở họ Bình Đại, trốn nợ nần, nên tới ở tại Rạch
Cầu (làng Tân Thới) là một xóm nhỏ, xung quanh thì là những bụi bờ sậy đế, vì
chưa có ai khai phá mà làm ruộng nương. Vậy người nầy tên là biện Châu tới đó
ban đầu làm thầy dạy học đặng một ít lâu, rồi muốn việc cả thể hơn nữa là lập họ
tại đó; nên đã tính với thầy thông Vọng tại Gò Công lo mua giùm một miếng đất đặng
mà lập. Mà công việc tính lôi thôi không xong gì hết, cho nên mới đến thưa với
cha Bổn (P. Abonnel) các việc, là lối đầu năm 1895. Vậy sự cần trước hết là cha
phải đi tới nơi ấy mà xem địa thế thế nào, cho nên cha đã đi ghe với thầy Vọng,
biện Châu nầy và vài người bổn đạo nữa qua Rạch Cầu; tới nơi thấy tư bề bờ bụi,
không có một đàng sá gì hết; còn nhà biện Châu ở là như là một cái trại nghèo
nàn ở gần rạch, nội xóm thảy nhà nào cũng đều nghèo khổ, còn xung quanh thì là
rừng rậm khó nỗi thông thương, không có miếng đất nào đã khai phá trồng trặt
cùng là làm ruộng nương, lại là nơi những heo rừng, khỉ, cùng cọp hay vãng lai
kiếm ăn, không thấy có nơi nào trống trải cho dễ qua lại hết.
Đó là địa thế tại Rạch Cầu
khi ấy; còn miếng đất chỗ biện Châu khi mua thì tính chưa xong, nên người chỉ một
nơi khác phía trên. người ta muốn bán. Vậy cách sau đó, cha Bổn cho thầy Đoài
(sau là cha Đoài) qua dạy tại Rạch Cầu, cùng mua đặng miếng đất trước và miếng
đất biện Châu chỉ sau nữa; lại cách ít lâu thầy cũng khẩn được một miếng đất ở
giữa hai miếng đã mua trước, khi ấy thầy ở tại nhà hương quản Chu mà lo dạy chầu
nhưng.
Chẳng dè tới tháng Mai
năm 1895, có dịch khí tại Rạch Cầu, biện Châu và em người phải chết, rước cha tới
không kịp. Vậy cha Bổn bèn biểu thầy Đoài về Gò Công, cho nên Rạch Cầu không có
ai ở dạy nữa.
Qua năm 1896, cha Bổn
khuyên Hương giáo Bản, sau làm ông câu tai họ Rạch Cầu, với một người nữa là
sáu Thiệp, qua đó mà ở cùng lo khai phá mà làm ruộng nương, việc khởi sự ban đầu
thiệt cũng là cam go lắm. Tới năm 1896 cha Chánh, ở họ Tân Phước tám tháng, rồi
qua ở luôn tại Rạch Cầu; cho nên nói đặng việc lập họ nầy là từ đây. Vậy cha
Chánh đem vài người bổn đạo tới đó ở lập nhà cữa, cùng lo vỡ đất rừng làm ruộng,
cha chẳng sợ khó nhọc, một ra tay làm gương cho ai nấy; cho nên lần lần rừng bụi
đã trở nên ruộng, dầu mà đã hai phen bị bão lụt, phá hại nhiều; bây giờ đâu đó
đã thành ruộng tốt. Thật thì cha Chánh bỡi nhờ có bổn đạo ở Vĩnh Hựu giúp trong
công cuộc nầy lắm, nhứt là ông câu Sang, và sau đó ông câu nầy đã đem nhà cữa vợ
con về ở Rạch Cầu; lại từ đây người đã nên giàu có, mua đặng nhiều ruộng đất tại
đó; việc đạo hạnh người chín chắn hẳn hòi; thiệt cũng nhờ ông câu nầy đã lo lắng
việc mở mang lại họ, và đứng đầu mà giúp các việc họ từ năm 1910 về sau.
Đó là kể sơ qua về họ Rạch
Cầu; mà trong năm 1910 phía Vĩnh Hựu có hai nhà đã đặng chịu phép rửa tội, và một
ít người nữa tỏ dấu quyết vô đạo, cho nên trông cậy sẽ tăng số thêm. Mà nhứt là
tại Tân Phước, lại càng có lẽ trông cậy hơn nữa, vì trong năm ấy ông cả Quyền
và gia thất đã chịu phép rửa tội, và số người ngoại xin theo đạo khá đông. Lại
tại làng Tân Niên Trung gần họ Tân Phước, lúc ấy cũng đã có nhiều chầu nhưng học
đạo.
Vậy trông cậy Địa sở họ
Gò Công sẽ đặng mở mang, càng ngày càng sum kẻ thờ phượng Chúa. Cha Bổn lo lắng
gieo trồng đạo thánh trong các nơi đã hơn hai mươi mấy năm rồi, mà mùa gặt còn
hi thiểu chưa đặng bao nhiêu. Nguyện xin Chúa thương xem đoái lại mà thưởng công
khó cha, là soi lòng cho muôn vàn kẻ trong hạt nầy còn ngồi nơi bóng chết, đặng
thấy sự sáng thật, hầu vào ràn chiên Chúa mà nhờ phần rỗi mình.
Bây giờ cha Bổn cũng còn ở tại Gò Công; còn cha Duông ở
tại họ Rạch Cầu.
Chung
về Địa sở Họ Gò Công
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1919
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét