MỐI QUAN HỆ CỦA HỌC GIẢ TRƯƠNG VĨNH KÝ
VỚI TRIỀU ĐÌNH HUẾ VÀ TỔNG TRÚ SỨ PAUL BERT
Trương Vĩnh Ký là một trong những học giả tiên phong
và kiệt xuất của nền văn học viết bằng chữ quốc ngữ vào thời kỳ đầu Pháp thuộc,
cách nay hơn 150 năm. Năm 1869, ông là người Việt Nam đầu tiên lãnh trách nhiệm
quản lý tờ báo Việt ngữ đầu tiên trong lịch sử báo chí của nước ta, tờ Gia Định
Báo. Trong sự nghiệp học thuật của mình, ông đã biên soạn hơn 100 tác phẩm, chủ
yếu bằng Việt ngữ, với nhiều thể loại khác nhau, là một di sản quý báu đến nay
vẫn còn giá trị.
Bài viết này xuất hiện trên Facebook cách đây đúng 5
năm, khi ấy số bạn bè trên trang này chưa nhiều, mặt khác trong mấy năm gần
đây, các vấn đề liên quan đến học giả Trương Vĩnh Ký vẫn còn được tiếp tục trao
đổi, thảo luận, tranh luận sôi nổi trên sách báo, trên mạng xã hội. Nhận thấy
câu chuyện vẫn chưa mất thời gian tính, xin giới thiệu lại với các bạn bài viết
khá dài nhắm vào 3 chi tiết chính:
- Thực chất chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi 1876 của
Trương Vĩnh Ký là gì?
- Mối quan hệ giữa Trương Vĩnh Ký với vua Đồng Khánh
và triều đình Huế
- Mối quan hệ giữa Trương Vĩnh Ký và Paul Bert, Tổng
trú sứ Trung và Bắc Kỳ, vào thập niên 1880
Trân trọng
I) TRƯƠNG VĨNH KÝ VÀ CHUYẾN ĐI BẮC KỲ NĂM ẤT HỢI 1876
Nói đến khả năng về ngoại ngữ của Trương Vĩnh Ký, có
thể viện dẫn sau đây mấy dòng hồi ký của một du khách người Anh là J. Thomson,
trong tác phẩm nhan đề “10 năm du hành ở Trung Quốc và Đông Dương”, được trích
dẫn trong tác phẩm “Un savant et un patriote cochinchinois – Petrus J.B.
Trương-Vĩnh-Ký (1837-1898)” của Jean Bouchot – Editions Nguyễn Văn Của- Saigon-1927:
“Vốn là một giáo dân Nam kỳ và là giáo sư dạy tiếng mẹ
đẻ của ông tại Trường Thông ngôn Sài Gòn, ông Petrousky (Petrus Ký-LN) là một
ngoại lệ đáng lưu ý trong số những người bản xứ mà tôi vừa giới thiệu cùng bạn
đọc. Ông từng theo học tại trường dòng Penang và tôi không bao giờ quên nỗi
kinh ngạc khi được giới thiệu với ông. Ông nói chuyện với tôi bằng một thứ tiếng
Anh rất vững, với một cách nhấn nhẹ nhàng của người Pháp, còn với tiếng Pháp,
ông diễn tả không kém phần trong sáng và lịch sự. Tiếng Y Pha Nho, Bồ Đào Nha,
Ý, ông cũng quen thuộc như những ngôn ngữ phương Đông; chính nhờ sự hiểu biết đặc
biệt này mà ông đang nắm giữ một địa vị cao. Một ngày nọ đến thăm ông, tôi nhìn
thấy ông đang viết quyển Phân tích, đối chiếu các thứ tiếng chủ yếu trên thế giới,
tác phẩm mà ông đã phải bỏ ra 10 năm lao động miệt mài…” (J. Bouchot, sđd,
trang 43)
Nhờ sự uyên bác ấy mà vào năm 1863, Trương Vĩnh Ký được
tháp tùng phái bộ Phan Thanh Giản trong chuyến đi sứ sang Pháp (*) và quen biết
với nhiều nhân vật nổi tiếng tại châu Âu lúc bấy giờ như Victor Hugo, Ernest
Renan, Littré, Paul Bert…
Trong những thập niên 1860-1870, ngoài tư cách là người
phụ trách tờ Gia Định Báo (từ 16.9.1869), Trương Vĩnh Ký còn giữ nhiều trách vụ
khác như: thông ngôn của Soái phủ Nam kỳ, giáo sư trường thông ngôn (Collège
des Interprètes), giáo sư trường Tham biện hậu bổ (Collège des Stagiaires), được
Pháp phong ngạch trật Huyện hạng nhất vào năm 1872.
Trong thời gian cộng tác với Pháp, Trương Vĩnh Ký đã
thực hiện hai cuộc Bắc hành (theo nghĩa đi về phía Bắc Sài Gòn), vào những năm
1876 và 1886. Chuyến thứ nhất được kể lại trong tập hồi ký bằng tiếng Việt, bìa
in ba thứ tiếng: Pháp (Voyage au Tonkin en 1876), Việt (Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất
Hợi (1876) và Hoa. Chuyến thứ hai đánh dấu bằng nhiều thư từ trao đổi giữa
Trương Vĩnh Ký và một nhân vật quan trọng bậc nhất của Pháp tại Việt Nam lúc bấy
giờ là Tổng Trú sứ Paul Bert.
Vấn đề đặt ra cho những người tìm hiểu các chuyến đi
quan trọng này của nhà học giả là mục tiêu chính của chúng ra sao? Tại trang đầu
tiên của tác phẩm Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi, người ta đọc thấy: ”Năm Ất Hợi,
bãi trường tham biện vừa xong, vùng tính đi ra Bắc chơi một chuyến cho biết.
Trong bụng muốn cũng đã lâu; nên xin với quan trên (đây ám chỉ thực dân
Pháp-LN), nhơn diệp (sic) chiếc tàu Duchaffaud đi mà đi. Về sấm (sic) hòm rương
áo quần. Rủ thầy ba Hớn với ông sáu Thìn, nguyên một người ở tỉnh Bắc Ninh, một
người ở Sơn Tây mà vào trong Nam kỳ đã lâu, đi theo trước là cho có bạn, sau nữa
là cho họ về thăm quê quán….”
Như vậy theo tinh thần đoạn mở đầu, Trương Vĩnh Ký thực
hiện chuyến Bắc hành lần thứ nhất nhằm “chơi một chuyến cho biết”, nói chung là
một chuyến du hành “phi chính trị”. Đến miền Bắc, ông đi nhiều nơi, từ Hà Nội,
Hải Phòng đến Hải Dương, Thanh Hóa…Ở đâu, ông cũng được tiếp đón một cách trọng
thị. Các công sứ Pháp và các đại thần như Tổng đốc Hà Nội Trần Đình Túc, Tổng đốc
Hải Dương Phạm Phú Thứ, Tuần phủ Nguyễn Tăng Doãn …đã dành cho ông những cuộc hội
kiến thú vị.
Tuy nhiên, qua những gì diễn ra trong và sau chuyến
đi, nhiều người tin rằng đó không phải là một chuyến du hành suông. Pétrus Ký
được hưởng lương trong suốt thời gian 3 tháng du hành và khi về, ông đã lập một
báo cáo chi tiết dài 8 trang đề ngày 28.4.1876 gửi Thống Đốc Nam kỳ Duperré (về
Pháp từ tháng 2 đến tháng 7.1876) thông qua viên Tham mưu trưởng Regnault de
Premesnil.
Báo cáo của học giả họ Trương mở đầu bằng câu: “Tôi
hân hạnh gửi đến ông bản báo cáo mà ông đã yêu cầu ở tôi về tình hình chính trị
Bắc kỳ, nơi tôi vừa đến thăm..” (Jean Bouchot-Sđd-trang 34). Sau đó, Trương
Vĩnh Ký trình bày một cách thật chi tiết hành trình của ông trong ba tháng ở miền
Bắc, những nơi ông đã đến, những người ông đã gặp, trong đó có đoạn viết:”Các
quan lại thường hỏi tôi xem nước Pháp có ý định xâm chiếm xứ sở này không. Tôi
đã trả lời rằng không và tôi đã dựa điều tôi nói vào thỏa ước hòa bình và
thương mại, vào những lợi ích mà họ (người Pháp-LN) đảm bảo cho An Nam….” (Jean
Bouchot-Sđd – trang 39).
Nhiều chi tiết khác nữa cho thấy báo cáo ngày
28.4.1876 không phải là câu chuyện kể của một du khách độc lập, mà là bản tường
trình của một viên chức chính quyền cho cấp trên về một số vấn đề chính trị. Điều
này được chính Jean Bouchot thừa nhận trong tác phẩm dẫn trên, nhất là khi ông
liệt kê những gì liên quan đến một Trương Vĩnh Ký có mối quan hệ chặt chẽ với
nhà nước thuộc địa: năm 1872 được phong Huyện hạng nhất với mức lương 2.400
franc/năm, phụ trách các lớp dạy ngôn ngữ Đông phương với mức lương 9.000
franc, được bổ nhiệm làm thành viên Ủy ban tối cao giáo dục….
II) TRƯƠNG VĨNH KÝ VỚI PAUL BERT VÀ TRIỀU ĐÌNH HUẾ
Chuyến Bắc hành lần thứ hai của Trương Vĩnh Ký có liên
quan đến một nhân vật cao cấp của chính quyền thực dân mà ông đã gặp trong chuyến
tháp tùng sứ bộ Phan Thanh Giản năm 1863. Đó là Paul Bert, người từng giữ chức
vụ Bộ trưởng trong chính phủ Pháp.
Ngày 27.1.1886, Tổng thống Pháp ban hành sắc lệnh
thành lập chế độ bảo hộ ở Trung và Bắc kỳ, và bốn ngày sau, đề cử Paul Bert làm
Tổng Trú sứ (Résident général) hai miền này. Nhân vật này sinh ngày 17.10 1838
tại Auxerre (Pháp), là nhà sinh vật học, môn sinh của nhà bác học Claude
Bernard, đến năm 1868, đã thay chân Bernard tại Collège de France.
Vào thời đó, Paul Bert đã là tác giả các công trình
nghiên cứu về ghép cơ thể loài vật, về thuốc mê…Sau năm 1870, trong lúc vẫn tiếp
tục việc nghiên cứu khoa học, ông ta bước vào chính trường, làm đại biểu Quốc Hội
năm 1872, Bộ trưởng giáo dục vào những năm 1881-1882 .
Paul Bert đến Sài Gòn vào tháng 2 năm 1886, và người
Việt Nam đầu tiên mà ông ta nghĩ đến là Trương Vĩnh Ký. Hai bên trao đổi thư từ
với nhau, sau đó Paul Bert đến thăm gia đình nhà học giả Việt Nam. Ngày
8.4.1886, ông ta trở ra miền Bắc, thực sự nhận nhiệm vụ Tổng Trú sứ Bắc và
Trung kỳ.
Tuy khoảng thời gian ở Việt Nam thật ngắn ngủi, nhưng
Paul Bert đã miệt mài làm việc, thực hiện được nhiều điều trong cương vị đầy
khó khăn của mình. Ông ta thành lập các tòa công sứ (hay tòa trú sứ), một hệ thống
tổ chức mới mẻ, giúp củng cố chế độ cai trị ở cấp tỉnh, thành.
Nhờ một hệ thống thuế quan khéo léo, ông ta du nhập
vào Bắc kỳ nhiều sản phẩm từ chính quốc (Pháp) mà không làm rối loạn thói quen
sử dụng hàng châu Á của người bản xứ. Các mỏ than, đường sắt, việc vận tải đường
sông nhờ có Paul Bert mà trở nên nhộn nhịp hẳn lên. Ông ta đặc biệt chú trọng đến
việc giáo dục, đích thân giám sát các kỳ thi…
Đối với triều đình Huế, Paul Bert áp dụng chế độ bảo hộ
thực sự, để cho triều đình có một sự tự do rộng rải để hoạt động, từ chối việc
đặt một viên đại diện chính phủ Pháp tại Viện Cơ mật. Ngày 10.6.1886, thể theo
yêu cầu của ông ta, vua Đồng Khánh phải chia sẻ quyền hành cho một viên kinh lược
tại Bắc kỳ. Người đầu tiên đảm trách chức vụ này là Nguyễn Hữu Độ. Để đảm bảo
hơn nữa sự hữu hiệu trong chính sách của mình, Paul Bert muốn đặt hẳn một người
Việt Nam thân tín với ông ta tại triều đình Huế. Người này sẽ theo sát mọi hoạt
động của nhà vua, giúp đỡ nhà vua, theo cách mà chính quyền thực dân muốn. Tất
nhiên là với Paul Bert, người này không ai khác hơn Trương Vĩnh Ký.
Cần xác định rõ là vào thời kỳ Paul Bert đến Việt Nam
(đầu năm 1886), trong bộ máy cai trị của Pháp, có hai chức danh không thống thuộc
nhau, cho dù không ngang nhau về mặt hệ cấp. Đó là chức danh Thống đốc Nam kỳ
(Gouverneur de la Cochinchine) và chức danh Tổng trú sứ Trung và Bắc kỳ, hay
còn gọi là Toàn quyền Lưỡng kỳ (Résident général du Tonkin et de l’Annam). Viên
Tổng trú sứ chịu trách nhiệm việc cai trị Trung và Bắc kỳ, còn viên Thống đốc
chịu trách nhiệm riêng thuộc địa Nam kỳ.
Chỉ đến ngày 16.11.1887, sau khi Constans đến Việt Nam
nhậm chức Toàn quyền Đông dương đầu tiên thì sự chỉ huy thống nhất ba miền
Nam-Trung-Bắc mới thực sự nằm trong tay viên Toàn quyền. Chính vì thế, trong thời
gian còn ở Sài Gòn, chờ ra Bắc nhậm chức Tổng Trú sứ Bắc và Trung kỳ (dưới đây
gọi tắt là Tổng trú sứ), Paul Bert phải đạt được sự thỏa thuận của Soái phủ Nam
kỳ trong việc tạm sử dụng Trương Vĩnh Ký cho kế hoạch mà ông ta đã vạch ra. Điều
này gần như chỉ có tính hình thức, bởi vì quyền lợi của bọn thực dân thì ở đâu
cũng vậy, miễn là có lợi cho họ.
Ngày 22.3.1886, Paul Bert gửi cho Trương Vĩnh Ký một
lá thư nêu rõ hai việc:
- nhờ họ Trương lập danh sách những người có khả năng
thông dịch tốt để sau này bố trí cạnh các tòa công sứ của ông ta;
- mời vợ con Trương Vĩnh Ký cùng đi với ông (và Paul
Bert) ra Huế.
Năm ngày sau (27.3), họ Trương phúc đáp cho Paul Bert,
nêu rõ việc đã lập xong danh sách thông ngôn và nêu lý do vợ con không thể tháp
tùng ông được (Jean Bouchot-Pétrus J.B.Trương-Vỉnh-Ký (1837-1698) -trang 54-56).
Trong thư, Trương Vĩnh Ký có viết câu:”…tôi sẵn lòng đi với ông cùng vài thân hữu
đáng tin cậy, trong một sứ mạng tạm thời để rồi sau đó, âm thầm quay lại nghề
Nho, như ông Cincinnatus đã quay lại với cái cày của ông ta vậy…” (Sđd-trang
56)
Những ngày đầu tháng 4 năm 1886, Paul Bert và Trương
Vĩnh Ký đã có mặt ở Huế. Chính sử triều Nguyễn viết về sự kiện này như sau: ”Đại
thần nước Đại Pháp là Bôn Be sang làm toàn quyền đại thần. Viện Cơ mật tâu nói:
Tục các nước phương Đông, phương Tây, phần nhiều vụ lấy danh tiếng; cho nên các
bậc sĩ phu học rộng, đi đến nước nào, phàm được dự tuyển vào địa vị thanh cao
trọng yếu, thì lấy làm vẻ vang….Vua bèn chuẩn cho tôn toàn quyền đại thần Bôn
Be làm Hàn lâm viện trực học sĩ, và ẩn sĩ trong Nam là Trương Vĩnh Ký (người
Gia Định đi theo Toàn quyền đến) làm Hàn lâm viện thị giảng học sĩ…” (Đai Nam
thực lục chính biên-tập XXXVII-NXB Khoa học Xã hội-Hà Nội-1977- trang 147-148).
Xét về mặt phẩm cấp, chức danh Trực học sĩ của Paul
Bert cũng chỉ vào hàng chánh tam phẩm, trong khi theo qui định của thực dân
Pháp, chỉ riêng viên Khâm sứ Huế (địa vị nhỏ hơn Tổng Trú sứ Bắc và Trung kỳ)
đã xếp ngang Thượng thư, trật Chánh nhị phẩm rồi. Còn chức danh của Trương Vĩnh
Ký cũng chỉ ở vào hàng tòng tứ phẩm.
Sau khi để Trương Vĩnh Ký ở lại Huế, Paul Bert ra Bắc
và chính thức nhậm chức vào ngày 12.4.1886. Điều mà chúng ta cần tìm hiểu là
nhà học giả họ Trương đã nhận những nhiệm vụ gì của Paul Bert trong thời gian ở
Huế. Trước tiên có thể khẳng định rằng cho dù chỉ là một quan lại hạng trung,
nhưng với tư cách một người thừa ủy nhiệm của Tổng trú sứ Pháp, Trương Vĩnh Ký
được vua Đồng Khánh đối xử hậu hơn nhiều so với những bạn đồng liêu cùng cấp.
Trong thời gian ở Huế, vị học giả Việt vẫn thường
xuyên trao đổi thư từ với Paul Bert. Nội dung bức thư đề ngày 17.6.1886 của
Trương Vĩnh Ký hé lộ đôi điều về những việc Paul Bert muốn ông thực hiện. Thư
có đoạn viết:” Hiện nay tôi đã đỡ (bệnh) rồi, tôi ở lại đây; tôi sẽ nghiên cứu
người và việc, làm thế nào để khi nhà vua trở về, chúng ta có thể bước vào giai
đoạn tổ chức và thực hiện những chuyển đổi cần thiết, với một nhân sự xứng tầm
với nhiệm vụ. Tôi sẽ loại bỏ tất cả những kẻ được sủng ái và sẽ giúp nhà vua sắp
xếp Viện Cơ mật với những người thực sự có năng lực….
“Tái bút: Nhà vua đã đi sáng nay. Các ông Touté và
Halais đến trễ vài giờ, sẽ cùng với ông Pène đi gặp nhà vua vào tối nay, lúc
trăng lên….” (Jean Bouchot-Sđd-trang 61-62).
Rõ ràng là một trong những việc quan trọng mà Paul
Bert muốn Trương Vĩnh Ký giúp ông ta thực hiện là cải tổ sâu rộng thành phần
nhân sự của triều đình Huế. Việc này thành hay bại và ảnh hưởng ra sao, sẽ đề cập
đến ở phần cuối bài này. Tuy nhiên, qua nội dung bức thư, có thể thấy là vua Đồng
Khánh đã rời kinh đô đi Quảng Bình ngày 17.6.1886, đúng vào ngày 16 tháng 5 âm
lịch như bộ Quốc triều chánh biên đã ghi (Sđd-trang 422) để kêu gọi vua Hàm
Nghi quay về và các tổ chức nghĩa quân giải thể.
Điều cũng khá rõ là trong lúc nhà vua xuất hành thì
Trương Vĩnh Ký ở lại triều nội. Ngày 29.6.1886, Paul Bert viết cho Trương Vĩnh
Ký một lá thư thật dài kể lể về chuyện đạo Thiên chúa tại Việt Nam, đồng thời
cũng dành một đoạn để biện minh cho chủ nghĩa thực dân và trong phần cuối, đã
nhờ vị học giả “phủ dụ” giới nho sĩ Cần vương đừng chống lại “nhà nước Đại
Pháp”:
”Để tóm tắt lá thư thật dài này, tôi muốn nhờ ông làm
cho những bằng hữu theo Nho học, những nho sĩ tài năng của Việt Nam biết rằng
trong việc thi hành hòa ước, họ không phải sợ mất đi phẩm cách, tự do, quyền lợi.
Thay vì chạy vào rừng kích động những nông dân nghèo tự giết nhau và phá hoại,
họ nên hợp tác với tôi vì sự thịnh vượng của xứ sở họ”. (J. Bouchot Sđd-trang
67).
Như vậy, Paul Bert cũng muốn Trương Vĩnh Ký phủ dụ các
nhân sĩ yêu nước đang theo phong trào Cần vương kháng Pháp. Ngày hôm sau,
30.6.1886, ông ta lại gửi tiếp cho học giả họ Trương một lá thư ngắn nêu
rõ:”Tôi buộc lòng phải nhờ ông đặc biệt chăm sóc việc học cho Ngự đệ (không rõ
là ai –LN). Tuyệt đối phải dạy ông ta học chữ Pháp. À, phải chi ông có thể
khuyên nhà vua cũng làm như thế nhỉ (học tiếng Pháp – LN). Liệu ông có thể nói
trực tiếp với Ngài được không…” (J. Bouchot-Sđd-trang 67).
Như vậy, có thể tóm lược sứ mạng mà Paul Bert giao cho
Trương Vĩnh Ký có ít nhất ba điểm quan trọng:
- Cải tổ bộ máy nhân sự của triều đình Huế, có lẽ theo
thâm ý của Paul Bert là đưa những kẻ chủ hòa lên thay những quan lại “chủ chiến”.
- Chiêu dụ giới nhân sĩ đang hoạt động trong phong
trào Cần vương.
- Dạy cho vua Đồng Khánh và em trai học chữ Pháp.
Trong lúc tại Huế, Trương Vĩnh Ký thu phục được cảm
tình của vua Đồng Khánh thì ở Hà Nội, Paul Bert cũng cải tổ sâu rộng bộ máy thuộc
địa. Sự làm việc năng nổ tác hại lên sức khỏe ông ta. Trong một chuyến đi vượt
đèo Hải Vân cùng với viên Chánh văn phòng là Klobukowski (sau này làm Toàn quyền
Đông Dương –1908-1910) và vài người khác nữa, ông ta đã bắt đầu mang mầm bệnh sốt
rét.
Trở về Hà Nội, ông ta vẫn lao vào công việc: đi thăm
chùa Quảng Đông, nhận lời mời của quan Kinh lược, cùng nhiều việc khác nữa. Bác
sĩ Grall (**) nhiều lần khuyên ông ta phải giữ gìn sức khỏe, nhưng xem ra lời
khuyên này không có mấy tác dụng. Hai ngày sau khi đến nhà Kinh lược sứ Nguyễn
Hữu Độ, Paul Bert lại đi Kẻ Sở, sau đó về Nam Định, chủ trì kỳ thi Hương. Lần
này bệnh trở nặng khiến ông ta phải tức tốc quay lại Hà Nội, ra lệnh cho
Klobukowski gửi điện tín về Pháp, yêu cầu Bộ thuộc địa cử người kế nhiệm.
Ngày 11.11.1886, Paul Bert thở hơi cuối cùng, có người
thân đứng vây quanh. Ông ta chỉ làm Tổng Trú sứ hơn 6 tháng, nhưng những gì ông
ta làm được đã khiến cho nhiều người nhớ tới. Tên ông ta được dùng đặt cho nhiều
con đường ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn…
Trước ngày Paul Bert tạ thế, Trương Vĩnh Ký đang nghỉ
phép tại Sài Gòn, ngày 4.11.1886 còn gửi cho viên Tổng Trú sứ một lá thư. Trước
đó khá lâu, ngày 27.9.1886, ông gửi cho vua Đồng Khánh một thư bày tỏ tình cảm
và không quên nhắc nhà vua “học chữ Đại Pháp”…Tiếng là về Sài Gòn để lo việc
gia đình và dưỡng bệnh, kỳ thực thông qua thư từ, Trương Vĩnh Ký để lộ tâm trạng
bất an trước thái độ của người chung quanh đối với ông, khi ông còn ở cạnh vua
Đồng Khánh. Điều này được Khổng Xuân Thu, tác giả quyển Trương Vĩnh Ký
1837-1898 (NXB Tân Việt – Sài Gòn –1958) phát hiện khi sưu tầm tư liệu tại Tổng
thư viện Pháp, trong đó có tài liệu của bác sĩ Léon Gautier, bạn thân của văn
hào Victor Hugo, viết về Trương Vĩnh Ký. Tài liệu này có đoạn đáng chú ý sau:
”Những năm về sau, tiên sinh trao đổi thư từ với các
nhà văn hóa Pháp càng thưa thớt dần, và chỉ toàn những lời bi quan, yếm thế,
hay nói cho đúng hơn, chỉ là những lời thanh minh, bày tỏ ẩn khuất, bất mãn của
mình mà thôi. Theo như dư luận của các nhà cầm quyền cho hay thì trong giai đoạn
sau này, Trương tiên sinh gặp nhiều trở ngại về đường chính trị của mình. Có
nhiều người dèm pha, muốn tranh giành địa vị của tiên sinh (khi được sung vào
Cơ Mật vụ giúp cho nhà vua An Nam – đây có ý nói vua Đồng Khánh đã hết sức sức
tin dùng Trương Vĩnh Ký). Hoặc giả cũng có kẻ cho rằng Trương tiên sinh không
trung thành với nước nhà….” (Khổng Xuân Thu – Sđd-trang 139).
Quả thật, có thể mấy tháng cộng tác với Paul Bert và
hiện diện ở Huế đã gây ra trong lòng vị học giả một cú sốc. Vì thế, cho dù vua
Đồng Khánh hết mực ưu ái, ban cho ông một bức thư dài (sau được con ông là
Trương Vĩnh Tống dịch ra thành 234 câu thơ), sau khi Paul Bert qua đời, ông cố
tình ở lại Sài Gòn, không ra Huế nữa, tiếp tục nghề dạy học cũ.
Theo Bouchot, từ năm 1890, Trương Vĩnh Ký gần như nghỉ
hẳn công việc chính quyền, chuyên tâm nghiên cứu, viết sách, ông dịch quyển tự
điển Littré, tác giả là một người quen biết cũ, đến chữ cheval thì qua đời
(1.9.1898). Bài Tuyệt mệnh thi của ông nói lên nỗi trăn trở của nhà học giả
trong những năm cuối đời, sau những đóng góp to lớn cho nền học quốc ngữ, đồng
thời trong mối quan hệ với thực dân Pháp, tiêu biểu là trường hợp Paul Bert kể
trên. Đọc hai câu cuối trong bài thơ tuyệt mệnh của tiên sinh, lòng người đọc
không khỏi bùi ngùi:
Cuốn
sổ bình sanh công với tội,
Tìm
nơi thẩm phán để thừa khai.
-Chú thích:
(*) Xin nhấn mạnh là Trương Vĩnh Ký (cùng Tôn Thọ Tường)
đi Pháp với tư cách một viên chức trong bộ máy thuộc địa của Pháp tháp tùng sứ
bộ Phan Thanh Giản chứ không phải là thành viên của sứ bộ như nhiều tác giả đã
lầm tưởng.
(**) Sau này được lấy tên đặt cho một bệnh viện ở Sài
Gòn (bệnh viện Grall), nay là bệnh viện Nhi đồng 2
24.11.2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét