Đôi dòng về Linh mục Phaolô Đoàn Quang Đạt
1.
Về song
thân của cha Phaolô Đạt
Theo
gia phả nhận được, cha Phaolô Đạt là con của ông Đoàn Công Qui.
Còn
theo sổ rửa tội ở giáo xứ Búng, ông Đoàn Công Huy và bà Nguyễn Thị Nhiệm đã
sinh ra và rửa tội ở Búng bảy người con, trong đó ông Tôma Đoàn Công Tửu sinh
03/05/1877 là cùng năm sinh với cha Phaolô Đạt.
Vậy
theo sổ rửa tội Búng, cha Phaolô Đạt không phải là con ông Đoàn Công Huy.
Và,
trong quyển “ Les prêtres indigènes” ở Tòa Tổng giám Mục TP HCM thì cũng không
có tên của song thân cha Phaolô Đạt, trong sổ này chỉ ghi cha Phaolô Đạt sinh
năm 1877 ở Bình Sơn; sau đó ghi các năm Cha Phaolô Đạt chịu chức linh mục, nhậm
xứ và hưu dưỡng ở Chí Hòa và năm mất.
Tóm
lại, đây là vấn đề còn mở ngõ để tìm thêm tài liệu và xác minh cho đúng.
2.
Về thiên
tài âm nhạc của cha Phaolô Đạt
Trong
số 10 bài được trích ra thì có 2 bài
“Ớ
lưỡi” có ghi “ Bố Mua 5-6-1893” và “ Tán tụng” có ghi “ tại Bố Mua 8-7-1902”.
Như
vậy cha Phaolô Đạt đã sang tác bài “Ớ lưỡi” lúc 16 tuổi (1893 – 1877) trước khi
chịu chức linh mục 23/09/1911 (lúc 34 tuổi) và bài “Tán tụng” được sang tác lúc
25 tuổi.
Chú
ý: cả 2 bài trên được ghi là ở Bố Mua (nay là giáo xứ Vĩnh Hòa, thuộc huyện Phú
Giáo, giáo phận Phú Cường). Giáo xứ Bố Mua trước đó có những người công giáo ở
xứ Búng tới và là những người góp phần tạo ra giáo xứ nầy. (xem: giáo xứ Vĩnh
Hòa trong Kỷ yếu giáo phận Phú Cường 1965 – 2005)
Những
bài kèm theo trong quyển này được trích từ:
+ 8
bài đầu trích từ quyển “ vào cung thánh 1,2” ở Tiểu Chủng Viện Thánh Giuse, Sài
Gòn, nhân dịp lễ Bách chu niên 1863 – 1963, lúc đó cha Phêrô Nguyễn là Cha phụ
trách Thánh Nhạc ở Tiểu Chủng viện (Ngài xuất thân ở Lái Thiêu).
+ 2
bài cuối (Nửa đêm và Kính nguyện Chúa Thánh Thần) trích từ tuyển tập “ Thánh Ca
Việt Nam, 2010”.
P.T
NHỮNG VỊ TIỀN PHONG
KHỞI XƯỚNG PHONG TRÀO HÁT TIẾNG VIỆT TẠI
CÁC ĐỊA PHẬN MIỀN NAM
Bài
của Đức Cha Phanxicô xaviê Trần Thanh Khâm
Đức
Cha Phanxicô xaviê Trần Thanh Khâm trước kia là một “organiste” của “ Nhà thờ
Đức Bà” tức “ Vương Cung Thánh Đường Sàigòn”. Ngài rất yêu Thánh nhạc và đã khuyến
khích nâng đỡ Thánh nhạc cũng như các nhạc sĩ Công giáo Việt Nam rất nhiều.
Ngài có quan niệm rộng rãi là: “Thời gian sẽ trả lời bài hát nào có giá trị…”,
nên ngài rất “nhân từ” trong việc kiểm duyệt, ban Imprimatur, đúng nghĩa là một
hiền phụ đáng kính.
Đặc
biệt đáp lời thỉnh cầu của chúng tôi, Ngài còn trực tiếp viết bài “Những vị
tiền phong khởi xướng phong trào hát tiếng Việt tại các địa phận miền Nam” mà
chúng tôi hoan hỉ được đăng dưới đây, để quí đọc giả được dịp hiểu rõ những
bước đầu của nền Thánh nhạc tại các địa phận miền nam…
Nhân
dịp nơi đây, UBTH chúng con xin được dâng lên Đức Cha Phaxicô , lời tri ân
thành kính sâu xa của cả UB chúng con.
TTK/UBTNVN
Cho đến năm 1910 tại các địa phận miền Nam chưa có bài hát được phổ nhạc theo qui nhạc Âu Châu để hát trong nhà thờ, bởi thế dịp lễ trọng hay các buổi rước kiệu, người ta chỉ hát những bài hát có sẵn bằng tiếng Latinh hay tiếng Pháp tùy địa phương, giáo dân không được trực tiếp tham gia những lời kinh nguyện đó, thành thử nếu tâm hồn giáo dân có được phấn khởi là nhờ những nghi lễ tôn nghiêm sầm uất bên ngoài mà thôi.
Người
khởi xướng bài hát ca đạo bằng tiếng Việt Nam là Cha Phêrô Tự, một nhà văn và
thi sĩ. Khi về nhận họ Tân Qui năm 1910, nhờ được rỗi rảnh
phần nào, ngài đã bắt đầu phổ nhạc theo cung điệu Âu Châu các bài ca ngợi Trái
Tim Chúa Giêsu và Đức Bà, tất cả ngót 100 bài.
Trong
việc sang tác này, ngài đã nhờ sự cộng tác rất đắc lực của hai vị linh mục trẻ
là cha Gabriel Long và cha Phaolô Đạt, cả hai vị rất có năng khiếu về nhạc Âu
Châu, hơn nữa hai vị cùng làm giáo sư tại chủng viện Sàigòn. Nhờ sự sống chung
tại chủng viện tạo cơ hội cho công việc sáng tác của hai ngài được dồi dào
phong phú nhất thời ấy, và đồng thời bành trướng phong trào hát tiếng Việt
trong nhà thờ và các cuộc rước kiệu Mình Thánh và Đức Mẹ.
Lối
năm 1918 các ngài cho phổ biến bằng cách in polycopie các bài ca ngợi trái tim
và Đức Mẹ, được giáo dân hưởng ứng nồng nhiệt, và khi hát lên các bài ca đó, họ
nghe hiểu hết ý nghĩa lời kinh nguyện của mình.
Từ
đó ngài bắt đầu sáng tác những bài hát bất hủ như: “Nữa đêm mừng Chúa ra đời…”
“Kinh nguyện Chúa Thánh Thần”, “Tôi kính lạy Chúa Giêsu”, “Tán tụng Ngôi cao
Thiên Chúa”,vv….Trong cách sáng tác của các ngài, có cái đặc biệt là không bao
giờ các ngài đặt ra lời, nhưng chỉ chọn những bài kinh có sẵn trong sách Mục
Lục đã được giáo quyền cho phép đọc trong nhà thờ rồi phổ nhạc lên, làm như thế
được lợi là tránh được sự kiểm duyệt phiền phức và giáo dân được nghe hiểu rõ
rang lời kinh mình đã thuộc trước.
Đang
lúc phong trào hát tiếng Việt được bành trướng mãnh mẽ, lối năm 1925, cũng có
xuất hiện ít nhiều tác giả nhạc Công giáo gồm tu sĩ và giáo dân, nhóm tu sĩ
thuộc dòng Kytô Vương, nhóm giáo dân phần đông là cựu chủng sinh. Các tác giả
đi ngược đường lối các linh mục trên, vì họ không lấy nhuững bài kinh đã có sẵn
mà phổ nhạc, họ lấy những bài nhạc đã có sẵn bằng tiếng Latinh hay tiếng Pháp,
rồi phóng tác các bài đó ra tiếng Việt Nam. Nhiều bài vì tác giả được cảm hứng
nên hát lên nghe cũng khá thâm trầm lâm ly. Về bên tác giả giáo dân cũng đưa ra
nhiều bài hát được chấp thuận. Trong số có bản “kịch Sinh Nhật” rất được
các họ đạo ưa thích cho đến nay.
Đó
là chút lịch sử về âm nhạc đạo của các địa phận miền Nam./.
Về
một bản thánh ca Giáng Sinh ''Nửa đêm mừng Chúa ra đời''
Cho
đến nay thời điểm xuất hiện của nền tân nhạc Việt Nam vẫn còn chưa được giới
nghiên cứu lịch sử âm nhạc xác định một cách rõ rệt. Có người cho rằng nguồn
gốc ấy bắt nguồn từ bản vọng cổ nổi tiếng có tên Dạ Cổ Hoài Lang của ông Sáu
Lầu viết từ năm 1916. Theo cố nhạc sĩ Lê Thương chủ trương - năm chính thức
xuất hiện của phong trào âm nhạc mới là tháng 3-1938 khi nhạc sĩ Nguyễn Văn
Tuyên từ Sài Gòn ra hô hào tại đất Bắc qua việc ông được Thống đốc Nam Kỳ thời
đó là Rivoal trợ cấp để đi diễn thuyết về âm nhạc cải cách tại Bắc hà. Tuy
nhiên vẫn có người như giáo sư nhạc sĩ Tô Vũ thì “tân nhạc viết solfège đầy
tiên xuất hiện ở Sài Gòn do một tu sĩ Công giáo người Việt Nam viết những bài
hát ca ngợi Đức mẹ từ năm 1911”. [1]
Trong
thập niên đầu của thế kỷ 20 trước đây, phong trào thánh nhạc Việt Nam ra đời
với sự xuất hiện của nhiều bài ca Công Giáo vốn được coi là những tư liệu để
chứng minh rằng có thể đây là khởi nguyên của nền âm nhạc Việt Nam chăng? Vào
thời điểm đó, một bản thánh ca bất hủ được coi là một sáng tác kiệt xuất mà
nhiều giáo xứ trước đây ở Trung, Nam hay Bắc mỗi khi mùa Giáng Sinh về cũng đều
chọn làm bài hát chính trong thánh lễ hoặc trong các hoạt cảnh văn nghệ, đó là
bài “Nửa Đêm Mừng Chúa Ra Đời”, do hai linh mục Phaolồ Đoàn Quang Đạt (1877-1956)
và Gabriel Long là đồng tác giả. Về cuộc đời của cha Gabriel Long chúng tôi
chưa có tư liệu để trình bày về tiểu sử của ngài chỉ biết cha Gabriel Long là
một vị nhạc sư có lẽ dạy ở trong Tiểu chủng viện Sài Gòn trong những năm đầu
của thế kỷ 20 và Linh mục Phaolồ Đoàn Quang Đạt là học trò của ngài.
Nếu
trong cả một rừng nhạc xuân của Miền Nam trước năm 1975, bản Ly Rượu Mừng của
nhạc sĩ Phạm Đình Chương được nhà văn Trần Doãn Nho gọi là bản quốc ca [2]
nghĩa là không thể thiếu nó trong tất cả các buổi văn nghệ mừng Xuân, và nếu
không hát bài đó thì mất đi nửa cuộc vui thì bài “Nửa Đêm Mừng Chúa Ra Đời” của
cha Gabriel Long và cha Phaolồ Đạt là đỉnh cao của nền thánh nhạc Việt Nam mùa
Giáng sinh, cũng mang một ý nghĩa từa tựa như vậy mà không thể bất cứ một bản
nhạc do nhạc sĩ Công Giáo Việt Nam nào sáng tác sau này chiếm cứ hay xô ngã
được chỗ đứng trọng yếu của nó trong lòng những người say mê nhạc giáng sinh.
Thuở
nhỏ sống tại giáo xứ Tam Tòa Đồng Hới (Quảng Bình) những năm trước khi có hiệp
định Genève chia đôi đất nước năm 1954, mỗi dịp lễ Giáng Sinh vào thời tiết rất
lạnh, tôi thường theo gia đình đi dự lễ nửa đêm và vẫn được nghe bản thánh nhạc
tuyệt vời này...
1.-
Chân dung vị linh mục nhạc sĩ ở đầu nguồn suối nhạc thánh ca.
Nói
rằng hai linh mục Phaolồ Đạt và Gabriel Long là những nhạc sĩ tiên khởi của nền
âm nhạc Việt Nam nói chung và thánh nhạc nói riêng là một lời nói không ngoa
chút nào. Chắc chắn sáng kiến sử dụng nhạc lý và ký âm pháp của nền âm nhạcTây
phương vốn được dạy trong các trường dòng, chủng viện và dòng tu Việt Nam đã
ảnh hưởng không ít đến các nhạc sĩ Việt Nam và dòng nhạc mệnh danh là nhạc tiền
chiến. Điều này cũng chứng minh rằng trong lãnh vực văn hóa đạo Công Giáo đã
đóng góp nhiều công sức của mình vào kho tàng tinh thần quý giá của Dân tộc
trong hành trình đức tin.
Theo
nhà sử học Lê Ngọc Bích (1937-2009), “Linh mục Phaolô Đoàn Quang Đạt sinh năm
1877 tại làng Bình Sơn (Lái Thiêu) ngày nay thuộc xã An Sơn, huyện Thuận An,
tỉnh Bình Dương. Tuy sinh quán tại Bình Sơn – Lái Thiêu nhưng quê quán tổ phụ
gốc từ Thừa Thiên, di dân vào Nam cuối triều Gia Long hoặc đầu triều Minh Mệnh.
Dòng họ Đoàn của cha Phaolô Đạt theo đạo Công Giáo từ lâu đời và có người làm
quan trong triều đình Huế. Có lẽ vào đầu triều Minh Mạng, nhà vua gay gắt với
đạo Công Giáo, cho nên nhiều người dòng họ Đoàn đã theo dòng người Công Giáo
chạy vào Nam trốn tránh cơn bắt đạo, tìm cuộc sống tự do để giữ đạo, cuộc sống
tự do trong muôn vàn gian khổ có thể bỏ xác ở những vùng chướng khí, ác địa,
những vùng gò nỗng cây cối um tùm đầy rắn dữ, cọp beo ma thiêng nước đôc...”
[3] Ở Thừa Thiên, tại làng An Truyền cũng gọi làng Chuồn có dòng họ Đoàn với
hai anh em nổi tiếng qua biến cố Giặc Chày Vôi ở Huế thời Tự Đức với người anh
tên Đoàn Hữu Trưng và em là Đoàn Hữu Trực cũng gọi Đoàn Tư Trực. Họ Đoàn này có
gốc ở tỉnh Quảng Bình gọi Chuồn gốc và họ Đoàn ở làng An Truyền gọi là Chuồn
ngọn. Nếu tư liệu của Lê Ngọc Bích cho rằng dòng họ Đoàn của linh mục Đoàn
Quang Đạt có người làm quan ở Huế thì biết đâu trong số những vị đó lại có bà
con liên hệ với hai anh em Đoàn Hữu Trưng – Đoàn Hữu Trực. Và vì biến cố Giặc
Chày Vôi mà nhiều người bị án tru di tam tộc trong đó có dòng họ Đoàn nên họ
phải tìm cách trốn vào Miền Nam?
Cũng
theo nhà sử học Lê Ngọc Bích, “Người họ Đoàn chạy vào Miền Nam có thể số đông,
cho nên lúc đầu định cư khai khẩn ở vùng Lái Thiêu, sau đó trong thời bắt đạo
quá gay gắt thì phân tán ra các vùng phía Đông phía Tây của đất Nam Kỳ Lục
tỉnh. Điều này, ta có thể thấy rõ nét: Linh mục Đoàn Công Quí (Thánh Tử Đạo)
sinh tại Búng (Thuận An, Sông Bé ngày nay), còn người cháu gọi bằng chú là linh
mục Đoàn Công Triệu thì sinh tại Bình Sơn. Còn linh mục Đoàn Thanh Xuân thì
sinh quán tại Lương Hòa (Long An). Qua vài nét về dòng họ Đoàn như trên, còn
cho ta thấy gia tộc của cha Phaolô Đạt có được nhiều người làm linh mục, là một
gia tộc có một nền móng đạo hạnh Công Giáo sâu xa bền vững, có được một vị hiển
thánh linh mục Tử Đạo: Thánh Đoàn Công Quí.”[4] Giống tốt thì sinh cây tốt cho
nên tất cả tinh hoa đạo hạnh của các bậc tiền bối đã quy tụ vào tài năng của vị
linh mục tác giả bài thánh ca bất hủ “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” mà chúng ta sẽ
đề cập đến sau nhưng trước tiên cần biết qua quá trình tu đức, công tác mục vụ
và sáng tác thánh nhạc của cha Phaolô Đạt.
Thuở
nhỏ, cậu Phaolô Đạt đã đáp lại ơn gọi khi được nhận vào Tiểu Chủng Viện Sài Gòn
và đã tỏ ra có tư chất thông minh nhất là có năng khiếu về âm nhạc trong những
năm theo học các lớp nhỏ. Lúc bấy giờ linh mục Phaolô Nguyễn Văn Qui là cha
giáo tại Tiểu chủng viện, một vị giáo sư thông minh và có năng khiếu âm nhạc,
đã lưu ý đến kỹ năng âm nhạc của cậu Đạt nên tận tình hướng dẫn nhạc lý, kỹ
thuật hòa âm, cách sử dụng một số nhạc khí căn bản của Tây Phương như
Harminium, Piano, Violon v.v... cho cậu. Cha Qui cũng giúp cậu dịch các bài ca
vịnh Trái Tim Chúa Giêsu và ca vịnh Đức Mẹ từ tiếng La Tinh sang Việt ngữ ngắn
gọn và phổ nhạc theo nhịp điệu riêng biệt, làm thành hai quyển: một quyển “Ca
Vịnh Trái Tim” và một quyển “Ca Vịnh Đức Mẹ”. Năm 1913, nhà in Tân Định xuất bản
cả hai quyển nói trên, có in cả nốt nhạc. Nhà in Tân Định vốn có tên Imprimerie
de la Mission là cơ quan xuất bản kỳ cựu nhất Việt Nam của Địa phận Sài Gòn vốn
đã in rất nhiều sách báo về tôn giáo và văn hóa, có cơ sở ấn loát tại nhà thờ
Tân Định đường Hai Bà Trưng, Sài Gòn.
Nghe
những bài hát ca vịnh của Thầy Phaolô Đạt, linh mục Bề Trên Chủng viện Ernest
vốn là một người giỏi dương cầm cũng phải khen ngợi: “Một lối nhạc vừa Đạo đức
vừa Dân tộc.” Cha Gabriel Long, một nhạc sư lúc bấy giờ ở Sài Gòn cũng khen
rằng: “Nhạc của Phaolô Đạt thật ngọt ngào say mến, đi sát với tinh thần của mỗi
bài hát...” Có lẽ câu nói được thường xuyên nhắc tới “ Hát bằng hai lần cầu
nguyện” cũng là lời khích lệ mọi người tu sĩ, giáo dân trong cuộc sống tinh
thần hằng ngày.
Ngày
23-9-1911, Thầy Phaolô Đoàn Quang Đạt được Đức Giám Mục Lucien Mossard (tên VN
là Mão) truyền chức linh mục tại nhà thờ Đức Bà Chính Tòa Sài Gòn. Sau khi được
thụ phong chức thánh, linh mục Phaolô dạy học tại Tiểu chủng viện Sài Gòn trong
gần hai thập niên, đem kiến thức truyền thụ lại cho các thế hệ đàn em, nhất là
phát triển kỹ năng sáng tác thánh nhạc của mình. [5] Theo tư liệu của Trần Nhật
Vy, sau khi chịu chức, linh mục Đạt làm Thư ký Tòa Tổng giám mục Sài Gòn, rồi
linh mục phụ tá nhà thờ Tân Định từ năm 1920-1933 và về phụ trách nhà thờ Bà
Rịa từ 1933-1949.
Năm
1933 làm cha sở giáo xứ Đất Đỏ (Bà Rịa, 1933-1949), linh mục Phaolô đã có sáng
kiến tổ chức sinh hoạt giáo xứ rất ngoạn mục và có nhiều ý nghĩa sâu xa như tổ
chức hoạt cảnh giáng sinh với cuộc rước tượng Chúa Hài Đồng vòng quanh nhà thờ,
hát những bài ca giáng sinh La tinh rồi sau cùng ca đoàn cử lên bài hợp xướng
“Nửa đêm mừng Chúa ra đời” do ngài sáng tác và tập dượt với phần thánh lễ kết
thúc. Có tư liệu cho rằng khi làm cha sở Bà Rịa, cha Phaolô Đạt thường xuyên
đích thân tổ chức các buổi học giáo lý vào mỗi chiều Chúa Nhật, giải thích các
lễ nghi, ý nghĩa các phép bí tích và kinh đọc hằng ngày. Cha xây dựng thói quen
đánh chuông “Truyền tin” – gọi là “Nhật một” mỗi ngày sáng, trưa, tối. Ngài
cũng lập thói quen tốt giật chuông “báo tử” đọc kinh cầu cho linh hồng người
vừa qua đời trong họ đạo. [6]. Thật ra lối đọc kinh Truyền Tin (Angelus) có từ
lâu bên Âu châu nếu ta theo dõi một bức danh họa của Rembrand vẽ hai cặp vợ
chồng của một nông dân đang làm việc ngoài đồng đang giữa trưa nghe tiếng
chuông nhà thờ đã đứng lên kính cẩn đọc kinh nhớ về Thiên Chúa, thì sáng kiến
của cha Phaolô cũng chỉ là tuân thủ theo một tập quán tôn giáo lâu đời ở Việt
Nam rất đáng phục hoạt mà thôi.
Ngày
22-11-1933, khi 56 tuổi, cha Đoàn Quang Đạt được thuyên chuyển về giáo xứ Bà
Rịa với cái đầu bạc trắng và bệnh hen suyễn khá nặng. Cha phải theo chế độ ăn
uống kiêng cử nhiệm nhặt để tránh cơn bệnh hành hạ cha suốt ngày đêm. Tuy bệnh
tình nhưng cha vẫn không bao giờ bỏ việc dâng Thánh lễ và các công tác mục vụ
khác. Tháng 8 năm 1949, Đức Cha Địa phận Sài Gòn Jean Cassaigne đưa cha về
Chủng viện để dưỡng bệnh. Sau đó linh mục Giuse Thiên, cha sở Chí Hòa xin bề
trên cho cha Đạt về nhà hưu dưỡng các linh mục ở Chí Hòa.
Sáng
ngày 21 tháng 2 năm 1956, Cha Đạt dâng thánh lễ sáng, đến trưa cơn suyễn nổi
lên quá mạnh khiến ngài không chịu nổi, đã tắt thở lúc 13 giờ trưa, thọ 79
tuổi, sau 45 năm phục vụ Chúa và dâng hiến những công trình tim óc cho nền
Thánh nhạc Công giáo. [7]
2.-
Về bản thánh ca giáng sinh bất hủ “Nửa đêm mừng Chúa ra đời”. ..
Linh
mục Phaolô Đoàn Quang Đạt có một nếp sống rất khắc khổ, đạo đức, bị hen suyễn
thường xuyên. Vốn là người đa tài thuộc nhiều lãnh vực như âm nhạc, hội họa,
kiến trúc, linh mục Đạt được coi là tác giả thiết kế nhà thờ Biên Hòa hiện nay.
[6] Những sáng tác của cha Phaolô Đạt để lại tuy ít nhưng đều là những bài hát
có chất lượng cao, kỹ thuật phong phú, điêu luyện có lẽ đã được sáng tác trong
thời gian làm giáo sư Tiểu chủng viện Sài gòn giai đoạn 1911-1933. Đó là 3 bài
thánh ca:
-
Nửa đêm mừng Chúa ra đời,
- Kinh nguyện Chúa Thánh Thần,
- Tôi kính lạy Chúa Giêsu.
- Kinh nguyện Chúa Thánh Thần,
- Tôi kính lạy Chúa Giêsu.
Các
bài thánh ca này hòa âm ba phần, tiết tấu dịu dàng, êm ái, không cầu kỳ, đúng
tinh thần thánh nhạc. Các bài ca ngợi Chúa Giêsu và ca ngợi Đức Mẹ được khắp
nơi trong các nhà thờ giáo phận Sài Gòn hát lên trong thánh lễ.
Theo
ông Nguyễn Văn Quí, “sở dĩ linh mục Đoàn Quang Đạt viết nhạc là vì những tác
phẩm ca hát trong nhà thờ trước đây đều là nhạc nước ngoài và bằng tiếng La tinh,
số đông giáo dân hát không được. Chính vì vậy, ông Đạt liền nghĩ ra cách dịch
lại những bài hát này cho giáo dân hát. Nhưng những bài hát nhạ ngoại bằng
tiếng Việt này vẫn khó hát. Cuối cùng, ông nghĩ viết hẳn những bài hát bằng
tiếng Việt ký âm theo nhạc lý phương Tây. Còn linh mục Nguyễn Hữu Tấn – giám
đốc Đại chủng viện Sài Gòn – cho biết những bài hát của linh mục Đạt rất khác
với nhạc Tây, mà giống với vọng cổ của miền Nam hơn. Còn linh mục Đỗ Xuân Quế,
đặc trách về thánh nhạc của giáo phận Sài Gòn, cũng thừa nhận linh mục Đạt “rất
giỏi nhạc” và “bài hát Nửa đêm mừng Ch ra đời của ông đến nay vẫn còn dùng”.
Linh mục Quế còn cho biết ông được nghe kể linh mục Đạt đã nghiên cứu từng bước
chân trâu bò đi trên đường để viết phần nhạc trong bài Nửa đêm mừng Chúa ra đời
và bài ca này ông đã nghe từ những năm 1930 khi còn ở miền Bắc... Thế nhưng cha
Đạt viết những bài hát ấy từ lúc nào? Theo tài liệu hiện có thì ít nhất ông đã
viết những bài hát bằng tiếng Việt từ trước năm 1913. Trong tập nhạc Ca ngợi rất
thánh trái tim đức Chúa Giêsu in tại nhà in Imprimerie de la Mission (nhà in
trong nhà thờ Tân Định) số 289 rue Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng) năm
1942 có ghi lời bạt của linh mục Phaolô Qui vào ngày 1-5-1913. Linh mục Qui mất
vào năm 1914. Một tài liệu khác là cuốn kinh Mục lục Sài Gòn in năm 1899 có
chép toàn bộ phần lời của bài ca Nửa đêm mừng Chúa ra đời, nhưng không có phần
nhạc...” [8] Như vậy bài thánh ca bất hủ Nửa đêm mừng Chúa ra đời chính là bản
tân nhạc đầu tiên của Việt Nam, xuất hiện ít nhất cũng từ năm 1899, do một linh
mục sáng tác để ca tụng Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và ở cùng chúng ta
(Emmanuel).
Cũng
theo Lê Ngọc Bích, “Anh Lê Đình Bảng, nhà thơ, nhà nghiên cứu thi ca, âm nhạc
Công Giáo Việt Nam có ý kiến rằng: “(...) Theo nhận định của những nhà nghiên
cứu về nhạc sử thì ngay từ năm 1910 ở Nam Bộ đã có những linh mục, thầy giảng,
nữ tu và bổn đạo người Việt hát hoặc điều khiển được những bài hát 2, 3 bè khá
thành thạo. Có người đã sử dụng nhuần nhuyễn các loại nhạc cụ như harmonium,
piano, violon (...) Chúng tôi dựa vào một chứng từ cụ thể của nhà in Tân Định
(Imprimerie de la Mission) năm 1942. Dó là 2 tập sách hát mang tên “Ca ngợi Rất
thánh Trái tim Đức Chúa Giêsu” và “Ca ngợi Đức Bà Maria”. Có thể xác định thời
điểm xuất hiện và tác giả của những bài thánh ca VN đầu tiên ấy qua phần giới
thiệu do “linh mục bổn quốc” Phaolô Qui (1855-1914) cha sở họ đạo Cầu Bông viết
ngày 1-5-1913 cho cả 2 tập sách này: “... Nguyên những bài ca trong sách nàyu
đã rút ra bởi những kinh (Latinh) Hội thánh quen đọc (...). Những ca ngợi ấy là
của cha Tôma Đoan, cha ở Huế và cha Phaolô Đạt.”
“Nổi
tiếng nhất trong đó có bài “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” của cha Phaolô Đoàn Quang
Đạt (1877-1956). Đã có dư luận cho rằng bài này là bản thánh ca mang dáng dấp
hợp xướng đầu tiên trong lịch sử Thánh nhạc Thánh ca Việt Nam? Chúng tôi chưa
dám đoan quyết như thế, bởi chưa có đủ chứng cứ cụ thể. Chỉ trộm nghĩ, có lẽ
cảm hứng từ những ca khúc về Giáng sinh như “Il est né le Divin Enfant”, “Les
Anges dans nos campagnes”, “Puer natus est”, “Gloria in excelcis Deo”và đặc
biệt xuất phát từ tâm tình vồn vã, sốt sắng và nhạy cảm của một người con Chúa
ở quê hương miệt vườn xứi Búng, tác giả Đoàn Quang Đạt (...)”.
“Bên
cạnh giá trị về giai điệu và cung bậc mang âm hưởng dân tộc, còn phải kể tới
giá trị về lời ca là toàn văn của bài kinh vãn cùng tên trong Sách kinh Mục lục
của địa phận Sài Gòn, một pho bách khoa toàn thư đậm đặc thứ ngôn ngữ giàu hình
tượng rất riêng của những người con Chúa ở phương Nam.” [9]
Trong
đêm Thánh ca Giáng sinh tổ chức tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo phận Sài Gòn tối
12-12-2010, ca đoàn giáo xứ Thị Nghè đã trình bày bản thánh ca Nửa đêm mừng
Chúa ra đời cùng với dàn nhạc dân tộc của các nghệ sĩ Nhạc viện Thành phố với
sự điều khiển của linh mục Sỹ Tùng. Bản thánh ca này với giai điệu du dương,
cung bậc dịu dàng mang âm hưởng dân tộc và lời hát tuy cổ xưa nhưng được sử
dụng đúng chỗ, đúng cách đã mang đến cho tác phẩm giá trị vượt cả không gian
xen lẫn thời gian cũng đáng được thưởng thức và chiêm nghiệm lại nguyên tác như
sau:
Nửa
đêm mừng Chúa ra đời. Bức khăn sạch vấn để nơi hang lừa. Nửa đêm mừng Chúa ra
đời. Cỏ rơm trải lót bơ thờ. Chút cỏ rơm bơ thờ. Cỏ rơm trải lót bơ thờ. Mượn
ấm bò lừa quỳ thở dâng hơi, quỳ thở dâng hơi. Kiểng tinh soi sáng thâu đêm.
(Soi thâu đêm) Kiểng tinh soi sáng thâu đêm.(Soi thâu đêm). Chói lói giữa trời,
nhỏ xuống Bê-Linh. Thiên thần chín đấng chầu quanh, thiên thần chính đấng chầu
quanh. Tấu nhạc rập ràng, đờn hát, đờn hát xướng ca. Vậy có ca rằng, rằng ca Thiên
Chúa, rằng ca Thiên Chúa. Ớ loài người ấy phúc lành bình an cho người vì cửa
Thiên Đàng rộng mở, Tang tình tình tang Thiên Đàng rộng mở. Tang tình tình tang
Thiên Đàng rộng mở. Chúa cả ra ơn, ơn cả chữa đời. Rằng: Hỡi chúng dân (Kìa
trong hang đá nọ), tới xem điềm lạ. Kìa trong hang đá, nọ trước lều tranh. Rằng
tính tình tang, Thánh Tiểu Hài sinh. Thật ngôi linh tính tang tình là tình
Thiên Chúa. Nằm trong !máng cỏ bó bức khăn đơn. Rằng: Bớ chúng ngươi! tới xem
điềm lạ !(Bay xem thì biết), Kìa trong hang đá, nọ trước lều tranh rằng tinh
tình tinh Thánh Tiểu Hài sinh. Thật ngôi linh tính thất tinh là tình Thiên
Chúa. Thiên thần vô số. Nhạc thổi rân. Thiên thần vô số. Nhạc thổi tung hô.”
Với
một số danh từ cổ được sử dụng nơi đây như kiểng tinh (sao sáng, rất sáng), bơ
thờ có nghĩa đơn sơ, hèn mọn, tình tang âm hưởng của những làn điệu dân ca, ớ,
bớ là những tán thán từ đậm nét dân tộc cùng với những luồng nhạc khi mạnh mẽ
như sóng gió để biểu lộ sự vui mừng, lúc chậm rãi kêu mời như tơ vàng óng ánh,
bản thánh ca Nửa đêm mừng Chúa ra đời với ba phần hòa âm nhịp nhàng, gắn bó,
quyện khúc, nâng đỡ, tung hứng trong những tiết điệu say sưa, hấp dẫn bộc lộ cả
cung lòng mến yêu diệu vợi như không thể nào nói lên hết được tâm tình của một
người tín hữu mà nhà thơ Hàn Mặc Tử từng từng thống thiết say mơ:
Cho
tôi thắp hai hàng cây bạch lạp
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập
Cả Hàn giang, cả màu sắc thinh không
Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyền ước...
Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập
Cả Hàn giang, cả màu sắc thinh không
Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng
Cho sốt sắng, cho đê mê nguyền ước...
Tru?c
khi tôi viết bài này thì cũng được biết chị Ngọc-Diếu vốn là một ca đoàn trưởng
nhiều kinh nghiệm từng đóng góp lời ca tiếng hát của mình suốt gần 60 năm từ
những ngày còn ở xứ đạo Tam Tòa, Đồng Hới, Quảng Bình năm 1949-1950 cho đến
giáo xứ Tam Tòa, Đà Nẵng năm 1954 và sau năm 1975 đến nay còn tiếp tục giúp cho
các ca đoàn của Giáo xứ Tân Hòa, Đa-Minh, Tổng Giáo Phận Sài Gòn hiện cũng đang
đóng góp phần kỹ thuật cho các ca viên hát lại bản thánh ca bất hủ này. Đây là
một nét trổi bật trong nghệ thuật thánh về nguồn thông qua suối nhạc mà công
sức của hai linh mục Gabriel Long và Phao lô Đạt cần được hậu thế ghi nhớ.
Ước
mong hằng năm vào dip lễ Giáng sinh, bài thánh ca Nửa đêm mừng Chúa ra đời dù
khó hát, khó tập vì đòi hỏi nhiều kỹ thuật và cố gắng của ca viên, sẽ được các
ca đoàn trong mọi giáo xứ trên khắp miền đất nước Việt Nam cùng các cộng đoàn
hải ngoại hát lên để nhớ về một bản thánh ca tuyệt tác của nền thánh nhạcViệt
Nam tiên phong đi vào vườn hoa nghệ thuật của Dân Tộc, mở đường cho nền tân
nhạc Việt Nam tiến lên, đồng thời cũng là để dâng lên Chúa Hài Nhi một tác phẩm
xứng đáng là đại diện của nền thánh nhạc Việt nam có khả năng chen vai thích
cánh với các bài ca bất hủ như Silent Night của Âu châu và Bắc Mỹ, Il est né le
Divin Enfant của Pháp, bài Adeste Fideles của văn chương La tinh, bản Hội nhạc
Thiên quốc của Thánh Alphonso, bài Feliz Navidad của các giáo hội Trung và Nam
Mỹ...
Jersey
City 19 -12- 2010, Mùa Giáng Sinh 2010
CHÚ
THÍCH:1.- Trần Nhật Vy, Tân nhạc
Việt Nam từ năm 1911?, Tuổi Trẻ Xuân Canh Thìn, 2000, trang 30.
2.- Trần Doãn Nho, Nhạc Xuân, Tạp chí Thế Kỷ 21, số Xuân năm 2005.
3.- Lê Ngọc Bích, Nhân Vật Công Giáo Việt Nam, Thế kỷ XVIII-XIX-XX, tài liệu lưu hành nội bộ, 2006, trang 501.
4.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 502].
5.- Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 502.
6.- Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 503
7.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 505.
8.-Trần Nhật Vy, bài đã dẫn.
9.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 504.
Nguyễn Đức Cung
2.- Trần Doãn Nho, Nhạc Xuân, Tạp chí Thế Kỷ 21, số Xuân năm 2005.
3.- Lê Ngọc Bích, Nhân Vật Công Giáo Việt Nam, Thế kỷ XVIII-XIX-XX, tài liệu lưu hành nội bộ, 2006, trang 501.
4.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 502].
5.- Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 502.
6.- Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 503
7.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 505.
8.-Trần Nhật Vy, bài đã dẫn.
9.-Lê Ngọc Bích, Sđd, trang 504.
Nguyễn Đức Cung
Patriciô
Nguyễn Văn Tiền
(Sưu
tầm & Biên soạn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét