ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ BÚNG

Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2022

Sự tích Cha Phaolô Nguyễn Văn Qui

 SỰ TÍCH CHA PHAOLỒ QUI (tiếp theo)

In memoria æterna erit justus (Ps. exi, 7).

Kẻ lành đặng người ta nhớ muôn đời

Bỡi người nẩm nẩm nớp nớp mà giữ mình luôn trước mặt Chúa, bỡi người hằng chuyên đàng hãm mình bề trong bề ngoài, bỡi người lo hạ mình khiêm nhượng, thì dễ hiểu người yêu chuộng và gìn giữ đức thanh tịnh sạch sẽ là thế nào.

Ta không kể lại được hết các nhơn đưa người đã tập tành, và đã nên thành thuộc làu thông cũng nên thầy mà dẫn dạy kẻ khác. Ta muốn nhắc lại một đều người ta thường không kể, là cha Phaolồ hằng chín chắn mà dùng ngày giờ cho nên, chẳng để hư hao một giây phút. Ta thấy trước nầy những sách người đã chép và đã in ra. Còn nhiều sách khác người cũng đã làm rồi, mà chưa in đặng. Lại có sách người đã khỉ sự làm, mà không thành, vì phải yếu sức mà ngừng lại. Những sách vở nhiều thứ làm vậy, người đã chép không phải đang lúc thành thơi, rảnh rang công việc, song là giữa khi người phải chuyên lo việc dạy dỗ xem sóc học trò, đang phải làm phước làm phận hay là giảng dạy bổn đạo. Nhưng bỡi người biết tiện tặn ngày giờ, biết sắp đặt mọi việc cho có thứ tự trúng giờ trúng khắc, biết siêng năng và hay hãm mình ghét xác, chẳng chịu cho nó ngừng tay vô lối, nên đã có đủ ngày giờ, mà làm nhiều điều thể ấy, mà cũng không trễ bỏ hay là chậm hưỡn một chút nào trong những việc bổn phận phải làm hằng ngày.

Có một sách cả thể người đã gầy ra, và đặt tên là sách một khắc, vì mỗi ngày người lo về sách ấy nội một khắc đồng hồ mà thôi, từ khi làm lễ rồi cho tới giờ lót lòng. Sách ấy là Tự điển chữ Tàu, mà người dịch ra nôm quốc ngữ và tiếng langsa, cùng sắp lại theo A.B.C. quốc ngữ. Hềm vì người không sức đủ mà làm cho rồi: người làm chừng hơn ba năm, thì Chúa để cho người yếu liệt quá, nên người tưởng ý Chúa muốn cho người bỏ việc ấy, thì người dẹp lại một nơi. Đến sau người tiếc, vì thấy ích lợi rất trọng sách ấy phải sinh ra cho người bổn quốc và gìn giữ tiếng an nam cho chính đính nghĩa lý và chắc chắn cách viết cách dùng, thì người đã ngỏ lời cùng một vị thông minh thượng phẩm, là ông đốc phủ Của, và đem sách cho ông ấy coi. Ông nầy kiểm sát, thì cả hãi mà khen ngợi vô hồi, vì không dè có kẻ đã tra tay gầy việc thông minh cả thể đại ích dường ấy. Quan đốc lấy làm thích ý lắm, nên đã dưng mình mà tiếp theo sách cha Phaolồ, toan viết cho rồi. Cha mừng rỡ, vì trông cậy đứng thông minh không để việc mình làm nửa chừng mà ra vô ích. Chẳng hay cách một vài năm Chúa đã đem ông ấy khỏi địa cầu, mà công việc chưa hoàn thành, phải ngưng lại một phen nữa. Từ ấy không hẳn sách nầy về tay ai lãnh và rày ra làm sao.

Cha Phaolồ biết chất lót ngày giờ mà viết lách thể ấy, thì người lại cùng khéo lo hơn nữa mà dùng ngày giờ cho đặng lập và tích trữ công nghiệp trong kho tàng trên trời; bất kỳ việc gì người làm, bất luận giây phút nào người dùng, thảy đều nên của rất châu báu mà dưng cho Chúa và đáng chúa nhậm: các ngày trong đời người đã đặng no đầy (Ps., LXXII, 10 ), chẳng có ngày nào lưng vơi, chẳng có ngày nào lổng trống.

Cho đặng tập luyện các nhơn đức ấy và tấn tới càng ngày càng hơn thì người đã nhờ ơn Chúa ban trong phép bí tích, mà cũng nhờ người hằng lo dùng phương thể cần kíp cho đặng bền đỗ luôn. Hằng ngày sớm mai thức dậy, trước khi bước lên bàn thờ mà tế lễ Chúa, thì người lo việc nguyện gẫm. Người gọi việc ấy là nhúm lửa. Bỡi mỗi ngày người lo nhúm lửa thế ấy, cho nên trót ngày lửa thánh kính mến Chúa hằng cháy lên mạnh ngọn trong lòng người, mà thiêu đốt những bợn nhơ bỡi tình tư dục cùng tính yếu đuối tự nhiên, và thúc hối người thêm sốt sắng mà bước tới trong đàng trọn lành chẳng khi dừng. Trong giờ nguyện gẫm thì nhứt thiết người lo xét những việc sẽ làm và dốc lòng một cách chắc chắn rõ ràng, chỉ những khi, những thế mình phải dùng cho đặng giữ đều đã dốc lòng. Cho nên dầu khi phải sự khô khan, thì linh hồn cũng đặng tẩn ích luôn. Người trung tín mà giữ việc trọng cẩn nầy, chẳng sót khi nào, dầu đang khi yếu mệt đau đớn, dầu khi mắc bua việc gấp rúc, cũng chẳng bỏ chẳng bớt.

Việc nguyện gẫm rất cần cho đặng giữ sự sốt sắng trong lòng ta, và giúp ta mà tấn tới trong đàng lành; song một mình việc ấy mà thôi thì chưa đủ, nếu chẳng thêm sự xét mình riêng một hay là hai lần mỗi ngày. Cha Phaolồ trót đời hằng trung tín mà giữ thêm sự thứ hai nầy. Lúc người còn là thầy, phải coi trẻ nhỏ trong giờ học, ai có ý thì thấy đặng mỗi ngày, một ít phút trước giờ ăn cơm trưa, người đi qua đi lại trong nhà học mà chăm chỉ hơn thường, cách một lát, người lấy tập giấy nhỏ trong túi mà ghi một hai chữ, rồi cất lại trong túi: không ngày nào mà bỏ qua việc ấy. Đó là người xét mình trưa. Buổi tối trên nhà ngủ, trước khi nằm xuống, thì thấy người quì gối nơi đầu giường mà nguyện một chặp, đoạn cúi xuống hôn đất, mà phạt tạ vì những lỗi đã phạm trong cả và ngày. Xem những đều người dặn bảo trong sách Tu Sĩ thì hẳn người chuộng việc xét mình riêng nầy và lấy làm cần là thể nào. Các thầy dạy đàng thiêng liêng đều kể là việc đại cái, cha Phaolồ cũng lấy làm mẹo mực chắc chắn cho mình mà giữ luôn. Khi làm thầy cả rồi, cho đến mãn đời, thì người bền lòng một trật, mà giữ mọi đều như hồi người còn làm thầy trong nhà trường chẳng đổi thay chút nào. Con trẻ theo đàng nào, thì lên chừng già cùng chẳng ra khỏi đàng ấy (PROV,, XXII, 6). Người đã học luật phép khôn ngoan nầy cách đành rành ắt chất, người cũng truyền lại y nguy, chẳng tham, chẳng bớt (SAP., VII, 13). Bao lâu người còn ở trong nhà trường, thì bấy lâu những nhắc đi nhắc lại chung riêng cho con cái, em út, là học trò người cả thảy, cho đặng hẳn dạ và lo luyện tập mình như vậy.

Đang lúc người chuyên việc dạy dỗ, thì sức người càng ngày càng mòn. Đức Cha thấy vậy, thì định cho người ngưng tay mà đi nghỉ hầu dưỡng bịnh. Lúc ấy gần cuối năm 1907, cũng trúng lối giáp hai mươi lăm năm người chịu chức chánh tế. Họ Mỹ Tho nương dịp đã gầy dọn dẹp trọng thể mà làm lễ bạc, cám ơn Chúa đã nhắc con đầu lòng mình lên quờn linh mục. Ý Chúa nhiệm mầu sắp đặt mọi sự khôn ngoan, ta không hiểu đặng; vì trước họ ấy có đông học trò đi Nhà trường, mà khi làm lễ bạc nầy, thì chẳng còn một tên học trò nào sốt, hầu nối dòng thiêng liêng trong cung thánh. Cho tới rày chẳng thấy một ai dưng con cho Chúa nữa... Xin cha rày về chầu Chúa, ngỏ lời cầu bàu cho đất Mỹ Tho đặng gội nhuần ơn thánh, mà sinh ra trái thiêng liêng khác, giống như trái chiếng, và sai trái hầu làm sáng danh Chúa, vì chẳng phải tại ai muốn, hay là chạy ngược chạy xuôi mà đặng, một tại Chúa thương xót ban ơn mà thôi (RoM., IX, 16).

Cha Phaolồ nghỉ việc dạy dỗ trong nhà trường, thì xem ra khỏe lại đặng chút đỉnh, nên Đức Cha giao cho người lãnh một họ nhỏ gần Sài Gòn, vừa sức người gánh nổi, là họ Gia Định. Họ ấy đặng chừng bốn năm trăm bổn đạo lớn nhỏ, Người vui lòng mà lãnh việc xem sóc con chiên, vì từ ngày làm linh mục, đã hai mươi lăm năm, người chưa đặng lo việc ấy, những mảng dạy dỗ học trò trong Nhà trường. Người ở đó chẳng đặng bao lâu, thì bề trên định người phải đổi sang qua họ Môi Khôi – là Chí Hòa, - cho đặng lo về nhà các cha An Nam dưỡng lão cùng dưỡng bịnh, và lo việc họ nầy, vì bổn đạo kém số hơn nữa, nên xem ra nhẹ gánh hơn. Là năm 1910, tháng Avril. Người cũng một lòng vưng lịnh mà đi, dầu biết có sự khó dễ, song ý Chúa thì hơn ý riêng mình. Qua năm 1911, người lại phải trở về nhậm họ Gia Định, mà ở đó cho đến khi Chúa kêu về họ hằng sống trên trời...

Từ ngày người lãnh việc linh hồn người ta, thì người dùng hết trí lòng mình, sức lực cùng sự sống mình mà lo lắng về con chiên đêm ngày. Trước đây đã nói về sự người ân cần việc giảng dạy, dầu lúc mệt mỏi yếu đuối người cũng chẳng bỏ qua khi nào. Mà người đã từng biết, lời mình giảng dạy mà thôi chẳng sinh đặng ích nào sốt: Thầy trồng, Apollo tới, mà là Đ C T cho cây mọc lên lớn (1 Co., III, 6), cho nên người những chạy đến cùng Chúa mà nguyện xin cho con chiên mình đặng nên béo tốt, dùng sự cầu nguyện, nhứt là đang lúc ở trên bàn thờ, mà làm cho trọn việc bổn phận mình, là ở giữa Chúa và linh hồn người ta, đến cùng Chúa mà than thở kêu xin ơn thần lực cho các linh hồn Chúa đã nẩy phú cho mình chăn giữ, đoạn day lại truyền chỉ ý Chúa cho đoàn chiên hiểu biết mà vưng cứ; đến cùng Chúa mà nài nỉ cầu bầu xin ơn thống hối, đoạn day lại kiếm tìm chiên lạc, mà dắc về cùng Chúa; đến cùng Chúa mà khẩn cầu mọi ơn lành cho người ta đặng nhờ chẳng những về phần hồn mà lại về phần xác nữa.

Trong đoàn chiên chẳng khỏi pha lộn một ít con dê, làm cho người phải ưu phiền cay đắng, nó cứng đầu co cương, chẳng biết nghe lời khuyên lơn an ủi, chẳng suy nhớ lời thánh Phaolô dặn: Anh em hãy vưng lời những đứng coi sóc anh em, hầu phục tùng các đứng ấy; vì chưng các đứng ấy canh giữ đêm ngày, như hòng phải trả lẽ về linh hồn anh em, ngõ cho các đứng ấy vui lòng mà làm việc nầy, chẳng phải than khóc, vì nếu kẻ ấy khóc than, thì đều nầy chẳng sinh ich lợi cho anh em đâu (HEBR., XIII, 17). Lại có khi nó thêm phản nghịch mà cự địch tỏ tường, cùng mắng chưởi làm xấu hổ cho người. Mà người cứ noi gương Quan thầy mình, là Đấng chăn chiên cả, mà nhịn nhục hiền lành, khi nghi bị mắng nhiếc thì chẳng mắng nhiếc lại; khi phải cực khốn thì chẳng ngâm đe ( I PET., II, 23 ), chẳng bớt lo lắng mến thương, lại cứ cầu bàu cho nó trước mặt Chúa, dầu khi dọn chết cũng chưa quên, cho nên đã đặng thấy nó hồi tâm trở lại, khi người hòng ra khỏi thế nầy.

Người lo giúp bổn đạo nhứt là nơi toà cáo giải; những lời giảng chung chẳng làm ích cho bằng những lời dạy riêng cho trúng theo bổn phận mỗi một người, theo tính tình, ý tứ, tùy lúc vui buồn, bằng an hay là phải cơn xao xiển. Vì vậy bất luận ngày nào, giờ nào, dầu khi người mắc công chuyện gì hay là mệt mỏi, hễ có ai xin làm phước, người liền vội vàng đi liền. Tới ngày phán xét chung ta sẽ thấy được bao nhiêu linh hồn nhờ người dạy dỗ thể ấy mà dứt chừa đàng trái, bao nhiêu linh hồn đặng thêm sốt sắng, đặng nên thánh. Tao đã chọn bây, và đặt bây cho bây đi và làm cho ra trái, và cho trái bây sinh ra đặng bền bĩ (JOAN., XV, 16). Ấy là những trái ngon ngọt tốt lành, bền vững cha Phaolồ đã sinh ra cho Chúa.

Có kẻ trách người sao có dễ dàng quá làm vậy, không chỉ giờ cho người ta đến xưng tội, không trừ ra giờ phải nghỉ ngơi. Thì người hay đáp lại những lẽ nầy: “Ơn Chúa chẳng có chờ đợi; ơn đi qua, sợ không trở lại, Time Jesum transeuntem, et non revertentem... Mình bắt nó chờ, có khi nó ngã lòng, chẳng chờ, và chẳng thèm đến nữa... Chúng ta làm thầy cả không phải cho đặng tìm sự dễ, sự sướng cho mình, song một làm thầy cả cho đặng làm ích cho linh hồn người ta... Tôi mắc nợ cùng các linh hồn, Omnibus debitor sum; nợ đòi bao giờ, phải trả bấy giờ, không thì níu lưng... Nếu mình xin, mình có muốn cho người ta bắt mình chờ không ?...”

Bỡi người sẵn lòng giúp việc linh hồn thể ấy, và người từng trải đàng trọn lành, hay thương kẻ có tội, dạy bảo những lời khôn ngoan cho vừa sức ai nấy, cho nên chẳng những là con chiên người đến cùng người mà thôi, lại những người ở xa, thuộc về họ khác, cũng đến mà xưng tội và chọn người làm cha thiêng liêng mà xem sóc, sửa dạy, dìu dắc mình trong nẻo kính mến Chúa, chẳng nệ đàng xa xuôi trắc trở. Cũng có kẻ lạ ở nơi khác, khi gần chết thì xin rước cho được người, mà xưng tội lần sau hết; mà dầu khó lòng, dầu là ngoài việc bổn phận, thì người cũng chẳng từ chối, lại vui lòng chịu mệt mõi cho đặng đem một linh hồn trở về nghĩa cùng Chúa.

Việc thương giúp kẻ mong sinh thì thể ấy, người kể là một việc rất trọng trong bổn phận linh mục đang chăn giữ đoàn chiên; cho nên người ân cần lắm, hẳn thật giúp người ta khi sống, khi mạnh khỏe, mà trong giờ sau hết chẳng thêm cẩn quyển lo lắng, thì không trọn việc, có khi phải mất mọi ích đã làm trước, vì phước họa đời đời tại một giờ chết mà thôi. Dầu rước kẻ liệt giờ nào, thì người cũng sẵn luôn, đêm cũng như ngày. Khi đã làm xong các phép bí tích sau hết, thì người chưa lấy làm đủ, còn năng tới lui thăm viếng, an ủi, nhắc nhở: dầu mắc việc gì, người chẳng bỏ qua việc bổn phận ấy; dầu có kẻ lo lắng giúp đỡ các hồn, thì người cũng cứ giữ, cứ viếng thăm luôn, vì ai thì có phần nấy, việc kẻ khác làm chẳng chuẩn cho ta khỏi làm việc bổn phận ta. Người thường nói rằng: “Dầu chẳng cần, thì cũng là việc bổn phận buộc, không nên bỏ. Lại có mặt thầy cả, thì sinh ích luôn, vì Chúa ban ơn riêng, thầy cả đến nơi nào thì đem ơn lành Chúa theo đó. Một sự thầy cả tới, có khi ngăn đón đặng nhiều chước cám dỗ...)

Có một đều người lo giữ, mà trong bổn đạo ít kẻ biết, ít kẻ lơ là năng làm phép giải tội lại cho kẻ liệt. Nên nhiều khi người ta lấy làm lạ, và kẻ liệt cũng không hiểu, không muốn lo mà rằng: “Không cần; con mới xưng tội, mới chịu đủ các phép... Con bằng an, không có gì hết” mà chẳng xét, dầu mới chịu phép giải tội, có khi cũng đã phạm tội lại đặng bề trong, vì là giờ ma qui làm hết sức mà cướp linh hồn, cho nên có khi là cần kíp phải chịu phép giải tội lại. Mà dầu không phạm thêm tội gì mới, thì phép giải tội rửa thêm linh hồn cho sạch hơn nữa, ta được thêm vạ mà bớt sự đền tội, và nhứt là thêm sức thiêng liêng cho linh hồn đặng mạnh hơn mà cự địch và thắng chiến những cơn cám dỗ trong giờ nguy hiểm ấy, và đặng dễ mà giục lòng tin, cậy, kính mến, ăn năn, hầu thêm công nghiệp dẫy đầy hơn nữa. Cho nên cha Phaolồ an ủi, dạy dỗ, cắt nghĩa, thì kẻ liệt thường vui lòng vưng nghe.

Cho đặng chết lành, thì phải sống lành; vì vậy người làm hết sức cho con chiên mình đặng đầy sự sống thiêng liêng càng ngày càng thêm, ut vitam habeant, et abundantius habeant (JOAN., X, 10). Sự an ủi, dạy dỗ, thì chưa đủ, nếu chẳng có Chúa thì ta chẳng đặng làm nên sự gì sốt (JOAN., XV, 5), nên người lo thôi thúc giục giã ai nấy tới cùng Đ C G trong phép Thánh Thể, rước Chúa vào lòng cho đặng hiệp làm một cùng Chúa, cho đặng nhờ sức Chúa trong mọi việc làm, cho đặng sống bỡi sự sống Chúa, Người dùng mọi dịp cho đặng cắt nghĩa Sắc chỉ Đức Giáo Tông Piô thứ X về sự rước lễ hằng ngày, cho ai nấy tỏ rõ ý Đ C G và ý Hội thánh, mà đem lòng sốt sắng, tin cậy, hầu lo giữ theo cho đặng ích như Đ C G ước ao. Người cũng không bỏ quên con nít là phần trọng trong đoàn chiên, một cứ theo lời Tòa thánh phân định mà lo cho nó đặng rước lễ sớm, và ái mộ sốt sắng cho đặng đến ăn của thiêng liêng nầy mà thêm sức mạnh trong linh hồn. Người chỉ công lo lắng cho nó biết dọn mình theo sức, cho nó giữ mình thanh sạch, cho nó biết giục lòng tin, cậy, kính mến, ăn năn, ao ước mà đến cùng Chúa.

Một que củi cháy một mình thì chẳng đặng nóng mấy, lại dễ tắt, một đống củi lớn cháy nóng hơn và bền ngọn hơn, miễn là có kẻ giụm lại cho thường. Cha Phaolồ muốn thâu hiệp các linh hồn sốt sắng lại gần nhau, cho để giữ lửa thiêng liêng, cho nóng nảy, cho bền bỉ lâu dài, thì người toan lập hội trong địa sở người. Lòng người kính mến Trái Tim Đ C G cách riêng – và đã vào hội Trái Tim khi còn làm thầy ở Nhà trường, - nên người toan dưng hội người ước ao lập thể ấy cho Trái Tim Chúa. Người muốn cho việc nên chắc chắn và sinh phần ích thiêng liêng và nhờ các Ân tứ, nên đã xin phép Bề trên, đoạn gởi thơ bên Tây, mà xin cùng ông đầu Hội đã lập sẵn, đã có Tòa thánh chiếu nhận, ban phép cho người đặng lập Hội Trái Tim tại họ Gia Định, mà đặng thông công trong mọi ơn Tòa thánh ban cho Hội chánh tại Rôma. Người đã phải tính toán, lo thơ từ đơn trạng lâu ngày lâu tháng cho đặng đủ mọi phép cần. Khi đặng như lòng sở nguyện, thì người chẳng những muốn cho con chiên mình nhờ mà thôi, cũng kêu mời bổn đạo các họ xa gần đến thông công. Trước khi người ra khỏi đời nầy, thì Đ C G đã cho người đặng sự vui mừng sau hết, là biên tên gần sáu trăm người vào sổ kẻ dưng mình làm tôi Rất thánh Trái Tim Chúa cách riêng, nên như của lễ trọng tốt, thơm tho, vừa ý Chúa, mà dưng cho Chúa, trước khi dứt việc chăn giữ con chiên ở thế nầy. Vì ngày 21 Juin 1914, người làm lễ Rất thánh Trái Tim trọng thể, và rán gượng giảng một bài sau hết mà khai Hội ấy, như lời di ngôn để lại cho con cái mình; lễ rồi người nằm xuống cho đến chết, không còn làm việc gì đặng nữa.

Hội Trái Tim nầy đã nên như đền thánh thiêng liêng người lập và trối lại cho họ Gia Định, mà cũng có đền thánh bên ngoài bằng đá gạch sắt gỗ, người đã cất mà để lại nữa. Khi người đến tại Gia Định mà nhậm họ phiên thứ nhứt, năm 1908, thì nhà thờ đã mục nát hòng sập, phải lo tái tạo, Xưa người lo chạy tiền mà in sách vở, thì lấy làm thánh giá nặng, rày phải lo kiếm cho đủ tổn phí mà cất nhà thờ, là việc đồ sộ nhiều phần hơn, thì biết là bao nhiêu đàng cam go! Song người cũng vui lòng kề vai, đang còn yếu sức mà người cũng đi phổ khuyến chỗ nầy chỗ kia, không nài mệt mỏi, cho có đủ tiền mà làm, vì bổn đạo trong họ không sức giúp đặng bao nhiêu, phần đông hơn phải đi làm thuê mướn mà độ hồ khẩu. Có lần người đi mệt nhọc cả ngày, mà không đặng bao nhiêu, cũng chẳng buồn bực, cũng không ngã lòng. Có kẻ hỏi rằng: “Cha xin như thế, đời nào cho có đủ mà làm?” Người rằng: “Việc Chúa, để Chúa lo,” - Kẻ khác rằng: “Cha bịnh hoạn yếu đuối làm vậy, thì làm sao cho nổi?” Người rằng: “Không nổi thì Chúa giao cho kẻ khác, Chúa không cần gì ta; chừng hết sức thì thôi.” Lòng người tin cậy Chúa đã thắng hết mọi sự khó, mọi đều ngăn trở.

Nơi cất nhà thờ bấy lâu nay, thì chẳng ai ưng, vì là đất thấp sình lầy, hay ngập, ướt át, xấu khí, lại khó nỗi xây nền cho chắc. Dời đi chốn khác thì lại bất tiện, vì chỗ có thể cất nhà thờ đặng thì xa xóm bổn đạo; mà muốn cho gần gũi, thì kiếm đất không ra. Tính tới tính lui, ngày qua tháng lụn, chưa nhứt định đặng cho cất chỗ nào, thì cha đã phải bề trên đổi qua Chí Hòa. Năm sau phản hồi mới quyết làm nhà thờ lại nơi nền cũ.

Tiền bạc chưa góp đặng bao nhiêu, mà nhà thờ cũ khỉ sự sập, không còn dùng đặng, nên Đức Cha dạy cất trại làm nhà thờ tạm, và tra tay gầy việc dỡ nhà cũ, đào lỗ, xây nền, tới đâu hay đó. Vách lên nửa chừng hết tiền, phải ngưng lại, cho đến năm 1913 làm mới hoàn thành. Bỡi cha Phaolồ tin cậy Chúa, phú hết mọi sự cho Chúa liệu, thì Chúa chẳng thể cho lòng tin cậy ấy hư không; Chúa sắp đặt mọi sự trúng giờ, trúng cách Chúa tiền định. Cho nên dầu nửa chừng, bạc hết, cha cũng không áy náy, không sờn lòng, cũng chẳng bồn chồn, chẳng lật đật, cứ an lòng trông cậy một thế, mà lo và làm theo sức một cách bằng tịnh luôn. Chừng mọi sự xong xả, sổ sách tính rồi, thì chẳng dư chẳng thiếu, chẳng chi tốn một chút nợ nào; ấy là trúng y như lời người nói: “Việc Chúa, để Chúa lo”

Đèn kia thắp cháy luôn, lần hồi phải lụn. Cha Phaolồ làm việc luôn trót đời, sức phải hao mòn. Cũng nên lấy làm lạ vì người sống đặng cho đến gần sáu mươi tuổi, vì người bịnh loạn yếu đuối, không ai trông người sống lâu đặng và chính mình người hằng dọn mình chết luôn. Mà lòng người có một sự ước ao riêng, là chết theo cha bề trên Thi, là cha linh hồn người, đã lo lắng xem sóc người từ bé, dìu dắc người cho đến chức thầy cả, dạy dỗ tập luyện người trong đàng nẻo Chúa, làm mẫu gương và mẹo mực người trong mọi sự. Từ ngày cha bề trên Thi tạ thế, là mồng 9 Aout 1897, thì hằng năm cha Phaolồ trông người về rước mình đi trong ngày ấy, và dọn mình chực sẵn luôn, Cha trông lắm nhứt là năm thứ mười, 1907; song hụt hoài. Năm 1909, người làm cha sở Gia Định, thấy trong mình khá hơn thường, khó bề chờ đợi cha bề trên rước ngày ấy, nên đã dọn dẹp làm lễ hát trong nhà cho người, và mời Đức Cha và hơn ba chục cha tới mà chầu lễ.

Chúa để cho người phải trông đợi nhiều năm, Song Chúa đã ban cho người đặng sự lòng người ao ước, và miệng người tỏ ý mình muốn, thì Chúa chẳng để cho người phải hụt (Ps , XA, 2). Vậy năm nay cha Phaolồ càng bớt sức nhiều hơn mọi năm khác; người đi ở nhà thương Nhà trường nhiều lần mà lo thuốc men, song chứng bịnh không chịu giảm. Mà người cũng cứ làm việc bổn phận, không bỏ. Ta đã thấy người lo cho xong việc lập Hội Trái Tim; đến ngày lễ ấy thì người làm lễ trọng thể, đoạn giảng (cũng như hồi còn đủ sức)  mà mở Hội. Lễ ấy là lễ sau hết người làm cho bổn đạo, bài giảng ấy cũng như lời trối, Lễ rồi người chẳng còn sức nữa, chứng bịnh thúc tới, nên người phải đi nằm nhà thương, là ngày 22 Juin.

Quan thầy hiểu trong thân thể người đã hư hao tàn bại cả, không còn thể làm chi được, một chờ giờ lâm chung mà thôi. Nghe tin nầy thì lòng cha Phaolồ vui mừng, vì thấy gần ngày bỏ tù rạc xác phàm mà về quê thật, mà nghỉ ngơi đời đời. Người một chỉ lo dọn mình mà ra trước tòa phán xét.

Chúa đã định cho người còn phải chịu sự đau đớn trong bốn mươi ngày trọn, mà luyện người cho nên tinh sạch mọi đàng. Những sự đau đớn ấy bao phủ người tư bề, mà người bằng tịnh vui mặt luôn, chẳng hề phàn nàn năn nỉ bao giờ. Dầu mệt thể nào người cũng rán nói khó cùng những kẻ đến viếng thăm, tỏ lòng biết ơn kẻ ấy. Đều nầy chắc cũng giúp người mà bỏ ý riêng mình càng thêm nhiều hơn khi khác; vì hằng ngày có ghe kẻ tới lui thăm viếng, hoặc trong anh em thầy cả tây nam, hoặc là con cái trong họ người, có khi là những người quen lớn thiết nghĩa, nên ghe phen khó bề nghĩ an. Một hai người tới viếng thăm, vì lòng thảo muốn hỏi thăm, muốn nói chuyện vãn lâu dài, mà không nhớ làm vậy thì nhọc mệt cho người bịnh; dầu vậy cha cũng chẳng nói một lời nào, hay là tỏ dấu nào cho kẻ ấy biết mình phải cực lực. Có khi có kẻ tới trúng lúc người mệt nhiều, kẻ canh bịnh chẳng cho vào thăm, thì lại tức mình giận hờn, mà chẳng xét nếu mình thật lòng mến thương người bịnh, thì trước hết lo cho người đặng nghỉ an,  chẳng dám làm điều gì mà nhọc cho người, mới tliệt là thảo; muốn cho đặng phỉ dạ mình, mà không lo mệt bịnh, thì ấy là thương ai?

Đ C G xưa phán rằng: Chừng nào Tao lên khỏi đất thì Tao sẽ kéo mọi sự lên cùng Tao (JOAN, XI, 32), là khi Chúa chịu treo lên cao trên thánh giá mà chịu sự thương khó, hầu chuộc tội đời, thì Chúa kéo lòng mọi người đến cùng mình, cho ai nấy nhìn biết và kính mến Người. Đầy tớ Chúa khi phải nằm trên giường liệt nặng phen nầy, cũng bắt chước Chúa dưng mọi sự khốn khó mình mà đền tội con chiên. Người nói cùng một ít người trong bổn đạo rằng: “Nếu cha đau nặng đây là cho đặng đền tội trong họ,” Phải tưởng Chúa đã nhậm sự đền tội nầy, vì đã ban cho đầy tớ mình, trong cơn khốn cực ấy, có sức mà kéo đến cùng mình những kẻ cứng cỏi bấy lâu người không sức an ủi được. Người nhắn với kẻ đến thăm phải về biểu tên nầy tên kia lo ăn năn trở lại. Mà những kẻ nghịch tặc, khi nghe tin người đau nặng, liền động lòng chạy đến khóc lóc, lạy lục, xin người thứ tha sự lỗi, rồi quì gối đọc kinh cầu nguyện. Nói sao xiết sự vui trong linh hồn người khi thấy chiên lạc trở về ràn! sự vui khoái mừng rỡ nầy làm cho người quên đau đớn trong chứng bịnh, mà cám ơn Chúa hết lòng.

Có một tên kia bấy lâu quen thói vui lỗ miệng, mà nằm đàng nằm sá, người an ủi, khuyên lơn, dỗ dành, la rầy, quở trách, cũng không hề chịu nghe lời mà chừa tính xấu; nay thấy cha bịnh nặng, cửu tử nhứt sanh, nghe các thầy chạy hết, thì chạnh lòng toàn phương cứu giúp cha, vì mình cũng thuộc lãm nghề làm thuốc. Vậy tên ấy đến ra măt, xin tuần mạch. Cha dùng dịp sau hết nầy mà chữa tật khốn nạn nó. Vậy người nói cùng nó, biểu phải kiêng cử, lo chừa nết xấu đủ một tháng, không còn rượu chè nữa, người mới chịu nó làm thuốc cứu người. Tên ấy hứa chịu sửa mình, người mới cho phép bắt mạch.

Nay cha đã khoản rồi, mà tên nầy có giữ lời đã hứa cùng người trong kỳ mạng một ấy hay chăng? Xin vì công nghiệp cha và lời cha khẩn cầu nguyện giúp cho người nầy cùng những kẻ khác đã nghe lời cha dạy bảo mà trở lại cùng Chúa, đặng bền chí nhớ và giữ mọi đều cha đã trối cho đến mãn đời, hầu sau đặng gặp cha lại trên trời.

Từ ngày người thọ binh phen sau hết nầy, thì có cha Philípphe Sau, là em người, đến giúp người luôn ngày luôn đêm; dầu có kẻ chực sẵn mà lo mọi sự, thì cha Philípphê cũng chẳng hề lấy làm đủ, chính mình người lo lắng, mới an dạ phỉ tình, trông chịu khó với anh, hoặc may Chúa thương để anh ở lại thêm ít lâu ở đời nầy.

Không phải một mình người ước ao thế ấy, các anh em thầy cả, những nhà tu đã mang ơn người giúp đỡ dạy dỗ bấy lâu, con cái người trong họ Gia Định, bổn đạo các họ khác đã quen biết, đã nhờ nhỏi ơn người, cũng đồng tình áo bão thương tiếc, và ước ao cho người đặng mạnh lại mà sống thêm, nên đâu đó rập một lòng mà cầu khẩn kêu nài cùng Chúa, chỗ thì đọc kinh lần hột chung, người thì kêu xin riêng, nhiều nơi làm việc cửu nhựt cầu cùng Rất thánh Trái Tim, cùng Đức Mẹ cho người đặng thuyên bịnh.

Cha thì kính mến Chúa, khao khát cho đến giờ khám xác người rã ra, để linh hồn bay lên hiệp cùng Chúa, nhưng bỡi thấy xung quanh mình ai nấy gắn vó níu cầm, thì khó nỗi liệu. Người phải lưỡng lự như thánh Phaolồ xưa: Rày Chúa Khirixitô sẽ đặng sáng danh trong xác thầy, cũng như mọi khi, dầu cho thầy sống, dầu cho thầy chết cũng vậy. Vì sống cho thầy là Chúa Khirixitô, mà chết là phần lợi. Nếu thầy ở lại trong xác mà sống thêm, mà sinh đặng phần ích bỡi công việc thầy làm, thì thầy cũng chẳng biết phải chọn phần nào. Cả hai bên đều thúc hối thầy cả hai, bên thì thầy náo nức thoát khỏi xác nầy mà ở cùng Chúa Khirixitô, vì đó là phần nhứt cho thầy; bên thì lại muốn ở lại trong xác, vì phần ấy cần cho anh em hơn. (PHIL., 1, 20 et se 99.) Mà người không nói thêm đặng như thánh bổn mạng người: Mà thầy có ý tin cậy, biết thầy sẽ nán lại và ở với anh em hết thảy dài ngày, cho anh em đặng tấn ích, cho anh em đặng vui mừng trong đức tin, ngõ cho lòng anh em đặng khoái lạc tràn trề trong Chúa Khirixitô, vì thầy, khi thầy sẽ trở về cùng anh em , vì người biết sức trong mình đã mòn hao, cầm không đậu, và các kẻ làu thông chuyện bịnh hoạn không trông thuốc nào cứu đặng. Vì vậy người phú mình theo ý Chúa, vui lòng tế lễ mạng sống mình cho Chúa, cũng như đã tế lễ sự mạnh khỏe mình bấy lâu nay; để mặc ý Chúa phân định.

Hằng ngày người chịu Mình Thánh Chúa, dầu đã mệt mỏi hết sức, cũng rán chỗi dậy mà rước Chúa, tỏ lòng tin kính sốt sắng tốt lạ. Mà lần lần người không còn sức mà nuốt trót hình bánh nhỏ, phải trao cho người phân nửa mà thôi; sau hết còn phải bẻ tư ra, mà trao cho người một góc tư hình bánh, người mới có sức nuốt được.

Khi người biết không lẽ qua khỏi đặng, thì người nói cùng của Philipphê rằng: “Thôi em, không còn trông gì nữa... Em về lấy bộ đồ tím đem qua cho sẵn... hãy phú mọi sự trong tay Chúa... em chớ buồn rầu, chớ cầm anh lại làm chi... Anh biết, khi anh chết rồi, em cực lắm...” Người và nói và rưng rưng nước mắt. Đoạn người ở lặng, thầm thì kêu xin cho đặng vưng theo ý Chúa.

Ngày mồng 3 Juillet; bịnh trở nặng, nên đã làm phép xức dầu thánh cho người, qua ngày sau người chịu Viatico bỡi tay em người.

Đoạn bịnh lại huỡn, chẳng thúc nhặt... Trong lúc các cha An Nam cấm phòng, thì người xem ra đủ sức và tiếp trước anh em đến viếng thăm, và cũng nói chuyện vãn thong thả, chẳng phải đuối sức. Nên có kẻ trộm tưởng phen nầy người cũng số còn sống thêm đặng, nên thêm cầu nguyện và trông Đ C Bà thành Lourdes cho người, ngày chót tại Hội Thánh Thể tại thành ấy. Song người khác nào một đèn đã hết dầu, tim đang cháy lụn, một hai giây phút tỏ ngọn hơn, đoạn lại bớt sáng.

Mấy ngày sau hết, người bị nhiều cữ rét nặng. Mỗi lần, người thầm thì kêu: “Ớ Mẹ ôi! ớ Mẹ, xin giúp con !...” Ghe phen người đưa tay lên, như muốn ôm lấy vật gì vậy.

Qua tối mồng 1 Aout, người làm xung một phen sau hết: xác phải đau đớn nhức nhối mệt mỏi lắm, mà trí người hằng tỉnh táo luôn, mỗi lần kêu Chúa, người đều nghe tỏ và gặc đầu. Chính mình người biểu đọc kinh dõi và kinh đưa. Đoạn người cúi đầu xuống, rồi mở con mắt trực chỉ lên trời mà thở dài, cách chừng một khắc đồng hồ thì linh hồn lìa xác cách êm ái, như người nằm ngủ quên vậy. Khi ấy là 9 giờ rưỡi, tối mồng 1 Aoùt.

Bấy lâu người đã trông đợi cha bề trên Thi về rước người đi: có lễ tưởng người đã đặng như lòng mơ ước trong mười bảy năm, vì còn thiếu chừng bẩy giờ mà thôi, thì trúng ngày, trúng giờ cha bề trên Thi đã chết mười bảy năm trước. Trông rày cha con yêu dấu gặp nhau lại trong sự vui vẻ và vinh hiển Chúa, và bầu bạn cùng nhau đời đời.

Cả ngày Chúa nhựt, 2 Aoùt, bổn đạo xa gần, (vì dịp đi viếng Nhà thờ Nhà Phước Kín mà nhờ đại xá,) hay tin cha Phaolồ qua đời, thì tuôn đến Nhà trường mà cầu lễ cho người, nhứt là bổn đạo Gia Định, là con chiên của người..

Chẳng cần phải nói tình thương tiếc ai nấy đều tỏ ra khi đặng tin phiền não nầy, vì trong cả và địa phận ta, chẳng có họ nào mà bổn đạo chẳng biết danh cha Phaolồ, mà chẳng cảm mến, kính trọng công nghiệp và nhơn đức người. Chẳng những một Địa phận nầy, mà mấy Địa phận xung quanh cũng tỏ lòng mến yêu thương tiếc. - Trong giấy tờ người để lại, thì gặp mấy chữ Đức Cha Đamiano, trị Địa phận Bình Định, đã gởi cho ngtrời, tỏ lòng áo não, vì nghe tin người liệt nặng, và chúc cho người đặng chết bằng an trong ơn nghĩa Chúa, lại xin người “khi về cùng Chúa, thì giúp lời cầu nguyện cho các linh mục mình và cho Đức Cha nữa”. (Em cha Phaolồ hết tình cảm đội ơn Đức Cha, vì lòng lân mẫn đã khấng nhớ và tỏ lòng yêu chuộng anh mình dường ấy.)

Bổn đạo Gia Định muốn đền ơn trả thảo mà giữ xác cha mình lại trong nhà thờ họ, cho gần gũi con cái, và đi xin Đức Cha ban phép. Song bỡi trước khi qua đời, cha đã xin cùng Đức Cha để người nằm chung với anh em thầy cả bổn quốc trong đất thánh gần nhà thờ Môi Khôi, tại Chí Hoà, nên Đức Cha phải cứ theo ý cha đã trối. Một ban phép cho bổn đạo, chiều Chúa nhựt, rước xác cha về trong họ, mà giữ trong nhà thờ cho đến khi mai táng, bổn đạo phải vưng.

Việc rước xác, đưa xác cha, đã có cha Phanxicô Xavie doãn lại trong "Nam Kỳ Địa Phận", số 292, ngày 20 Aoùt trước đây.

Đã hẳn chép hạnh cha Phaolồ là việc lớn lao, dầu tôi biết mình ít sức, lại kém giờ ngày, khó thể hỏi han, hầu kể lại mọi điều cho xứng đáng, nhưng vậy tôi đã cả lòng lãnh việc ấy, mà đền ơn trả thảo cho cha yêu dấu. Xin những kẻ quen biết và thiết nghĩa dong tình, khi thấy tôi bỏ sót nhiều đều phải kể lại mà không nói tới; những kẻ ấy thuộc tánh hạnh cha, rõ tâm tình cha hơn tôi, thì xin nhiêu thứ, vì tôi chẳng nói lại đều gì mà kẻ ấy chẳng biết tường tận trước, chỉ biên ký lại một hai chút để nhớ đời, và cho những kẻ chẳng quen lớn đặng hẳn, cũng có ý cho kẻ hậu sanh, ai xem được, có lẽ sinh lòng ái mộ bắt chước mà kính mến Chúa và nói gương cha mà tấn tới trong đàng lành. Vì chưng tuy cha ở bực cao cả về đấng tế lễ Chúa, nhưng mà trong việc cha làm, thì ai nấy cũng noi theo được mà học đòi bắt chước. Vốn cha chẳng làm sự gì lạ, chỉ làm những việc thường như kẻ khác, công nghiệp cha là tại làm việc thường mà làm một cách chẳng thường, một cách tốt lạ, bỡi lòng mến Chúa, làm vì ý siêu tính, theo đức tin, cho nên dầu việc nhỏ mọn cũng nên quí giá trước mặt Chúa, cũng làm cho người đặng thêm đẹp lòng Chúa nhiều, làm cho người tấn tới trong sự trọn lành dài bước; về sự ấy bất luận ai, trong đấng bực nào, cũng đều bắt chước đặng,

Ớ cha yêu dấu, cha đã đấu chiến trận lành, cha đã đi trót cùng đàng thánh, cha đã nắm giữ đức tin toàn hảo, rày Chúa đoán xét công bình đã đem cha về quê thật, mà ban cho cha mũ triều công chính đã dành để cho cha. Xin cha ngõ lời nguyện xin cùng Chúa cho đất Nam Kỳ nầy đâu đó đều đặng nhờ yếng sáng lời Evang, mà trót nên ràn chiên Chúa, chẳng còn một ai phục tùng luật phép ma quỉ; xin cho kẻ ngủ quên trong đàng tội lỗi, đặng giật mình thức dậy, hối cải ăn năn, sửa mình, đền tội; xin cho kẻ lành đặng thêm sốt sắng một ngày một hơn, và bền đỗ đến cùng; xin cho những linh hồn cha đã mến yêu, dạy dỗ, ủi an, xem sóc, đặng nhớ lời cha nhủ bảo mà giữ mọi đều cần mẫn trung tín chẳng khuây; xin cho các nhà viện tu đặng thêm đông số và thêm sốt sắng đua tranh trong đàng trọn lành; xin cho hai họ cha đã chăn giữ đặng cứ mẹo mực cha đã giảng truyền; xin cho Hội Trái Tim, là út của cha, đặng lớn lên, đặng thêm sức mà an ủi lòng Chúa; xin cho Nhà trường Latinh đặng nên như cây trồng theo dòng nước, sai trái, cho các trẻ đông đảo trong chốn thánh ấy theo ngõ cha đã đi, mà luyện tập các nhơn đức cần kíp, hầu mai sau nên thầy cả thánh nối nghiệp cha; xin cha cho đất Mỹ Tho đặng đượm nhuần ơn thánh, trổ sinh nhiều bông trái tốt, làm sáng danh Chúa, đặng chúa chọn vào nhà Chúa mà làm của lễ thanh sạch đẹp đẽ; xin cho các em cha trong chức thánh, một quê Định Tường, đặng theo bén gót anh cả, làm kiệt lực trong vườn nho Chúa; sau hết xin cho con mọn đặng chạy theo mùi thơm nhơn đức cha, Obsecro, ut fiat in me duplex spiritus tuus, cho con biết kính mến Chúa và nhen lửa kính mến trong lòng kẻ khác, cho con biết đi và chỉ đàng trọn lành cho những linh hồn Chúa đã chuộc lại, cho con biết chết cho mình và làm cho kẻ khác đặng sống trong Chúa. Amen.

(hết)

Mátthêu Đức.

.Báo Nam Kỳ Địa Phận năm 1914

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét