KỂ
LẠI GỐC TÍCH MỖI HỌ TRONG CÁC SỞ
DỊA
PHẬN NAM KỲ
-------------------------------
ĐỊA
SỞ HỌ CÁI NHUM (tiếp theo)
--------------------------------
III.
- Trong cơn bắt đạo đời Tự Đức.
Khi vua Tự Đức lên ngôi (1847 - 1858) thì ban
đầu ngưng việc bắt đạo; chẳng hay qua năm 1848 thì lại có lịnh dạy bắt đạo như
trước. Khi ấy họ Cái Nhum cũng còn là chánh địa sở, cha bề trên Borelle (cố
chính Hòa) ẩn mình tại đó, mà lo lắng việc Địa phận, cùng đi họ nầy họ kia, có
mấy cha annam đi làm phước cho các nơi, trong số các cha nầy thì có cha Lượng,
lại cha Minh (á thánh) cũng có qua lại họ Cái Nhum, và cha Thiền, cha nầy đã mệt
yếu, Chúa nhựt mới làm lễ mà thôi. Khi ấy nhà thờ, nhà trường và nhà phước đã
tan hoang; xem lễ đọc kinh thì bổn đạo tựu tại nhà hai ông trùm, là ông trùm Thịnh
và ông trùm Điển; mà như vậy chẳng có bao lâu, vì khi ngưng việc bắt bớ thì bổn
đạo liền lo cất nhà thờ lại.
Trong năm 1851 á thánh
Philípphe Minh phải bắt tại họ Mặc Bắc và chịu tử vì đạo tại Vĩnh Long. Ông
trùm Lựu (á thánh) đã lo lắng cứu cha mà không đặng, ông nầy gốc ở tại họ Cái
Nhum, khi nên 10 tuổi đã theo ông già người mà lên Bò ót, rồi sau về ở Mặc Bắc.
Còn tên bếp Nhẫn là kẻ cáo cha Minh, gốc cũng ở Cái Nhum, mà bỡi cờ bạc sinh nợ
nần, cho nên mới trốn mà đi như vậy. Đến sau tên nầy đã đáo về họ Cái Nhum,
cùng trở lại ăn năn nên gương lành cho tới chết là năm 1875.
Lúc cha Minh tử đạo thì tại
Cái Nhum đã hay biết, khi ấy có nhiều người bổn đạo tựu tại nhà Thợ Cơ lối 3 giờ
rưởi chiều, thấy một đám mây sáng có hình riêng giữa trời, thì định quyết là
cha đã chịu xử trong khi ấy, cho nên sửa soạn đặng đi rước xác cha, chẳng hay
có ghe đi chở về tới. Vậy ba cha annam ở tại Cái Nhum, là cha Phaolồ Lượng (Lợi)
cho Laurentiô Lân, cha Gioang Thiền rước xác cha Minh lên đem để tại nhà Hương
hào Kim, lo may đầu lại với xác, đoạn mặc áo lễ vào, rồi đem để trong nhà thờ
cùng làm lễ; bổn đạo không muốn cầu lễ, vì ai cũng nói rằng: Cha tử đạo, đã làm thánh rồi.
Những người già cả nói cha
Minh đã ở tại họ Cái Nhum 2 năm, bổn đạo ai nấy đều thì trọng mến lắm, nhứt là
nhà phước; nên khi cha tử đạo thì thảy đều thương tiếc cha, bỡi thương nhớ cha
cùng tỏ lòng trông cậy vì công nghiệp cha và lời cha nguyện giúp mà đặng ơn
lành. (Hãy coi lại trong hạnh cha Minh:
truyện Lucia Niệm, tên Qui, Thoại, Lucia Giảo với Sưu Lễ.).
Khi ấy họ Cái Nhum muốn
giữ xác thánh tử đạo, song Cố chính Hòa (P. Borelle) đã định phải trả lại cho
họ Cái Mơng; lại cũng sợ vì xóm trên Giồng có tên Cử Giảng ngoại, ghét đạo mà
đâm đơn cáo, sao bổn đạo dám vi lịnh vua mà chuộc đầu cha Minh lại.
Trong năm 1855, cố chính Hòa đã dạy chôn tại Cái Nhum xác ông Anrê Thượng, Ông già nầy và nhiều bổn đạo
khác ở Huế, bị đày vô Châu Đốc vì đạo Chúa, phải đi bộ từ Huế mà vô, tới Mỹtho
ông Anrê Thượng mệt yếu quá, hết sức nên phải chết. Cố chính Hòa ở Cái Nhum có
sai thầy thuốc qua Mỹtho chữa ông già ấy mà không đặng. Sau con cháu ông Anrê
Thượng đã chờ xác người về Gò Thị.
Trong hồi đó có cha
Philípphê Phiên ở tại Cái Nhum, đến sau đã qua đời tại Mỹ Tho (trong năm 1876).
Qua năm 1859 có cha
Pernot (Định) ở trên Đầu Nước ( Cù lao Giêng) gần phải bị bắt, nên đã xuống ở tại
Cái Nhum, mà không có coi họ.
Trong năm 1863, cha Tùng
gốc ở Cái Nhum, đã qua đời, và chôn tại nhà thờ họ; cha nầy còn một cháu trai ở
tại họ bây giờ.
Vậy xem qua mấy khoảng
thì rõ trong những cơn bắt đạo, thì họ Cái Nhum đã phải chịu bắt bớ dữ dằn, nhiều
kẻ đã chịu hình khổ kềm khảo, roi vọt, ngục hình, cùng nhiều đấng đã phải đổ
máu mình ra mà xưng đạo Chúa cùng lãnh chức Tử vì đạo.
IV.
- Từ Nhà nước Langsa cai trị tới bây giờ.
Đức
cha Gioang (Mgr.Miche) 1864 - 1873.
Trong năm 1865 và 1866
thì cha Colombert (Mỹ) làm cha sở họ Cái Nhum, cũng đã dời nhà thờ và nhà phước
là chỗ bây giờ đó, lập nhà phước liên với đất nhà thờ như khi còn ở tại Rạch
Chanh. Chỗ dời lại đó khi ấy là rừng bụi mới khai phá, nên cọp hùm còn lai vãng,
và một phen cọp đã vô nhà cha sở bắt chó mà ăn nữa.
Qua năm 1867 thì cha
Tournier (Thu) làm cha sở Cái Nhum, vì cha Colombert lên làm Đức cha phó, mà
khi ấy cha Colson phải thế coi họ gần ba năm, trong lúc cha Tournier mắc coi giữ
việc (Procureur) tại Saigon. Vậy một phen cha Tournier đổi xuống họ Cái Nhum,
thì ở đó cho tới khi sinh thì là năm 1906 (2 Juillet.).
Từ năm 1868 tới năm 1870
thì họ chánh Cái Nhum và mấy họ nhỏ thuộc về họ ấy, là Cái Bè và Cái Thia, có kẻ
ngoại trở lại đạo nhiều, mà sau thì bớt lần; vì cha Tournier mắc lo nhiều công
việc, làm nhà cữa nhà phước cho vững chắc, lập nhà thương, xong rồi lại lo làm
nhà thờ, chính mình cha đứng làm thợ mà xây dựng lần lần, với vài người bổn đạo
cha tập làm với cha mà thôi.
Nhà thờ làm lần lần như vậy
trong đời Đức cha Colombert (Mỹ) cai trị địa phận.
Thật cha Tournier đã làm
gương siêng năng việc vàn, và khiêm nhượng tịch mạc, hằng làm thinh chăm chỉ mà
làm các việc cho tới hoàn thành, chẳng nài lao khổ mệt nhọc; lại người là kẻ
hay lo giữ gìn những dấu tích gì xưa còn lại, cho nên nói đặng họ Cái Nhum còn
giữ nhiều đồ đã lậu đời trước (cổ tích) hơn mấy họ khác.
Cái nhà cha sở ở bây giờ
là nhà Đức cha Colombert (Mỹ) đã cất hồi còn làm cha sở tại đó, nhà ấy làm theo
kiểu annam, thấp, mà sau cha Tournier đã xây gạch kê lên cho cao và làm như là
nhà lầu vậy.
Nhà thờ họ Cái Nhum bây
giờ thì đã cất trên nền nhà thờ cũ, cha Tournier thủng thẳng mà làm lần lần,
trong 12 năm mới rồi, công cuộc lớn lao xây dựng thảy đều chắc chắn, nhà thờ nầy
lấy theo kiểu mấy nhà thờ đời trung cổ bên tây, cái lầu chuông cao lớn giống
như mấy tháp lầu đài xưa; phía trong da trời gần đụng nóc, nên coi cao; mấy cữa
sổ nguyệt cung thì theo kiểu Rôma, dài hai bên vách thì có xây nhiều bàn thờ
kính các thánh.
Trong năm 1897 Đức cha
Dépierre (Để) đã làm phép trọng thể nhà thờ ấy.
Từ khi cha Tournier (Thu)
xem sóc họ Cái Nhum cho tới khi người sinh thì việc đạo thánh tại họ đặng bằng an
luôn, chẳng có đều gì gàng trở, cho tới bây giờ thì cũng vậy, các hương chức
làng sở tại thì phân nửa là người có đạo, và phần nhiều là những hương chức lớn,
cho nên việc đạo đặng dễ dàng, kẻ ngoại đều kính nhường cha thầy ở tại họ; khi
kiệu Mình Chúa trọng thể, cùng khi đem tỏ tường Mình Chúa cho kẻ liệt, thì kẻ
ngoại đều tỏ dấu tôn kính.
Tại Cái Nhum thiên hạ ít
hay đau, bịnh thiên thời cũng ít có, phong thế không có độc địa như nhiều nơi,
cho nên có nhiều người già cả lớn tuổi; mấy nơi đất giồng đất cát, thì cao ráo
mát mẻ.
Trong cơn bão lụt năm Bính
Thìn (Mai 1904) thì tại Cái Nhum ít phải hư hao hơn mấy chỗ khác. Thiên hạ ở tại
đó thì lập vườn, bán cây trái mà ăn, cao, dừa, chuối, trầu; một hai nơi có làm
rẫy, trồng khoai trồng mía; nhiều chủ làm ruộng thêm nữa. Trong năm thì gần hết
thảy đều có đi ghe nhiều chuyến, chở những cây trái trong vườn mà bán cùng là đổi
chác chỗ nầy nơi kia, có người đi tới Ba Xuyên, Cần Thơ, Trà Lồng, có kẻ đi tới
trên Nam Vang.
Sau năm bão lụt 1904 thì
cha Tournier đã ghi lại: có nhiều người có đạo nghèo khó ở chỗ khác tới ngụ tại
họ Cái Nhum, mà phần nhiều không đặng sốt sắng bao nhiêu. Đã lâu trước bổn đạo
tại họ chia ra hai phần, một phần là mấy nhà gốc gác ở tại họ, bây giờ còn có
ít lắm; một phần nữa là mấy chủ ở các nơi tới ngụ tại đó, phần nầy thì nhiều. Bỡi
đó thì rõ đặng sau những cơn bắt đạo, mấy người giáo hữu bị đi đày khi trở về
đã có dắc theo nhiều người có đạo ở mấy nơi ấy về nữa. Cho nên đã hơn 50 năm
nay, có những người Mọi có đạo tới ở lập nghiệp trong đất của nhà thờ bây giờ.
Lại bây giờ cũng có vài người bổn đạo Huế nói trọ trẹ ở tại họ nữa.
Khi cha Tournier (Thu)
qua đời rồi (2 Juillet 1906), thì Đức cha Mossard đổi cha Henri Hay (Tài) qua ở
họ Cái Nhum, người làm cha sở coi họ cho tới năm 1915, thì lại đổi đi Trà Vinh.
Từ đây thì cha Đôminicô
Cơ làm cha sở, với cha Vêrô Luật giúp coi họ.
Giải
hạn địa sở Cái Nhum
Họ Cái Nhum ném về một phần
trong cù lao Mỏ Cày, có một phía đất liền đàng bộ (trừ ra vài cái rạch) đi qua
họ Cái Mơng và mấy họ nhỏ mà thôi. Nội cù lao ấy kể đặng 21 làng, phân ra ba tổng.
Cái Mơng, Cái Bè và Vĩnh
Long thì bao xung quanh Cái Nhum, cũng như ba sông, là sông Hàm Luông, sông Mỹ
Tho và sông Vĩnh Long phân biệt Cái Nhum ra, cho nên Địa sở Cái Nhum thì ở nội
trong vòng cù lao Mỏ Cày mà thôi, lập thêm ra xa nữa không được.
Buổi tân trào mới lập,
thì mấy họ là Cái Bè, Cái Thia, và Bình Lợi (tĩnh Bến Tre) thảy đều thuộc về địa
sở Cái Nhum kẻ ngoại trở lại đạo nhiều, nhứt là từ năm 1867 tới năm 1870, tại
Cái Nhum và trong mấy họ ấy. Mà sau thì đã tách mấy họ ấy ra, nên địa sở Cái
Nhum còn lại nội ba tổng trong cù lao Mỏ Cày mà thôi.
Nhà
Trường nhỏ Latinh
Tại họ Cái Nhum, Nhà
Chung đã có lập một Nhà trường nhỏ Latinh, cùng dạy học trò được trong mấy năm
mà thôi; nhà cữa Nhà trường đã cất thì hãy còn y nguyên, và bây giờ thì để cho
Nhà Dòng ở.
Lối năm 1877 Đức cha
Colombert (Mỹ) đã định lập Nhà trường nầy, cùng giao cho cha Duquesnay (Nhơn)
làm bề trên, khi ấy cha Duquesnay ở bên tây mới qua Nam Kỳ chẳng đặng bao lâu,
và đang dạy tại trường Latinh Saigon, Đức cha thấy người thông minh giỏi lo,
cùng đã từng trải nhiều việc, vì khi còn ở bên tây cha đã có xem sóc họ; nên mới
phú cho người việc lập Nhà trường nhỏ ấy.
Khi cha Duquesnay vưng lịnh
Đức cha mà xuống Cái Nhum, là trong năm 1878; thì các việc đều phải khởi công
mà làm hết; chỗ miếng đất định lập Nhà trường thì đầy những mồ mả, cho nên phải
cuốc phá ban xuống cho bằng. Bỡi vậy kẻ ngoại thấy chuyện như thế thì đàm tiểu
nhiều đều, làm cho việc lo có ý lành phải mang tiếng dữ; chúng nó lại đồn rằng:
Hễ tối thì có ma ở trong mấy mồ mả ấy dậy mà kêu rêu trách móc !... Cho nên các
việc ban sơ thật cũng là cam go rất đỗi !
Khi nhà lớn giữa làm rồi
thì cho học trò các nơi tựu học. Chẳng dè Nhà trường mới làm vừa xong thì cha
Duquesnay phải mang bịnh, cũng bỡi cha noi gương bắt chước theo như cha
Tournier (Thu), chẳng kể khó nhọc nắng mưa, ra tay đứng đào nền. làm thợ hồ xây
dựng, mảng lo tạo lập Nhà trường cho thành mà quên lo bảo dưỡng cho thân mình,
nên cha phải đau cùng qua Vĩnh Long mà dưỡng bịnh, chẳng hay qua đó đặng ít
ngày thì cha đã sinh thì.
Vậy Đức cha đã dạy cha
Georges Ritter (Giáo) tiếp thế làm bề trên Nhà trường, cùng lo các cuộc đâu đó
cho hoàn thành; lại cũng nhờ có một cha annam khi ấy mới chịu chức; ra công phụ
giúp các việc, cha ấy là cha Anrê Bửu, (bây giờ là cha sở coi họ Thủ Ngữ), nên
việc học hành mấy lớp đều đặng phấn chấn.
Khi ấy tiến bạc Nhà Chung
chẳng dư giã bao nhiêu, nên các cha tây trong Địa phận, phải bằng lòng chịu cho
một phần lương của mình mỗi năm đặng bỏ vô giúp Nhà trường ấy. Việc ăn uống tại
trường cũng phải đơn sơ một chút, trong nhà trường thì có hồ nuôi cá nuôi sấu,
lại thường khi học trò có đi săn hươu nai cùng là đi lưới dưới sông, đặng kiếm
thêm thịt cá mà ăn.
Lúc ban đầu học trò ở tại
đó không đặng mạnh giỏi gì lắm, kế trong tháng Mai thì lại có bịnh thiên thời
phát ra mấy nơi xung quanh, trong trường cũng có người bị, làm cho hết thảy học
trò đều sợ quá cũng xin phép về nhà; phần đông học trò thì thuộc về họ Cái
Mơng, mà tại Cái Mơng lúc ấy bịnh dịch cũng không kém gì Cái Nhum. Vậy nhờ cha
Anrê Bửu khuyên dỗ học trò đừng sợ hãi sự gì, cứ lo việc bổn phận mà thôi, cho
nên học trò đặng ở an, nhà trường khỏi bãi.
Cha Anrê Bửu lo dạy học,
cùng lo thêm nhiều việc trong Nhà trường nữa, lại cha đã làm một cái hang đá
núi Đ. C. Bà Lourdes, bây giờ cũng còn tại đó.
Vậy trong mấy năm, là từ
năm 1878 tới năm 1881, thì việc học hành tại Nhà trường đâu đó đều thứ lớp an
bày. Bước qua đầu năm 1882 thì Nhà nước bãi tiền cấp dưỡng cho các cha tây, cho
nên không còn tiền bạc mà phụ giúp Nhà trường nầy nữa; bỡi vậy Đức cha
Colombert dạy dời mấy lớp học trò về Nhà trường Latinh Saigon. Khi ấy cha
Ritter (Giáo) xin ở lại Cái Nhum, đặng lo kiếm học trò mà dạy làm thầy giảng,
vì trong địa phận chưa có thầy giảng để dạy chầu nhưng đạo mới. Vậy cha Ritter ở
tại đó mà lo lắng việc nầy cho tới năm 1898, thì người phải đau cùng xin về tây
dưỡng bịnh. Tưởng là cha sẽ đặng thuyên bịnh mà trở qua nữa, nên Đức cha dạy một
cha annam ở coi đỡ đó; chẳng hay cha Ritter về tới Marseille thì đã qua đời (trong
tháng Juillet năm 1891).
Bỡi đó việc cha Ritter đã
lo lắng chưa đặng mở mang thành tựu, cha chết rồi thì việc lập thầy giảng phải
ngưng, nhưng vậy cũng không tàn mất, vì Đức cha dạy để nhà ấy nuôi trẻ mồ côi tập
nghiệp ruộng rẫy, và đặt một cha annam ở cai quản đó; thì những người chí quyết
tu thân học làm thầy giảng cũng còn ở tại nhà nầy; và khi cha Ernest Hay (Hay)
lập Nhà dòng tại An Đức, thì những người ấy đều xin nhập vào.
Vậy từ năm 1891 tới 1906,
Nhà trường cũ Cái Nhum đã nên nhà để nuôi trẻ mồ côi tập nghề ruộng nương rẫy
bái; tới năm 1906 thì Đức cha Mossard (Mão) dạy dời Nhà dòng đã lập tại An Đức
về Cái Nhum, cùng ở tại Nhà trường cũ, cho nên từ ấy tới nay thì gọi là Nhà
dòng Cái Nhum.
(Chung)
.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm
1917
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét