An Phú Xã
Nói đến một địa danh là nói đến vô thường. Một vùng đất nào đó của quê hương luôn luôn biến đổi với thời gian. Tên và cảnh trí cũng như sinh hoạt, lịch sử, văn hóa của người dân sống nơi địa danh đó thay đổi không ngừng. Nếu không ghi lại thì địa danh ấy sẽ mất đi. Hậu thế khi nghe đến địa danh ấy không biết nó ở đâu và thế nào.Bài viết về An phú xã nầy ghi lại công lao khó nhọc của một số dân gốc Bình Định (Trung Kỳ) di cư vào Nam vào đầu thế kỷ thứ 19 để khẩn hoang. Trong số di dân nầy có dòng họ Nội, Ngoại của tác giả. Họ Ngoại vào Nam khai phá vùng Tân Phước Khánh (H. Tân Uyên). Giòng họ Nội ở An Phú Xã từ lúc vào Nam đến nay đã được 7 đời.
Vào thời ông tôi (đời thứ 5), cả hai họ nội-ngoại đều sống ở An Phú Xã. Vào thời ấy, An Phú Xã mang tên là „Làng Tuy An“, tên làng gốc ở Bình Định. An Phú Xã mà tác giả kể lại đây là An Phú Xã trong giai đoạn 1940 đến 1963. Năm 1963 tác giả nhập ngũ, đi lính cho đến năm 1975 và sau đó sống ở nước ngoài.
I. ĐỊA DƯ
Vị trí và địa thế
An Phú Xã là vùng đất cao, rừng rậm của tỉnh Bình Dương. Thuở xưa, vùng An Phú xã mang tên là Tuy An. Địa danh An Phú Xã chỉ có từ năm 1945 trở về sau.
An Phú xã thuộc quận Lái Thiêu (ngày nay là H. Thuận An) tỉnh Thủ Dầu Một (ngày nay là tỉnh Bình Dương). An Phú Xã giáp ranh:
- với Tân Phước Khánh (thuộc H. Tân Uyên) về phía bắc,
- với xã Bình Hòa (thuộc H. Thuận An) về phía nam
- với các xã Tân Bình và Tân Đông Hiệp (thuộc Q. Dĩ An) về phía đông,
- với các xã Thuận Giao và Bình Chuẩn (thuộc H. Thuận An) về phía tây.
An Phú Xã là vùng đất cao, gọi là đất gò, không có sông rạch hoặc ao, hồ, không có núi non. Mạch nước ở cách mặt đất hơn 10m. Toàn An Phú Xã là rừng rậm, cây to, loại cổ thụ của miền đông Nam Bộ. Rừng có nhiều thú dữ như cọp, beo, gấu.
Xã An Phú trong khu vực hai huyện Dĩ An và Thuận An
II.LỊCH SỬ & VĂN HÓA1/- Trước năm 1945, An Phú Xã vẫn còn là rừng rậm, dân cư thưa thớt, sống tập trung thành từng xóm nhỏ. Bà con hai họ nội, ngoại của tôi sống tập trung ở „Ngả Ba An Phú“ nới 2 trục giao thông từ Dĩ An và Lái Thiêu chạy về An Phú gặp nhau. Từ ngả ba An Phú chỉ có một con đường độc đạo chạy xuyên qua xã An Phú đến Tân Khánh về phía Bắc. Vào thời ấy, con đường độc đạo nầy là đường đất, có đoạn trải đá, nhỏ hẹp, vừa đủ cho hai chiếc xe ngựa chạy ngược chiều. Hồi xưa con đường nầy gọi là „truông An Phú“ vì nó chạy giữa rừng già đầy thú dữ và gian tặc. Nhưng người dân An Phú ai cũng biết võ nghệ (võ Tân Khánh hay võ Bình Định) nên không có ai sợ nguy hiểm cả. Ngày nay (1966) nó là tỉnh lộ 743 rộng lớn, tráng nhựa bằng phẳng, xe cộ chạy 2 chiều rất tấp nập.
2/- Dân chúng vào thời ấy sinh sống bằng nghề „làm rẫy trong rừng“ dùng những tàng cây to làm lọng che cho các loại che cho các loại cây nông nghiệp. Rẫy của ông Nội tôi cũng nằn giữa rừng già. Ông tôi trồng các loại nông phẩm sau đây:
- Hồ tiêu thả leo lên các cây rừng nhỏ,
- Thơm,
- Các loại đậu (đậu phộng, đậu xanh, đậu trắng, đậu đỏ, đậu đen),
- Khoai lang và khoai mì,
- Bắp và mía.
Xung quanh nhà có vườn cây ăn trái.
Ở An Phú xã không có măng cụt, sầu riêng, lôm chôm, trái dâu, cũng không có lúa.
Ngoài nghề nông ra, dân chúng còn làm một ít nghề khác như lò đường lò làm bánh tráng, v.v...
Tại sao phải làm rẫy giữa rừng già ? Vì thuở ấy ở đâu cũng là rừng và dân chúnh chưa có phương tiện để khai thác gỗ và không có phương tiện để khai hoang như ngày nay.
Ở rừng, khi mặt trời ngả bóng thì trời tối rất nhanh, dân chúng phải rút vào nhà rất sớm, đóng cửa cẩn mật để đề phòng thú dữ. Trong nhà chỉ có đèn dầu leo lét, tỏa ra một ánh sáng mờ. Dân chúng không có thú vui giải trí ban đêm như đàn ca, hát xướng hoặc đánh cờ tướng. Ban đêm cọp thường hay rình nhà, bắt người tha đi, nên không ai ra khỏi nhà.
Trung tâm sinh hoạt của An Phú Xã thuở ấy là ngã ba An Phú, nơi ấy có trường tiểu học bằng gạch, lợp ngói, có chợ, có vài căn phố buôn bán, có một tiệm tạp hóa nhỏ, có lò đường, có nhà máy xay lúa. Chợ không những là nới buôn bán mà còn là nơi dân chúng trao đổi tin tức cho nhau nghe.
Về phương tiện giao thông, chỉ có đi bộ, xe máy, xe bò và xe ngựa. Xe ngựa là phương tiện chuyên chở công cộng.
Dân An Phú Xã là nông dân lực lưỡng, khỏe mạnh, giỏi võ nghệ, bản tánh chân thật, tương thân tương trợ, biết chịu đựng khổ cực, gian nguy, có tinh thần ái quốc và bất khuất. Tuy là nông dân sống xa thành thị, lẻ loi giữa rừng già, nhưng họ có văn hóa cao như ta nhận thấy qua các câu chuyện về người dân An Phú xã.
Năm 1942, quân Nhật chiếm đóng ngả ba An Phú. Một số dân An Phú xã bỏ làng xóm tản cư đi nơi khác. Ba tôi đưa gia đình về sống ở Quán Tre (làng Tân Đông Thương) không theo nghề nông vì không có đất và không có an ninh. Ba tôi làm giáo viên dạy trường tiểu học Quán Tre cho đến khi cách mạng Tháng Tám 1945 bùng nổ. Người dân An Phú tạm bỏ nghề nông của tổ tiên vì thời cuộc, học lấy những nghề mới nơi thành thị để trở lại mở mang làng xóm sau nầy.
2/- Trong thời gian chiến tranh (1945-1954)
Dân chúng An Phú xã tham gia kháng chiến. An Phú xã trở thành một phần của chiến khu Tân Đông Hiệp, một chiến khu nhỏ nằm về phía tây nam của tỉnh lỵ Biên Hòa, phía bắc của căn cứ quân sự Long Phước Thôn, phía đông căn cứ quân sự An Phú Đông. Chiến khu Tân Đông Hiệp gồm có 4 xã là An Phú Xã, Thuận Giao, Tân Đông Hiệp, Tân Phước Khánh. Chiến khu Tân Đông Hiệp là nơi đặt cơ quan chỉ huy và quân đội của ủy ban kháng chiến quận Thủ Đức, Dĩ An và Lái Thiêu (Thuận An). Chiến khu Tân Đông Hiệp nối liền với chiến khu Rừng Sát qua căn cứ quân sự Long Phước Thôn, với chiến khu Hố Bò qua căn cứ quân sự An Phú Đông và Bình Mỹ, với “chiến khu Đ” qua Tân Uyên, với đồn điền cao su Bình Dương, qua xã Phú Lợi.
Khi trung tướng Nguyễn Bình vào Nam lãnh đạo cuộc chiến tranh chống quân Pháp xâm lăng, Nguyễn Bính mở hội nghị quân sự toàn Nam Bộ tại Tân Phú Xã ngày 20.11.1945, đưa ra kế hoạch “Nam Bộ Trường Kỳ Kháng Chiến” để đánh quân Pháp lâu dài. Năm 1946, tướng Nguyễn Bình làm tư lịnh Q.K. 7 và gây cho Pháp tổn thất nặng nề. Chiến khu Tân Đông Hiệp là chiến khu duy nhứt không bị quân Pháp càn quét trong cuộc chiến tranh Việt Pháp.
3/- Trong thời kỳ 1954-1963, đất nước hòa bình dưới chế độ Ngô Đình Diệm, dân chúng An Phú Xã hồi cư, tái lập lại làng xóm cũ. Ngày ấy là một ngày đẹp trời, khoảng hơn 100 dân An Phú tề tựu tai ngả ba An Phú, mở lễ hội kỳ yên, xây dựng lại ngôi đình làng cũ và bầu lại ban hội tề rồi chính thức xin phép chính quyền tái lập An Phú Xã với ban hội tề đã được bầu ra. Hồi đó có một người dân An Phú vừa làm thẩm phán, vừa là dân biểu quốc hội thời Ngô Đình Diệm cho nên việc xin phép tái lập làng cũ va ban hội tề không mấy khó khăn.
Dân An Phú Xã hồi cư càng ngày càng đông, dân cũ kéo theo dân mới. Ba tôi cùng một số bạn, phần lớn trong giáo giới trở về An Phú Xã, mở hợp tác xã nông nghiệp, vừa sử dụng đất nhà, vừa mướn thên đất của dân An Phú để canh tác, đem sức người, kỹ thuật cơ giới và tài chánh dồi dào để mở mang và phát triển An Phú Xã. Rừng rậm giờ đây đã nhường chỗ cho những cánh đồng bát ngát trồng mía, bắp, đậu, khoai. Trường học khang trang, rộng lớn, chợ và phố buôn bán, lò đường, nhà máy xay lúa, nhà máy biến chế phân bón và nông sản lại mọc lên theo đà phát triển của làng xóm. Đường sá được mở rộng từ Dĩ An và Lái Thiêu đến An Phú Xã và An Phú Xã đến Tân Khánh. Đường đã được trải đá, tráng nhựa, lưu thông dễ dàng.
Năm 1963, tôi trở lại An Phú Xã trước khi nhập ngũ tòng quân, thì An Phú xã không còn rừng rậm nữa, mà là một nơi trù phú, đông đúc dân cư như một chốn thị tứ, có trung tâm sinh hoạt, có vườn cây ăn trái đặc sản của miệt Lái Thieu - Thủ Dầu Một, có những rẫy mía, bắp khoai, đậu rộng lớn, bát ngát nằm dọc theo tỉnh lộ 743, có khu biến chế nông phẩm như lò đường, nhà máy xay lúa, nhà máy biến chế phân bón, nhà máy biến chế nông phẩm để bán ra các đô thị lớn. Sau năm 1975, khu vực Dĩ An, Lái Thiêu là khu công nghiệp như khu công nghiệp Sóng Thần 2, khu công nghiệp An Phú, khu công nghiệp Việt Nam-Singapore, khu công nghiệp Việt Hương, công ty cao su, công ty Dacco, khu công nghiệp Đồng An v. v. …
Nhìn lại An Phú, tôi nhớ đến xóm O-Heo trong câu chuyện “Rừng Mắm” của ông Bình Nguyên Lộc. Xin mươn câu văn của Bình Nguyên Lộc để kết thúc câu chuyện An Phú Xã:
“… Tổ tiên ta từ ngày xưa từ miền, từ Bắc, từ Trung tràn vào đây đều chịu số phận của cây mắm hết. Từ xứ Ðồng Nai nước ngọt cho tới đây, ở đâu cũng hoang vu cả. Họ đã ngã rạp trong chốn ma thiêng nước độc nầy để lót đường cho con cháu họ đi tới, y như đàn kiến xung phong, tốp đầu liều chết đuối, lội qua tô nước rọng hủ đường để làm cầu cho bọn đi sau vào đến nơi có chất ngọt. Nhiều lớp tiên phuông đã ngã gục như rừng mắm. Rồi thì ông sơ, ông cố con, ông nội đây là tràm mới kiếm được miếng ăn...”
An Phú Xã ngày nay đã vươn mình lên từ một khu rừng rậm, hoang vu đầy thú dữ và gian tặc để trở thành một khu nông nghiệp và công nghiệp phồn thịnh, trù phú vì người dân An Phú Xã:
- có tinh thần yêu nước. Tinh thần ái quốc đã cột họ với làng xưa xóm cũ mà họ đã tạo ra, và đem hết sức lực, tiền tài và kiến thức để xây dựng và mở mang xóm làng;
- có tinh thần chịu khó, chịu đựng khó nhọc để làm cho đất nước mở mang, trù phú, tân tiến;
- có tinh thần tương thân, tương ái để đem người dân xứ lạ về An Phú để trở thành người dân An Phú, để cùng nhau đem sức lực, kiến thức, tài giỏi và phương tiện để kiến thiết và mở mang xứ sở.
Hoa Kỳ giàu có và hùng mạnh như ngày nay cũng nhờ vào dân tứ xứ đến Hoa Kỳ và xây dựng đất nước nầy.
III. VÀI CÂU CHUYỆN VỀ AN PHÚ XÃ
1/- Lính Nhật ăn nầng nướng
Năm 1942, quân Nhật chiếm đóng ngả ba An Phú. Ai cũng biết lính Nhật là tàn ác, giết người không gớm tay. Vậy mà quân Nhật cũng chịu thua dân An Phú. Có côu chuyện truyền khẩu về việc dân An Phu cho quân Nhật ăn nầng nướng như sau:
Củ nầng là một loại củ rừng có dây leo. Củ nầng giống như củ “từ cuồi” nhưng lớn lắm, từ một đến hai gang tay. Củ nầng có chất độc thuộc loại hallucinogenes, làm cho con người cảm thấy những hình ảnh kinh dị, quái đản, làm cho người ăn lên cơn điên rồi sau đó họ ngủ say như say rượu. Củ nầng nướng tỏa ra một mùi thơm rất hấp dẫn. Người dân An Phú lân la với lính Nhật, cho họ thấy củ nầng, cho họ thấy dân chúng ăn củ nầng trộn với nếp (xôi nầng). Sôi nầng rất dẻo và thơm. Họ ăn thử thấy ngon và rất thích. Cá đã cắn câu. Một hôm nọ dân An Phú mang vào đồn cho lính Nhật mấy củ nầng đã nướng sẵn, thơm phức. Chúng cứ tưởng nầy nướng cũng nầng trộn với xôi, tranh nhau ăn. Chỉ một lúc sau, chúng la lối, có những cử chỉ lạ lùng rồi nằm lăn ra ngủ. Dân làng chỉ chờ lúc nầy tấn công vào đồn lấy vũ khí, đạn dược, quân dụng và tài liệu mật của quân Nhật, nhưng không giết một ai.
Quân nhật mất hết vũ khí như cua gảy càng, không làm gì được ai.
Ngày hôm sau, quân Nhật ở nơi khác đến mở một cuộc ruồng bố. Dân làng đã rút sâu vào rừng. Quạn Nhật không dám tiến sâu vì sợ bị tấn công hay phục kích. Dân làng biết đường đi trong rừng, còn quân Nhật thì không. Dân làng tiếp tục làm rẫy giữa rừng. Tình trạng nầy chỉ kéo dài khoảng một năm thì quân Nhật rút lui khỏi ngả ba An Phú.
Câu chuyện lính Nhật ăn nầng nướng cho thấy dân trí của người dân An Phú Xã.
1. Họ biết biến chế một củ rừng độc thành một chất ăn ngon. Củ nầng sau khi gọt vỏ và thái thành lát mỏng, ngâm vào nước một ngày một đêm, gọi là “tẻ” để cho các chất độc trong củ nầng tan vào nước. Tẻ như thế nhiều lần thì củ nầng không còn chất độc nữa và có thể trộn vào nếp nấu xôi ăn rất ngon và không độc.
2. Họ biết áp dụng chất độc của củ nầng để đánh quân Nhật, làm cho quạn Nhật nản chí mà phải rút lui.
2/- Về câu chuyện gác cu:
a/- Lời tác giả
Tôi nhớ mãi câu chuyện nầy vì tôi bị Ba tôi cú đầu đau điếng khi tôi hỏi Ba tôi tại sao gác cu là ngu ? Ba tôi bảo rằng người nào làm câu ca dao ấy thật không hiểu nguồn gốc của việc gác cu và gác cu như thế nào:
- Gác cu không phải là bẩy chim, tức là cột chim mồi dưới đất rồi rắc đậu hay lúa cho nó ăn. Các chim khác thấy vậy cũng bay xuống ăn. Người gài bẩy liền giật dây làm cho 2 cánh bẩy sập lại mà bắt chim.
- Chim cu là chim rừng, khôn ngoan, đa tình và dũng cảm. Tiếng cu gáy là tiếng thử thách và dụ dỗ. Cu trống ghét nhau tiếng gáy, cu mái nghe tiếng gáy là những lời mời mọc tình tứ. Chim cu thường đi ăn có cặp. Cu mái nghe tiếng hát của cu mồi liền bay đến. Cu trống nghe tiếng hót của cu mồi thì tức tối bay đến đá. Người dân biết đặc tính nầy của chim cu nên huấn luyện cu mồi để bẩy chim cu.
- Gác cu không phải là một nghề để sinh sống, mà là một môn giải trí của người nông dân làm rẫy giữa rừng già. Người dân rừng không thiếu thịt, cũng không bẩy chim cu để đem ra chợ kiếm tiền, cũng không ngồi núp trong bụi cây để chờ bẩy sập mà bắt chim cu. Trong băng nhạc Thúy Nga Paris 76, văn sĩ Nguyễn Ngọc Ngạn cũng không hiểu kỹ thuật gác cu và ý nghĩa của việc gác cu, cho nên giảng sai lầm về gác cu. Vì vậy nên tôi theo lời giải của Ba tôi mà thanh minh cho người An Phú.
Thiện Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét